Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

BÀI THỨ BA

26/04/201320:21(Xem: 25106)
BÀI THỨ BA


Phật Học Phổ Thông

HT. Thích Thiện Hoa


PHẬT HỌC PHỒ THÔNG KHÓA VI

TRIẾT LÝ ĐẠO PHẬT
hay là
ĐẠI CƯƠNG KINH LĂNG NGHIÊM

--- o0o ---

BÀI THỨ BA

I.- Anan cầu Phật dạy phương pháp tu hành, lần thứ hai

II.- Phật gạn hỏi lại tâm lần thứ hai.

III.- Anan chấp cái "Suy nghĩ phân biệt " làm tâm.

IV.- anan cầu Phật chỉ dạy phương pháp tu hành, lần thứ ba.

V.- Phật chỉ tâm lần thứ nhứt.

VI.- Phật chỉ cái thấy làm tâm, không phải con mắt.

VII.- Phật chỉ tâm lần thứ hai

VIII.- Anan cầu Phật chỉ dạy ở nơi thân này cái nào "chơn" và cái nào "vọng"

IX.- Vua Ba Tư nặc đứng dậy hỏi Phật .

X.- Phật chỉ tâm lần thứ ba 

XI.- Phật chỉ "cái thấy" không sanh diệt

--- o0o ---

I.- ANAN CẦU PHẬT DẠY PHƯƠNG PHÁP TU HÀNH LẦN THỨ HAI.[^]

Ông anan đã bảy lần chỉ tâm đều không trúng, vì ông chấp vọng tưởng là tâm, nên bị Phật bác cả, lần thứ hai ông đứng dậy chắp tay kính lạy, cầu Phật chỉ dạy phương pháp tu hành để thoát ly sanh tử luân hồi.

Anan thưa rằng: -Bạch Thế Tôn ! Con là em Phật, tuy đã xuất gia, mà vẫn còn ỷ lại lòng thương yêu của Phật chỉ lo học rộng nghe nhiều, không chuyên tu niệm, nên không chứng được đạo quả, chẳng hàng phục nổi tà chú của ngoại dạo Ta-Tỳ-Ca-La; trái lại, còn bị Ma Đăng già bắt vào phòng dâm...phải nhờ Phật cứu độ. Vậy cúi xin Phật từ bi chỉ dạy cho con phương pháp tu hành, để phá trừ ác chiến và chứng thành đạo quả.

Thưa thỉnh xong, Anan và đại chúng kính cẩn và trông chờ lời Phật chỉ dạy.

II.- PHẬT GẠN HỎI TÂN LẦN THỨ HAI.[^]

Lúc bấy giờ Phật gạn hỏi lại cái "tâm" lần thứ hai, và bảo ông Anan phải phân biệt rành rõ cái nào là chơn tâm, và cái nào là vọng tâm. 

Phật dạy: Ông nay muốn đặng đạo vô thượng Bồ đề, thì điều cận nhứt là phải hiểu rõ hai món căn bản: 

  • Một căn bản của sanh tử luân hồi là vọng tâm.

  • Một căn bản của Bồ đề, Niết bàn, là chơn tâm.

Nếu ông nhận lầm căn bản của sanh tử (vọng tâm) làm nhơn tu hành, thì không bao giờ giải thoát được. Cũng như người nhận giặc làm con, thì chỉ thêm bị phá hoại gia sản của mình mà thôi. Và cũng như người nấu cát làm cơm, dầu trải bao nhiêu năm cũng chẳng thành coam được.

Vậy nay ông muốn biết đường lối tu hành để ra khỏi sanh tử luân hồi, thì ông hãy nghe tôi hỏi đây:

Phật liền đưa bàn tay, coi lại năm ngónvà hỏi ông Anan rằng: Ông có thấy không?

A-nan đáp: Bạch Thế Tôn, thấy.

Phật hỏi: -Ông thấy cái gì?

Anan đáp: Con thấy Phật đưa bàn tay co năm ngón lại.

Phật hỏi: Ông lấy cái gì để thấy và lấy cái gì làm tâm?

III.- ANAN CHẤP CÁI "SUY NGHĨ PHÂN BIỆT" LÀM TÂM[^]

Anan thưa: con lấy "mắt" để thấy và cái "biết suy nghĩ phân biệt" làm tâm .

Phật quở: Dốt lắm, Anan ! cái đó không phải là tâm của ông.

LƯỢC GIẢI

Chúng ta nên lưa ý: Thông thường ai cũng đều có cái"suy nghĩ phân biệt" là tâm của mình, mà Phật lại nói "không phải tâm". Vậy chúng ta cần phải chính chắn suy xét chổ đó.

* **

Anan hoảng hốt, đứng dậy thưa Phật: Bạch Thế Tôn, cái "suy nghĩ, phân biệt" này, nếu không phải là tâm của con thì gọi nó là cái gì?

Phật dạy: nó là "vọng tưởng" (vọng tâm) . bởi các ông từ hồi nào đến giờ, lâmg nhận "vọng tưởng" làm "chơn tâm", cho nên nhiều kiếp trầm luân. Như người nhận giặc làm con, nên bị giặc phá hại.

Anan thưa: Bạch Thế Tôn, con vì thương Phật nên mới xuất gia, thì cn mới dùng cái tâm này mà thương Phật. Con phụng thờ các đức Phật trong mười phương và làm tất cả các điều công đức, cũng dùng cái tâm này. Dầu cho con có làm các điều tội lỗi, hủy báng Phật pháp, đọa vào đại ngục đi nữa, thì con cũng dùng cái tâm này. Ngày hôm nay Phật nói "nó" không phải tâm của con, như thế thành như con không có tâm; nếu không có tâm, thì con đồng như cây, đá rồi ! Cúi xin đức Thế tôn từ bi chỉ giáo.

Phật dạy rằng: này Anan nếu ông chấp cái "suy nghĩ, phân biệt" là tâm của ông, thì khi rời cảnh vật hiện tiền, cái tâm "hiểu biết, phân biệt" ấy, cũng vẫn còn, thế mới phải là tâm của ông. Nếu rời cảnh vật hiện tiền, mà tâm hiểu biết phân biệt ấy mất đi, thì không phải là chơn tâm của ông rồi.

Dầu cho ông diệt hết năm tri giác bên ngoài là thấy, nghe, hay, biết (năm giác quan), chỉ còn lưu lại cái "thầm thầm phân biệt" bên trong (thức thứ sáu) thì đó cũng là cái vọng tưởng phân biệt (ý thức thứ sáu) bóng dáng pháp trần không phải là chơn tâm của ông.

Này A-nan, tôi không bắt buộc ông phải chấp cái "suy nghĩ phân biệt" đó là không phải tâm của ông; tôi chỉ bảo ông nên chính chắn suy xét: nếu rời cảnh vật hiện tiền, mà cái "suy nghĩ phân biệt" này vẫn còn, thì mới phải thật là chơn tâm của ông.

Còn nếu rời khỏi cảnh vật hiện tiền, mà phải "suy nghĩ phân biệt" này cũng mất luôn đi, thì rõ ràng nó là cái "vọng tưởng phân biệt " (vọng tâm) bóng dáng của sáu trần, chớ không phải là "chân tâm thường trụ" của ông vậy. 

Nếu ông nhận cái "hư vọng phân biệt sanh diệt" ( vọng tưởng) nay làm tâm của ông, thì khi cảnh vật hiện tiền qua rồi, tâm ấy cũng theo cảnh vật mà diệt đi. Lúc bấy thành ra ông không có tâm rồi. Nếu không có tâm, thì ông lấy cái gì để tu hành, và thành đạo chứng quả.

Ông phải biết rằng: trong thế gian tất cả người tu hành, không được thành đạo, đều do chấp lầm cái "vọng tưởng sanh diệt" (vọng tâm) này làm chân thật (chơn tâm).

Chính ông ngày nay cũng thế, nên tuy học nhiều mà không được quả Thánh.

IV.- A-NAN CẦU PHẬT CHÆ DẠY PHƯƠNG PHÁP TU HÀNH LẦN THỨ BA.[^]

Anan cùng Đại chúng, nghe Phật nói như vậy, đều ngẫn ngơ và im lặng.

Lúc bấy giờ ông A-nan cúi đầu lạy Phật, quỳ gối chắp tay vừa khóc lóc, vừa bạch Phật rằng: Con từ khi xuất gia theo Phật đến nay, vì ỷ lại là em của Phật, tin chắc sẽ nhờ oai thần Phật ban cho đạo quả, chẳng cần tu tánh cực nhọc; không ngờ ai tu lấy chứng, không thể thay thế cho nhau được.

Hôn nay con mất "bản tâm" đi rồi thân tuy xuất gia mà tâm chẳng vào đạo, chẳng khác nào đứa cùng sanh tử bỏ cha trốn đi.

Nay con mới biết học nhiều mà không tu cũng như người không học mà cũng như người nói đến đủ các thức ăn, rốt cuộc trong bụng vẫn đói.

Bạch Thế Tôn, chúng con vì hai chứng phiền não và sở tri ràng buộc, nên không ngộ được chơn tâm. Cúi in đức Thế Tôn thương xót kẻ bần cùng, chỉ dạy cho con phương pháp tu hành, để phát minh được tâm tánh.

V.- PHẬT CHÆ CÁI "THẤY" THƯỜNG CÒN[^]

Khi ấy Phật kêu Anan , dạy rằng: -Vừa rồi ông nói "thấy năm ngón tay của ta con mắt nắm lại". Vậy thì sao có nắm tay? Và nhờ cái gì mà có cái thấy?

A-nan thưa: -Bạch Thế Tôn, nhơn bàn tay của Phật co lại năm ngón, nên mới có nắm tay, và nhờ con mắt cho nên mới có cái thấy.

Phật hỏi: Vậy thì "không bàn tay chẳng có ngón tay, cũng như không con mắt thời chẳng có cái thấy "; so sánh như thế có đúng không?

A-nan thưa: Bạch Thế Tôn, đúng.

Phật dạy: Không đúng hẳn! Không bàn tay thì không có nắm tay thì phải, không con mắt chẳng phải cái "thấy" không có. 

Ông nên ra ngoài đường hỏi những người mù mắt: "các người có thấy gì không?", thì họ đều trả lời với ông rằng: "Chỉ thấy tối đen". Như thế thì rõ ràng: Người mù không có con mắt, mà cái "thấy" cũng vẫn còn. 

Đây là cái bằng chứng: Mặc dù con mắt không có, và trần cảnh đối trước có tối và sáng khác nhau, nhưng cái thấy lúc nào cũng có (nói cái thấy là đại diện cho năm giác quan).

A-nan thư: Người mù thấy tối, thì sao gọi là thấy được? 

VI.- PHẬT CHÆ TÂM LẦN THỨ NHỨT[^]

Phật hỏi A-nan: Người sáng mắt ở trong nhà tối thấy tối, cùng với người mù mắt thấy tối, vậy hai cái tối đó có khác nhau không? 

A-nan thưa: -Bạch Thế Tôn ! không khác.

Phật hỏi: Nữa trong nhà tối thấy tối, nếu có người đem đèn vào, họ thấy được các vật, vậy cái đèn thấy hay con mắt thấy?

A-nan thưa: Mát thấy chớ không phải đèn thấy.

Phật dạy: Cũng thế, người mù mắt khi lột mây rồi, thấy được cái cảnh vật, đó là tâm thấy chớ không phải mắt thấy. 

Phật dạy tiếp: -Cái đèn chỉ làm cho sáng các vật, còn cái thấy là con mắt (dụ cho tâm) chớ không phải đèn ( dụ con mắt ). Lên một tầng nữa: con mắt chỉ làm cho tỏ rõ các vật, còn cái thấy là tâm, chớ không phải con mắt (đây là lần thứ nhứt Phật chỉ tâm ).

A-nan và đại chúng nghe Phật giảng dạy như thế rồi, đều im lặng, nhưng trong tâm thật chưa hiểu, nên đều kính cẩn chắp tay, để chờ Phật chỉ dạy thêm.

LƯỢC GIẢI

Trong đoạn này, xin nói thêm tỷ dụ này cho dể hiểu:Con mắt của người cũng như bóng đền điện, còn cái "thấy" của người cũng như điện. Khi dây đứt ( dụ dây thần kinh đứt ) bóng hư ( dụ mắt mù ) thì đèn không cháy, chớ không phải điện mất (không cái thấy ). Đến khi thay bóng mớinối dây lại, thì điện cháy trở lạ: không phải do bóng hay do dây mới có điện.

Cái "thấy?? của người cũng thế: khi mắt bị mây che thì chỉ thấy tối, chớ không phải cái "thấy" mất, đến khi lột mây rồi, thì cái "thấy" hiện ra, không phải do con mắt mới có cái thấy. Đoạn này Phật chỉ rõ cái "thấy" là tâm.

* **

VII.-PHẬT CHỈ TÂM LẦN THỨ HAI[^]

Khi đó Phật đưa bàn tay lên, năm ngón co lại rồi mở ra và hỏi ông A nan:-Ông có thấy cái gì không?

A -nan thưa:-Thấy Phật đưa tay lên co vào rồi mở ra.

Phật hỏi: Tự cái tay của ta co mở, hay "cái thấy" của ông co mở?

A-Nan thưa:- Tự tay Phật co mở, chứ "cái thấy" của con không co mở.

Phật khen: Phải lắm.

Phật lại phóng một đạo hào quang trên vai phía mặt của A nan: A-Nan liền xoay đầu ngó về phía bên mặt. Phật lại phóng hào quang trên vai phía trái của A-Nan; A-Nan xoay đầu ngó qua phía trái.

Phật hỏi: Cái đầu của ông hôm nay tại sao xoay qua lắc lại như vậy?

A-Nan thưa: vì Phật phóng hào quang trên hai vai của con, nên con xoay qua lắc lại để xem.

Phật hỏi: Vậy cái đầu của ông lắc, hay cái thấy của ông lắc?

A-Nan thưa: tự cái đầu con xoay qua lắc lại, chớ cái thấy của con không có xoay lắc.

Phật hỏi: -Cái nào động, cái nào tịnh?

A-Nan thưa:- Cái đầu của con có động và tịnh (dừng) chứ cái thấy của con không có động và tịnh.

Phật nói: Phải

Phật dạy tiếp:- Cái nào có co, có mở, có động, có tịnh, có sanh, có diệt, thì cái đó là vọng, thuộc về "khách" không phải ông. Còn cái nào không động tịnh, co mở, không sanh diệt, thì cái đó là "chơn", thuộc về "chủ" chính là ông. Như thế chơn và vọng rất rõ ràng, ông còn chưa hiểu hay sao!

Tại sao từ hồi nào đến giờ, các ông cứ nhận cái vọng-thân tứ đại giả hợp này, cho là thật "thân" của mình; cái vọng trưởng sanh-diệt này, cho là thật "tâm" của mình; cảnh vật giả tạm, cho là thật "cảnh" cảnh của mình, mà lại bỏ cái chơn tâm thường còn bất sanh bất diệt của mình saün có kia đi? Bởi thế nên các ông phải nhiều kiếp sanh tử luân hồi, thật là rất oan uổng!

LƯỢC GIẢI

Đoạn này Phật chỉ cái "thấy" không co mở, và không sanh, diêt, động, tịnh, đó là chơn tâm lưu lộ.

* **

VIII.-A NAN CẦU PHẬT CHÆ DẠY Ở NƠI THÂN NÀY CÁI NÀO "CHƠN", CÁI NÀO "VỌNG".[^]

Khi ấy A-Nan và đại chúng được nghe Phật tạm chỉ "cái thấy không động tịnh co mở là Tâm", nên tất cả đều hớn hở vui mừng, và nghĩ rằng: Từ vô thỉ đến nay, tự mình làm mất bản tâm, nhận cái vọng tưởng phân biệt theo bóng dáng của trần cảnh làm tâm, ngày hôm nay mới ngộ được Tâm mình, nên hết sức vui mừng. Cũng như đứa con nhỏ khát sữa đã lâu, nay được gặp bà tf mẫu, nên ông và đại chúng cầu Phật chỉ rõ ở nơi thân thân tâm hiện tiền đây, cái nò chơn thật không sanh diệt và cái nào hư vọng có sanh diệt.

IX.-VUA BA TƯ NẶC ĐỨNG DẬY HỎI TIẾP[^]

Khi ấy vua Ba-tư nặc đứng dậy thưa Phật:-Bạch Thế Tôn, lúc trước chưa thọ giáo với Phật , con nghe phái ngoại- đạo Ca chiên diên và Tỳ la chi tử đều nói:"Thân này sau khi chết rồi mất hẳn, gọi là Niết bàn".

Hôm nay con tuy được Phật chỉ dạy, nhưng vẫn còn hồ nghi: làm sao biết rõvà chứng chắccái tâm này không sanh diệt. Xin Phật từ bi chỉ dạy cho chúng con.

X.-PHẬT CHÆ TÂM LẦN THỨ BA[^]

Phật hỏi:-Đại vương! Cái thân của ông hiện tại đây, nó bền chắc như ngọc kim cương, còn mãi không hư họai, hay là phải hoại diệt?

Vua đáp:- Bạch thế tôn, thân con ngày nay đây, rốt cuộc rồi cũng bị hoại diệt.

Phật hỏi:-Ông chưa chết, làm sao biết nó sẽ bị họai diệt?

Vua đáp:- Bạch thế tôn, cái thân vô thường của con đây, tuy chưa chết, nhưng hiện tiền nó đã tàn tạ dần ! ngày qua, rồi lại ngày qua! Mỗi niệm qua, qua từ sát na (tíc- tắc ) không dừng!...cũng như củi đót thành tro, cháy dần cho đến lúc tiêu tan! Vì thế nên con biết, thân này nhứt định sẽ tiêu diệt.

Phật nói:- phải!

Phật lại hỏi:-Đại vương! Thân thể ông đau phảitiêu diệt liền bây giờ?

Vua đáp:- bạch thế tôn, ngày qua tháng lại, hết hạ đến đông, nó thầm già chết, cho đến ngày nay, đầu bạc răng rụng, chan lỏng gối dùn, mắt mờ tai lảng, già nua đến thế này, mà con thật không hay không biết!

Bạch thế tôn, khi con hai mươi tuổi, tuy nói rằng tuổi trẻ, thật ra nhan sắc đã già hơn khi mười tuổi. Khi ba mươi tuổi lại già hơn khi hai mươi tuổi. Cho đến ngày nay, sáu mươi hai tuổi, lại già hơn khi năm mươi tuổi.

Nó âm thầm già chết, lấy trong khỏang thời gian mười năm mà nói như vậy. Nếu chín chắn suy nghĩ, thì cái già, chết này, không phải hạn định trong khỏang mười năm hay hai mươi năm, mà thật ra, mà nó già từng năm, từng tháng, từng ngày. Nếu suy nghĩ kỷ hơn nữa, thì nó gìa, chết từng phút, từng giây và từng sát na ( tíc tắc )! Năm nay già hơn năm rồi, tháng này già hơn tháng trước, ngày hôm nay già hơn ngày hôm qua, giờ này già hơn giờ trước. Phút này già hơn phút trước, cho đến sát na này cũng già hơn sát na trước. Thế nên con biết, thân này rốt cuộc rồi cũng tiêu diệt.

LƯỢC GIẢI

Cũng như cái đồng hồ, vì có chạy từng giây, cho nên mới qua từng phút. Bởi có đi từng phút, nên mới chỉ đến từng giờ, và ngày v.v...thân này già chết cũng thế.

* **

Phật hỏi:-Đai vương ! Ông thấy cái thân thể của ông âm thầm già chết như thế, nên ông lo buồn; vậy ở nơi thân thể sánh diệt, già chết này, ông có biết được cái gì chẳng sanh diệt già chết không?

Vua Ba Tư Nặc chắp tay cung kính thưa:-Bạch thế tôn, con thật không biết?

XI.-PHẬT CHÆ CÁI "THẤY" KHÔNG SANH DIỆT[^]

Phật dạy rằng: -tôi nay chỉ cho ông thấy cái không sanh diệt.

Này đại vương, khi ôngmấy tuổi mới thấy được nước sông hằng?

Vua đáp:- khi lên ba tuổi, con được mẹ bồng đến yết kiến thành tỳ bà thiên ( thành trường thọ ) đi ngang qua sông này , nên lúc bấy giờ , con đã thấy được sông hằng.

Phật hỏi:-hôm nay ông thấy sông hằng, vậy cái "thấy" đó là khác không?

Vua thưa:- khi con ba tuổi thấy sông hằng, đến lúc ba mươi tuổi và nay được sáu mươi hai tuổi thấy sông hằng cũng đều không khác.

Phật dạy:ngày nay ông lo buồn cho thân ông già yếu, đầu bạc mặt nhăn, không được như lúc còn trẻ. Vậy nay sáu mươi hai tuổi ,ông xem thấy sông hằng, cùng với khi còn trẻ thấy sông Hằng, cái"thấy"đó có già trẻ chi không?

Vua Ba tư nặc thưa: bạch thế tôn , cái "thấy" không có già trẻ.

Phật dạy, này Đại vương thân thể mặt mày ông tuy già, vậy cái nào có già, thì cái ấy sẽ bị biến đổi ,tiêu diệt; còn cái nào không già, thì cái đõ không bọ biến đổi tiêu diệt. Nó đã không sanh diệt, thì đâu có bị ông làm cho nó sanh tử luân hồi được . rõ ràng như thế, ông không hiểu sao mà còndẫn lời của ngoại đạo Mạt -già -Lê nói: thân này chết rồi hòan tòan diệt mất?

Vua cùng đai chúng nghe Phật dạy rồi, đều biết rằng:người chết rồi, là tâm bỏ thân này thọ thân khác, không phải mất hẳn. Ai nấy đều hớn hở vui mừng vì đặng lợi ích chưa từng có.

LƯỢC GIẢI

Đọan này Phật chỉ thấy không già trẻ, sanh diệt đó là Tâm

---*^*---


Chân thành cảm ơn Đạo hữu Tâm Diệu đã gởi tặng phiên bản điện tử tập sách này
( Trang nhà Quảng Đức, 02/2002)

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
25/02/2019(Xem: 15763)
Bức Tượng Phật ngồi lưng vua độc nhất Việt Nam ở Hà nội, Vua Lê Hy Tông cho tạc tượng đặt trong chùa Hòe Nhai để bày tỏ sám hối vì đã cư xử sai lầm với đạo Phật
19/01/2019(Xem: 4714)
Ngày nay Phật Giáo đã đi vào sinh hoạt thường nhật của người dân Mỹ một cách sâu rộng, từ những giờ phút thực hành Thiền trong quân đội, sở cứu hỏa, ty cảnh sát, trường học và công tư sở đến phương thức trị liệu tâm lý trong y học.
10/12/2018(Xem: 11110)
Lời tác giả: Việc biên soạn chắc chắn không tránh khỏi những chỗ sai sót, chúng tôi ước mong được sự lượng thứ của các bậc cao minh. Những sự sửa sai và bổ khuyết của quý vị độc giả sẽ giúp bài viết này được đầy đủ và hoàn hảo hơn trong lần viết lại; đó quả là niềm vinh hạnh cho chúng tôi. NVT
26/11/2018(Xem: 7535)
4 năm học đó, chỉ là sự tiếp nối của những năm Trung cấp hay cao đẳng trước đó và nó sẽ mở ra cho quý vị, những năm học tiếp theo của hậu đại học bao gồm chương trình thạc sĩ và tiến sĩ… Nhưng, nếu trong 4 năm học này, mà những Tăng Ni sinh nào, học thiếu tinh cần, thì quý vị khó tiến xa hơn trên sự nghiệp tri thức và lại càng khó tiến xa hơn trên sự nghiệp trí tuệ.
25/11/2018(Xem: 4011)
Sắc lệnh bảo vệ đời sống và môi trường thiên nhiên ban ra cách nay 23 thế kỷ
22/10/2018(Xem: 4859)
Viết về lịch sử là một việc làm quan trọng, vì nếu không có quá khứ thì sẽ không có hiện tại, mà hiện tại không có thì chắc rằng vị lai cũng sẽ không. Do vậy tìm về cội nguồn, gốc rễ của mọi vấn đề là bổn phận của người đi sau, phải tiếp nối bước chân của những người đã đi trước để nối liền dấu vết của quá khứ. Có như vậy dòng chảy của lịch sử mới luôn truyền thừa được.
20/07/2018(Xem: 13867)
Vào tháng 10, mùa đông, nhằm tiết đại hàn, giá lạnh, vua Lý Thánh Tông (1023 – 1072) nói với các quan hầu cận rằng: "Trẫm ở trong cung, sưởi than xương thú, mặc áo lông chồn còn rét thế này, nghĩ đến người tù bị giam trong ngục, khổ sở về gông cùm, chưa rõ ngay gian, ăn không no bụng, mặc không kín thân, khốn khổ vì gió rét, hoặc có kẻ chết không đáng tội, trẫm rất thương xót. Vậy lệnh cho Hữu ty phát chăn chiếu, và cấp cơm ăn ngày hai bữa.” (1)
14/07/2018(Xem: 8624)
Đức Phật ra đời vào năm 624 trước tây lịch tại nước Ấn Độ. Ngài thuyết pháp 49 năm. Phật giáo đã trở thành quốc giáo, vì các vua, các quan và dân chúng đa phần đều theo đạo Phật. Nay trên trang website của nước Ấn Độ thống kê Phật giáo chỉ có 0,7 % của dân số Ấn Độ. Quý vị có thể tham khảo trang nhà nước Ấn Độ theo đường nối kết bên dưới.
18/06/2018(Xem: 11651)
Theo học giả Sthiti Das, có 12 nguyên nhân chánh như sau: 1) Giáo đoàn đồi trụy Theo thời gian, phần nhiều các giáo đoàn Phật giáo trở nên đồi trụy. Tăng lữ và tín đồ đã biến chất thành xa hoa và hưởng thụ. Họ tích trữ của cải và vàng bạc, trở nên tham lam và đua đòi vật chất. Rồi họ sống đời vô kỷ luật. Gương xấu và nếp sống bê tha của họ khiến cho dân chúng chán ghét. Người ta không thích đạo Phật nữa.
21/03/2018(Xem: 17503)
Chúng ta đang ở vào năm thứ 18 của Thế Kỷ 21 và chỉ còn 82 năm nữa nhân loại sẽ bước vào Thế Kỷ 22. Có rất nhiều biến động của thế kỷ trước mà chúng ta đã quên mất rồi. Nhân dịp về hưu rảnh rỗi tôi lục lại cuốn Biên Niên Sử Thế Kỷ 20 (Chronicle of the 20th Century) để xem nhân loại phát minh ra những gì, chịu những thống khổ, những vui buồn như thế nào và có bao nhiêu cuộc chiến tranh giữa các đế quốc. Sự thực phũ phàng của 118 năm qua là, một quốc gia tuy nhỏ bé nhưng có vũ khí tối tân và bộ máy quân sự khổng lồ vẫn có thể bá chủ thế giới và biến các quốc gia to rộng gấp mười lần mình thành nô lệ. Do đó muốn tồn tại trong độc lập, ngoài phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học, lúc nào cũng phải tăng cường binh bị, vũ khí cho kịp đà tiến triển của nhân loại. Sách lược ngoại giao cũng là một vũ khí nhưng sức mạnh quân sự của một quốc gia là loại vũ khí vững chắc nhất.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]