Phật giáo có lẽ được truyền vào Việt Nam bằng đường biển khoảng đầu thế kỉ thứ I Tây Lịch. Tài liệu Trung quốc ghi là thế kỉ thứ II ở Bắc bộ Việt Nam đã có một cộng đồng Phật giáo khá phát triển. Có hai vị tăng rất hoạt động trong khoảng thế kỉ II và III là ngài Mâu Bác (Mou-po) và ngài Khang-Tăng-Hội (K'ang Seng Hui).
Tuy nhiên, lịch sử Phật giáo Việt Nam chánh thức bắt đầu khi ngài Tì-ni-đa Lưu-chi (Skrt: Vinitaruci) đến Việt Nam vào năm 580. Ngài là cao tăng đã thọ giáo với Thiền tông Tam Tổ Tăng-xán (Seng Shang) trước khi Thiền tông Trung quốc tách làm hai nhánh Thiền (Nam Huệ Năng, Bắc Thần Tú). Dòng Thiền đầu tiên của Việt Nam chấm dứt khi vị Tổ thứ 28 qua đời năm 1216, tuy nhiên nhánh Thiền Tì-ni-đa Lưu-chi vẫn có thạnh hành, nhất là ở Bắc bộ.
Dòng Thiền thứ Hai ở Việt Nam được bắt đầu với thiền sư Vô Ngôn Thông (Wu Yen Tung, d. 826) là một đệ tử đắc đạo của Thiền sư nổi tiếng Bách Trượng ở Trung quốc. Dòng Thiền Vô Ngôn Thông chấm dứt vào khoảng thế kỉ 13, tuy nhiên phái Thiền nầy vẫn còn tồn tại. Mặc dầu hai dòng Thiền Tì-ni-đa Lưu-chi và Vô Ngôn Thông hiện nay không còn, chúng đã đặt nền tảng cho sự hòa hợp giữa Phật giáo và chủ nghĩa dân tộc bắt đầu từ đời nhà Đinh (969-981). Vua Đinh Bộ Lĩnh thành lập Giáo hội Tăng-già do nhà nước bảo trợ, và bắt đầu truyền thống bổ nhiệm cao tăng làm cố vấn cho triều đình, những chức vụ nầy trước kia đều do Nho sĩ đảm nhiệm.
Khoảng đầu nhà Lê (981-1009), toàn bộ Tam tạng Kinh điển Trung quốc được nhập cảnh, để làm cơ sở giáo lí cho Phật giáo Việt Nam.
Đời nhà Lí (1010-1225) là thời vàng son của nước Việt độc lập và thịnh vượng. Trước đời Lí, nước Việt Nam chỉ giới hạn ở Bắc bộ và do người Tàu cai trị. Sau thời kì nầy, mặc dầu có sự nới rộng lãnh thổ, Việt Nam vẫn bị quấy nhiễu bởi người Mông Cổ, thèm muốn bởi các triều Nguyên, Minh và Thanh của Trung quốc - và cuối cùng bị người Pháp đô hộ. Năm 1069, nhà Lí mở chiến dịch Nam tiến, diệt người Chàm và mở rộng lãnh thổ tới vĩ tuyến thứ 17 - và ranh giới nầy về sau đã chia cắt miền Bắc và miền Nam cho tới năm 1975, khi Cộng Sản miền Bắc xâm chiếm miền Nam và thống nhất lãnh thổ.
Trong chiến dịch Nam tiến của nhà Lí, một tù nhân đặc biệt từ xứ Chàm được đưa về Bắc bộ. Tù nhân đó là ngài Thảo Đường, một vị tăng của truyền thống Thiền Tịnh song tu, thạnh hành thời nhà Tống ở Trung Quốc. Với sự ủng hộ mạnh mẽ của vua Lí Thánh Tôn, trị vì từ 1054-1072, dòng thiền Thảo Đường phát triển, đường lối Thiền Tịnh song tu được thạnh hành và vẫn giữ được vị thế đó cho đến ngày nay...
Để góp phần cho sự tranh đấu dành độc lập từ thực dân Pháp, năm 1932 một phong trào được phát động từ chùa Từ Đàm ở Huế nhằm thống nhất Phật giáo ba miền. Phong trào nầy đặt cơ sở cho Hội Phật giáo Việt Nam Trung Ương năm 1932, và năm 1952 Giáo hội Phật giáo Việt nam Thống nhất, tổ chức nầy năm 1963 đã giúp lật đổ chế độ của Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
Với sự sụp đổ của chánh quyền Sài Gòn vào năm 1975, dưới chế độ Công Sản, một Giáo hội Phật giáo do nhà nước kiểm soát được thành lập. Chánh quyền CS sửa đổi luật lệ của Giáo hội Phật giáo do họ điều khiển - điều nầy bị chống đối quyết liệt bởi các Giáo hội Phật giáo lưu vong ở nước ngoài.
Thời cổ, miền Bắc Việt Nam (Bắc bộ) trải qua nhiều thế kỉ, là một tỉnh của Trung quốc. Phía Nam là các nước Phù Nam và xứ Chàm chịu ảnh hưởng Ấn độ giáo, sau đó bị người Việt tràn ngập. Người Việt bắt nguồn từ phía Bắc, đã bành trướng và chiếm trọn lãnh địa phía Nam. Họ dành được độc lập từ người Tàu vào thế kỉ thứ 10, nhưng ảnh hưởng của Trung quốc vẫn còn mạnh mẽ và lâu dài, cho nên nhánh Phật giáo Nguyên thủy từ Tích Lan không đạt được thắng lợi ở Việt Nam như ở các nước Đông Nam Á khác. Thay vào đó, Phật giáo Đại thừa, với sự hòa hợp thành công của Thiền và Tịnh độ, chiếm thượng phong ở miền Nam cho đến khi Cộng Sản xâm chiếm miền Nam năm 1975. Tuy nhiên, từ đó ảnh hưởng của Phật giáo, trên toàn cõi Việt Nam, vẫn còn mạnh mẽ, mặc dầu đôi khi cũng có báo cáo về các hoạt động đàn áp.của nhà cầm quyền CS.
Đặc điểm quan trọng của Phật giáo Việt Nam:
Việt Nam hiện nay là nước duy nhất trên thế giới có một Giáo hội Phật giáo Thống nhất trong đó cả hai nhánh Phật giáo Nguyên thủy và Phật giáo Đại thừa đều có đại diện tương xứng. Điều nầy đáng chú ý, bởi vì Việt Nam phần lớn là Đại thừa, chỉ có những nhóm nhỏ Phật giáo Nguyên thủy ở các vùng tiếp cận với Kampuchia, một xứ Phật giáo Nguyên thủy chính thống.
(“Buddhism in Vietnam”, Seeker’s Glossary of Buddhism, p. 528-530, Thích Phước Thiệt dịch)
Tôi pháp danh Thích Quảng Đức, Hòa thượng trụ trì Chùa Quán Âm Phú Nhuận ( Gia Định).
Nhận thấy Phật giáo nước nhà đương lúc ngửa nghiêng, tôi là một tu sĩ mệnh danh là trưởng tử của Như Lai không lẽ cứ ngồi điềm nhiên tọa thị để cho Phật Pháp tiêu vong, nên tôi vui lòng phát nguyện thiêu thân giả tạm này cúng dường chư Phật để hồi hướng công đức bảo tồn Phật giáo.
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Dù trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung.
Trong bài diễn văn khai mạc lễ đặt đá xây dựng Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên, Thiền sư Thích Thanh Từ, Viện trưởng Thiền viện Trúc Lâm Đà lạt, người có ảnh hưởng lớn nhất đến việc xây dựng các Thiền viện Trúc Lâm ở Việt Nam trong đó có Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên và là người mang tâm nguyện lớn lao làm sống lại tinh thần Thiền phái Trúc Lâm của dân tộc.......
Phần lớn số gạch này đều để trơn, không hoa văn, thường có màu đỏ hoặc đỏ tím sẫm, độ nung cao, khá cứng. Một số viên có trang trí hoa văn họa tiết hình hoa cúc được in nổi với cánh nhỏ, đều và uốn lượn mềm mại trong khung nổi hình tròn, ở góc cũng in nổi các cánh hoa cúc nhỏ; một số được trang trí họa tiết hoa sen cách điệu.
Như một dòng chảy liên tục trong dòng chảy lớn của lịch sử dân tộc, kể từ khi được các tăng sĩ Ấn Độ du nhập vào đất Việt từ thời Hùng Vương, Phật giáo đã hội nhập vào dòng sinh mệnh của đất nước và đóng góp những nỗ lực làm thăng hoa nếp sống chung của dân tộc. Trên đất nước lớn lên từ huyền thoại Tiên Rồng, Phật giáo Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử của nó đã trở thành một lối sống gắn liền với dòng sống của dân tộc.
Khởi nguyên Phật giáo Việt Nam không chỉ là vấn đề riêng của Phật giáo. Nó liên quan tới giai đoạn cổ sử của đất nước, một giai đoạn xây dựng nền tảng văn hóa cho dân tộc có nhiều huyền thoại hơn sự thật, nhiều giả thuyết hơn là chứng liệu lịch sử. Cho nên những sử liệu Phật giáo trong giai đoạn này tuy ít ỏi cũng góp phần quan trọng giúp soi rọi lại một thời quá khứ xa xưa mà chúng ta có thể hãnh diện, một di sản tiền nhân để lại trong đó Phật giáo góp phần quan trọng.
Cũng như triều đại nhà Ðinh (968-980) trước đó, triều đại Lê Ðại-Hành (980-1005) (1) là một triều đại vẻ vang trong lịch sử dựng nước của nước ta, nhưng sự nghiệp ấy quá ngắn ngủi vì sự phá nát của vua Lê Long-Ðĩnh (1005-1009) (2), cho nên bắt buộc phải có một sự đổi thay. Phú cường và an cư lạc nghiệp là những nhu cầu thiết yếu của quốc gia dân tộc, và đó đã là động cơ thúc đẩy Lí Công-Uẩn (3) lên nắm chính quyền (1010-1028) để phục hưng quốc gia, bảo vệ tinh thần đạo đức của dân tộc.
Từ cuối năm 1995, sau khi đã thấy rõ 36 quân của Trò Khép-Mở KIANO Close-Open Game [một trò-chơi kết-tinh giữa Văn-hóa truyền-thống của Việt-Nam (mà hình ảnh mâm Bánh-Dầy và Đồng Bánh-Chưng lớn buộc bằng 4 lạt, từ thời Tổ Hùng-Vương truyền ngôi cho con-thứ Lang-Liêu, là chính) và luật đối-xứng quân-bình của thiên-nhiên (mọi sinh-vật đều có trục đối-xứng quân-bình tự-thân để dễ tồn-tại)] là 64 tượng-quẻ của Việt Dịch, tôi nhận ra những di-tích của Văn-Minh Việt-Nam (như Gậy-Thần 9 đốt, Thành Cổ-Loa, Chùa-Một-Cột...)
Pho tượng nổi tiếng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay ở chùa Bút Tháp chứa đựng nhiều "ẩn ngữ", triết lý sâu xa. Nó cho ta biết nhiều nét về quan điểm thẩm mỹ, nhân sinh quan và vũ trụ quan của người Việt thời Hậu Lê, nửa sau thế kỷ 17.
Với một vị trí ở giữa cảnh quan núi non rất đẹp, kiến trúc qui mô tráng lệ và có nhiều cổ tích văn vật có giá trị văn hóa nghệ thuật, chùa Hoa Đình được xem là một danh lam cổ tự nổi tiếng bậc nhất ở Côn Minh. Chính vì thế, năm 1983, Quốc vụ viện công nhận chùa Hoa Đình là một tự viện trọng điểm của Phật giáo Trung Quốc
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường, nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.
May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland, Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below, may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma, the Land of Ultimate Bliss.
Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600 Website: http://www.quangduc.com
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.