Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

07. Phật giáo Trung quốc

10/10/201112:59(Xem: 8338)
07. Phật giáo Trung quốc

CÁC BÀI
HỌC PHẬT
PHÚC TRUNG Huỳnh Ái Tông

Phần 1: ĐẠI CƯƠNG

Phật giáo Trung quốc

I.- Dẫn nhập: Một ngàn năm Trung Quốc đô hộ Việt Nam, chúng ta chịu nhiều ảnh hưởng của Trung Quốc. Phật Giáo truyền vào Việt Nam từ Ấn Độ và Trung Quốc, về sau này chỉ còn có Trung Quốc mà thôi, vả lại Phật Giáo Trung Quốc là Đại Thừa Phật Giáo, do đó chúng ta cần phải biết về Phật Giáo Trung Quốc.

II.- Thời kỳ du nhập:Có nhiều thuyết nói về thời kỳ khởi thuỷ, Phật Giáo du nhập vào Trung Quốc, nhưng có thuyết nói rằng Niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ 10 (năm 67 TL), vua Minh Đế nhà Hậu Hán, nằm mộng thấy người vàng, có hào quang rực rỡ từ phương Tây tới, làm sáng tỏ cả cung điện, vua đoán biết có Phật Giáo ở phương Tây, liền sai Thái Hâm, Vương Tuân, Tần Cảnh và tuỳ tùng cả thảy 18 người sang Tây vực thỉnh tượng và kinh sách, nửa đường gặp hai nhà sư Ấn là Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan đang tải kinh, tượng bằng ngựa trắng đi về phía Đông, liền mời hai vị ấy tới Trung Hoa, Vua Minh Đế rất mừng, cho cất nhà quán để thờ Phật, ở và dịch kinh, nơi đó đặt tên là Bạch Mã Tự. Hai vị nầy đã dịch Tứ Thập Nhị Chương, hiện nay vẫn còn lưu truyền, đây là quyển kinh dịch chữ Phạn sang chữ Trung Hoa đầu tiên.

Sở Vương Anh là em của vua Minh Đế sùng tín đạo Phật, do đó nhiều người tin theo. Rồi những vị sư Ấn Độ khác tiếp tục đến Trung Hoa như An Thế Cao (Arsakes ) năm 147 đến Lạc Dương, ngài đã dịch kinh Tiểu thừa như Tứ Đế Kinh, Chuyển Pháp Luân Kinh, Bát Chính Đạo Kinh rồi sau đó ngài Chi Lâu Ca Sắm (Lokaraksa ) đến Trung Hoa trong khoảng 178-189, trong 12 năm ngài đã dịch nhiều kinh điển Đại thừa như Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Kinh Bang Chu Tam Muội, Kinh Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác, hai ngài đã dịch một số kinh, là nền tảng vững chắc cho Phật Giáo từ đây.

III.- Những thời kỳ hưng thịnh

1) Thời kỳ thứ nhất(Thế kỷ 3 đế Thế kỷ 4):Trong thời kỳ này có những vị sư Ấn độ, Tây vực, Việt nam sang truyền đạo trong đó có ngài Đàm Ma La Sát (Dharmaraksha) tức là Trúc Pháp Hộ là người dịch kinh nổi tiếng hơn cả, ngài đi tu lúc 8 tuổi, tinh thông Lục kinh, Bách gia chu tử, sau lại sang Tây vực nghiên cứu kinh điển, là người bác học đa văn cho nên đệ tử theo ngài có hàng ngàn, mến đức độ ngài nên tôn xưng ngài là Đôn Hoàng Bồ Tát (ngài sanh ở Đôn Hoàng, tỉnh Cam Túc).

Sau đó ngài Cưu Ma La Thập, tiếp nối sự nghiệp hoằng dương chánh pháp, đã đưa Đạo Phật ở Trung Hoa đến địa vị vô cùng rực rở.

Phong trào Nhập Trúc Cầu Pháp tức là đi sang Thiên Trúc (Ấn Độ để học hoỉ giáo lý), mở đầu là ngài Chu Sĩ Hành đời Tam Quốc tới Tây Vực, sau này có ngài Pháp Hiển là nổi tiếng nhất trong thời kỳ nầy, ngài đi từ Tràng An năm 339, sang Ấn Độ đi nhiều nơi và về đến Thanh Châu (Sơn Đông) năm 414, ngài có sáng tác Phật Quốc Ký, sách có giá trị để nhiên cứu trạng thái Phật Giáo Ấn Độ thời bấy giờ.

2) Thời kỳ thứ hai (Thế Kỷ V đến thế kỷ VI): Trong thơì kỳ nầy, có nhiều cao tăng gây thêm uy tín cho Đạo Phật như Ngài Huệ Lâm được tham dự triều chính. Thời kỳ này có Lương Võ Đế là ông vua tin Phật Giáo đứng bậc nhất trong Lịch Đại Hoàng Đế ở Trung Hoa. Ngài Bồ Đề Đạt Ma vị Tổ thứ 28 từ Ấn Độ sang Trung Hoa năm 520, lập thành Thiền Tôn Trung Hoa, sau ngài truyền Y Bát và Kinh Lăng Già cho Huệ Khả, Huệ Khả truyền cho Tăng Xán, Tăng Xán truyền cho Đạo Tín, Đạo Tín truyền cho Hoằng Nhẫn, đệ tử của Hoằng Nhẫn có Thần Tú ở phương Bắc, Thiền phương Bắc của Thần Tú gọi là Bắc Tiệm và Hoằng Nhẫn truyền Y Bát cho Huệ Năng ở phương Nam gọi là Thiền Nam Đốn, đến Huệ Năng bỏ lệ truyền Y Bát, sau này Thiền Tôn của Huệ Năng chia thành 5 tôn là: Lâm Tế, Quy Ngưỡng, Tào Động, Vân Môn và Pháp Nhãn. Lâm Tế Tôn sau chia thành 2 phái là: Hoàng Long và Dương kỳ. Lịch sử Phật Giáo Trung Hoa gọi là "Ngủ Gia, Thất Tôn".

Thiền Tôn nhiều đời truyền sang Việt Nam nổi tiếng như Tỳ Ni Đa Lưu Chi sang Việt Nam ở chùa Pháp Vân, năm 580 lập phái Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi; Vô Ngôn Thông đến Việt Nam năm 820, lập thành phái Vô Ngôn Thông, đệ tử của ngài Tuyết Đậu lập nên phái Thảo Đường. Ngài Nguyên Thiều phái Lâm Tế sang Việt Nam vào thế kỷ 17.

3) Thời kỳ thứ ba (Thế kỷ VII đến thế kỷ IX):Đến đời Đường Thái Tôn, sau thời gian giặc giả, Phật Giáo hưng thịnh, có Trần Huyền Trang (600-664) đi sang Ấn Độ học hỏi giáo lý từ năm 629, đến năm 645 mới trở về, ngài có đến Na Lan Đà (Nalanda) thụ giáo với ngài Giới Hiền Luật sư, thỉnh được nhiều Xá Lợi Phật và kinh đem về Tràng An, được vua Đường Thái Tôn rất quý trọng, vua cho xây Đại Từ Ân để ngài tổ chức việc dịch kinh, ngài dịch được 76 bộ gồm 1349 quyển. Ngài Huyền Trang có sáng tác Đại Đường Tây Vực Ký gồm 12 quyển, ghi chép trạng thái tôn giáo, địa lý, lịch sử, phong tục Ấn Độ thời bấy giờ, dân gian dựa theo đó sáng tác thành truyện và Ngô Thừa Ân ghi chép lại thành truyện Tây Du Ký. Sau này còn có Nghĩa Tịnh (635-713), cũng đi sang Ấn Độ bằng đường biển năm 671, ngài cầu học trong 20 năm, thỉnh về nhiều kinh, dịch ra 68 bộ gồm 290 quyển. Ngài có sáng tác Đại Đường Cầu Pháp Cao Tăng và Nam Hải Ký Quy Truyện ghi chép trạng thái Phật Giáo Ấn Độ đương thời.

4) Thời Kỳ thứ tư (960-1661):Tống Thái Tổ sau khi tức vị liền lo việc phục hưng Phật Giáo, vì đã bị phế Phật của Thế Tôn nhà Hậu Chu, vua độ cho 800 đồng tử xuất gia, mời danh tăng vào cung giảng đạo, ban áo màu tía, sai 157 người đến Tây Vực cầu pháp, hạ sắc lệnh khắc Đại Tạng Kinh, vua Thái Tôn cũng tận lực phục hưng Phật Giáo, đến đời nhà Minh (1368-1661) vua Thái Tổ nhà Minh là Chu Nguyên Chương vốn là một vị Sa Di, nên sau khi lên ngôi, ngài lo chấn hưng Phật Giáo, các vua nhà Minh ngoại hộ, sự thống lĩnh giáo đoàn chỉnh đốn trang nghiêm, nên Phật Giáo được hưng thịnh một thời.

IV.- Những thời kỳ suy vong

Phật Giáo Trung Hoa có những thời kỳ bị pháp nạn suy vong, tất cả có 4 lần, thường được tóm tắc là "Tam Võ, Nhất Tôn chi ách"hay "Tam Võ Nhất Tôn pháp nạn".

1) Thời kỳ thứ nhất , Võ Đế Bắc Nguỵ phá Phật (446): Vua Thái Võ Đế lúc đầu cũng tin theo Phật, nhưng về sau tin theo quan Tư Đồ là Thôi Hạo, người có hoài bảo lấy Nho giáo làm trung tâm văn hóa và Đạo sĩ Khẩu Khiêm Chi là người tận lực hoằng dương Đạo Giáo, nên cả hai có ý tiêu diệt Phật Giáo, khi Thiểm Tây có Cài Ngộ nổi loạn, vua thân chinh đi dẹp, tới chùa Tràng An khám thấy trong chùa có vũ khí, lại nghe lời gièm pha của Thôi Hạo và Khẩu Khiêm Chi nên vua ra lệnh phá bỏ Phật Giáo (năm 446). Lệnh nầy ban ra nhiều chùa chiền bị phá hay tịch thu dùng vào việc khác. Tăng Ni phải trốn vào rừng sâu núi thẳm hay hoàn tục, sau khi Võ Đế mất, con là Văn Thành Đế lên ngôi liền cho phục hưng lại Phật Giáo.

2) Thời kỳ thứ hai, Võ Đế Bắc Chu phá Phật (577):Võ Đế Chu có hoài bão thống nhất lễ giáo, thôn tính Bắc Tề, thống nhất thiên hạ và năm 567 có Vệ Nguyên Trung dâng vua đề án, phá bỏ các chùa, chỉ lập một chùa lớn là Bình Đẳng Diên Tự, ngôi chùa này là nơi quy tụ vạn dân, Hoàng Đế tức là Như Lai, có những cuộc tranh luận tại triều đình giữa Đạo Giáo và Phật Giáo, Đại Giáo thua cuộc, vua hạ lệnh phế bỏ cả Đạo Giáo và Phật Giáo (574), sau khi chiếm được Bắc Tề, vua hạ lệnh phá bỏ Phật Giáo ở Bắc Tề (577). Sau khi Võ Đế mất, con là Tuyên Đế lên ngôi năm 579, chấp thuận lời cầu xin của sư Đạo Lâm, liền cho phục hưng lại Phật Giáo và Đạo Giáo.

3) Thời kỳ thứ ba, Võ Tôn Phế Phật hay Hội Xương Pháp nạn (842): Hoàng thất nhà Đường có họ với Lý Nhĩ (Lão Tử), nhà Đường tin tưởng Lý Nhĩ là tổ tiên, đến đời Võ Tôn nghe lời Đạo Sĩ Triệu Quang Chân nên thẳng tay phá hủy Phật Giáo. Năm 842 vua hạ lệnh Tăng Ni phạm giới luật hoàn tục, đến năm 844 vua hạ lệnh phá hủy hết các chùa nhỏ, Tăng Ni ở các chùa bị phá bỏ phải hoàn tục. Năm 845, lại hạ lệnh ở thành Lạc Dương và Tràng An, mỗi nơi chỉ để lại 4 ngôi chùa và 30 vị Tăng, ở châu huyện nhỏ, mỗi nơi một ngôi chùa và 20 Tăng Ni, chùa còn lại bị phá hủy hay làm nơi công cộng của quốc dân, Tăng Ni còn lại phải hoàn tục. Kết quả 44600 ngôi chùa bị phá, 260500 Tăng Ni phải hoàn tục. Võ Tôn mất năm 846, con là Tuyên Tôn lên ngôi, liền cho phục hưng Phật Giáo.

4) Thời kỳ thứ tư, Thế Tôn Anh Mại đời Hậu Chu phương Bắc (955):Vua bẩm tính võ đoán lại không tôn sùng đạo Phật, nên năm 955, nhà vua hạ lệnh phá huỷ 3356 ngôi chùa không tên tuổi, tượng Phật và đồ bằng đồng đem đúc thành tiền. Sau Pháp nạn nầy, còn lại 2964 ngôi chùa và 91200 Tăng Ni.

Trong khi đó thì phương Nam vẫn được truyền bá như nước Ngô Việt ở Hàng Châu, đặc biệt có Trung Ý Vương Tiền Hoàng Thúc theo gương vua A Duc, dựng 8400 ngọn tháp ở rải rác các nơi trong địa phận cai trị, vì trong nước chiến tranh, kinh điển không còn đủ, nên sai sứ sang Cao Ly thỉnh kinh. Hàng Châu trở nên căn cứ địa cho sự phục hưng của cận thế Phật Giáo.

V. Các Tông Phái Phật Giáo

Đất nước Trung Hoa rộng lớn, nhiều thời, đất nước Trung Hoa bị nội chiến vì tranh dành quyền bính cai trị, chia cắt nhiều nơi, nền văn minh của Trung Hoa phát triển sớm và có khuynh hướng siêu hình cho nên Khổng Giáo, Đạo Giáo và Phật Giáo dễ phát triển, chẳng những vậy mà Khổng Giáo cũng như Phật Giáo đều có những triển khai thành những tông phái mới, do vậy mà Phật Giáo Trung Hoa có những tông phái sau:

1) Tỳ Đàm Tôn:Tôn này y vào Luận Tạng trong Tam Tạng của Tiểu thừa, để nghiên cứu nên gọi là Tỳ Đàm Tôn, chủ trương Tam thế thực hữu và Pháp thể hằng hữu của Tiểu thừa Hữu bộ.

2) Niết Bàn Tôn:Tôn này y cứ vào Kinh Niết Bàn, nên gọi là Niết Bàn Tôn, chủ trương hết thảy chúng sanh đều có Phật tính, nên tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật.

3) Thành thật tôn:Tôn này y cứ vào Luận Thành Thực nên gọi là Thành Thực Tôn, thuyết minh về tư tưởng Nhân - Pháp câu không.

4) Tam Luận Tôn:Tôn này y vào 3 bộ luận là Trung Luận, Bách Luận và Thập Nhị Môn Luận làm căn cứ nên gọi là Tam Luận Tôn, chủ trương phá tà hiển chính. Thí dụ như phá 8 cái mê vọng như sinh, diệt, khứ, lai, nhất, dị, đoạn, thường; hiển chính là làm rõ 8 cái lý chân chính như không sinh, không diệt, không đi, không lại, không một, không khác, không đoạn, không thường của Trung đạo.

5) Tịnh Độ Tôn:Tôn này hoằng truyền pháp môn Vãng sinh Tịnh độ nên gọi là Tịnh Độ Tôn. Tôn nầy căn cứ vào 3 kinh và một bộ luận: Kinh Vô Lượng Thọ nói về tiền thân của Phật A Di Đà, khi còn là Pháp Tạng Tỳ Kheo đã phát 48 lời nguyện. Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói về phép quán tưởng niệm Phật. Kinh A Di Đà nói về Cảnh giới cực lạc và luận Vãng Sinh Tịnh Độ là bộ luận thâu tóm ý nghĩa ba bộ kinh trên.

6) Nhiếp Luận Tôn:Tôn này căn cứ vào Nhiếp Đại Thừa Luận nên gọi là Nhiếp Luận Tôn, tôn nầy lấy Duy Thức pháp môn làm mục tiêu, cũng giống như Pháp Tướng Tôn.

7) Địa Luận Tôn:Tôn này y cứ vào Thập Địa Kinh Luận, gọi tắc là Thập Địa Luận hay Điạ Luận Tôn, nương theo giáo nghĩa của Thập Địa Bồ Tát để tu hành, mong đạt tới thập quả.

8) Thiền Tôn: Tôn này tu tập Thiền Định nên gọi là Thiền Tôn hay Phật Tâm Tôn, chủ trương trực chỉ nhân tâm kiến tánh thành Phật, nghĩa là không câu nệ vào văn tự, kinh điển mà chỉ nương công phu tu định để ngộ được Phật tính của chính mình.

9) Mật Tôn:Tôn này y vào giáo lý bí mật của kinh Đại Nhật và Kim Cương Đính nên gọi là Mật Tôn hay Chơn Ngôn Tôn, chủ trương lục đại dung thông là lý tánh hay chơn như, phương pháp tu hành trọng yếu là Tam mật tương ứng gồm: Thân mật, Ngữ mật và Ý mật. Tay bắt ấn gọi là Thân mật, miệng niệm chân ngôn là Ngữ mật, tâm chuyên vào thiền định là Ngữ mật. Vậy chúng sanh muốn tu thành Phật phải tu theo Tam mật.

10) Duy Thức Tôn:Duy Thức Tôn hay Pháp Tướng Tôn không nói về tâm tánh Chơn như, mà chỉ nói về tướng của thức tức là tướng của các pháp, chủ trương vạn hữu hay các pháp đề do thức biến hiện, ngoài thức không có gí khác nữa.

11) Thiên Thai Tôn:Tôn này do Ngài Trí Khải ở núi Thiên Thai, nên có tên là Thiên Thai Tôn, y cứ vào kinh Pháp Hoa nên cũng có tên là Pháp Hoa Tôn, giáo nghĩa cương yếu của tôn nầy là Nhất Tâm Tam Quán nghiã là trong tâm con người có đủ: Không Quán, Trung Quán và Giả Quán. Tôn nầy chia giáo lý của Phật thành 5 thời gọi là Ngủ thời Bát giáo: Thời Hoa Nghiêm, thời A Hàm, thời Phương Đẳng, thời Bát Nhã, thời Pháp Hoa và Niết Bàn

12) Luật Tôn:Tôn này y cứ vào luật Tứ Phận, nên gọi là Tứ Phận Luật Tôn hay gọi tắc là Luật Tôn, yếu nghiã của Luật Tôn là bàn về Giới, trong giới chia ra Chỉ trì giới và Tác trì giới. Chỉ trì giới là không làm điều ác "Chư ác mạc tác" và Tác trì giới là làm các việc lành "Chúng thiện phụng hành".

13) Câu Xá Tôn:Tôn này căn cứ vào Câu Xá Luận làm Thánh điển căn bản nên gọi là Câu Xá Tôn, đem vạn pháp trong vũ trụ chia thành Hữu vi pháp và Vô vi pháp. Trong Hữu vi và Vô vi chia thành 5 vị, trong 5 vị có 75 pháp như sau:

Hữu vi: - Sắc pháp --------------------------11

- Tâm pháp --------------------------- 1

Vạn Pháp: - Tâm sở pháp ----------------- 46 75 pháp

- Bất tương ưng hành pháp--14

Vô vi: ------------------------------------------- 3

14) Hoa Nghiêm Tôn:Tôn này y cứ vào Kinh Hoa nghiêm nên gọi là Hoa Nghiêm Tôn, chủ trương Nhất tâm chân như, Pháp giới duyên khởi. Nhất tâm chân như là vạn vật do tâm mà sinh ra pháp giới khác nhau, còn pháp giới có: Sự pháp giới, Lý pháp giới, Sự Lý vô ngại pháp giới, Sự Sự vô ngại pháp giới, nói chung sự lý viên dung vô ngại.

V.- Phật giáo Trung quốc cận đại

Sau đời nhà Minh, Phật Giáo Trung Hoa không được như trước, cho đến khi Trung Hoa canh tân sau nầy, năm 1912, có ngài Kính An chùa Thiên Đồng thống họp Tăng tục hai tỉnh Giang Tô và Triết Giang thành lập Trung Quốc Phật Giáo Tổng Hội ngay tại Thượng Hải, để mở đường cho Tân Phật Giáo, năm 1913, có ngài Đạo Giai và Hải Thanh thành lập Trung Ương Phật Giáo Công Hội ở Bắc Kinh, đến năm 1924 có ngài Thái Hư Đại Sư đứng ra thành lập Trung Quốc Phật Giáo Liên Hiệp Hội là cơ quan trung ương, có nhiều cơ quan địa phương, sau đến 1930, Trung Quốc Phật Giáo Hội mở Đại hội lần thứ nhất ở Thượng Hải, tôn ngài Viên Anh làm Hội Trưởng, thành phần chủ yếu trong hội là các ngài Thái Hư, Ấn Quang, Đế Nhàn, Đạo Giai, Viên Anh, Nhân Sơn, Viên Nhất Đình, Đại Bi. . ., ngài Thái Hư chủ trương canh tân, ngài Viên Anh chủ trương bảo thủ, công cuộc hoằng dương chánh pháp của các ngài rất sâu rộng, nào là tu sửa chùa chiền, mở trường đào tạo tăng tài, khắc bản kinh, xây dựng những cơ sở vật chất ngài Thái Hư đi viễn du thuyết pháp ở ngoại quốc, công cuộc chấn hưng nầy gây nhiều ảnh hưởng cho các nước nhất là Việt Nam, nhờ đó mà phong trào phục hưng khắp nước ta.

Phật Giáo Trung Hoa phát triển như thế, cho nên chúng ta cần phải biết rõ để dễ hiểu Phật Giáo Việt Nam vậy.

Sách tham khảo:

Thích Thanh Kiểm, Lịch sử Phật Giáo Trung Quốc, Vạn Hạnh, Sài Gòn 1965
Thích Thiện Hoa, Phật Học Phổ Thông Khóa V, THPGT/PHCH, Việt Nam, 1989.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/06/2018(Xem: 10690)
Khoảng tháng 3 vừa rồi, Hòa Thượng Thích Như Điển, Phương Trượng Chùa Viên Giác (Đức Quốc) gởi cho chúng tôi bản final cuốn Mối Tơ Vương Của Huyền Trân Công Chúa với lời dặn dò: viết Lời cuối sách. Đọc thư Thầy, chúng tôi vô cùng băn khoăn, lo lắng và hơi bị “ngộp” dưới cái bóng quá lớn và ảnh hưởng rộng khắp của Thầy. Chúng tôi “ngại” vì biết Thầy có nhiều mối quan hệ thân thiết với các bậc tài danh khắp nơi. Ngược lại, chúng tôi chỉ là kẻ sơ học nhiều mặt mà lại dám chắp bút viết Lời cuối sách này? Chúng tôi rất đắn đo trước cái vinh dự to lớn ấy, trước cái trách nhiệm nặng nề này. Nhưng rồi anh Văn Công Tuấn nhiều lần “trấn an”, khích lệ. Và rồi, lại nghĩ rằng, Thầy Như Điển có lòng ưu ái, thương tưởng và muốn tạo điều kiện cho chúng tôi trong bước đầu tập tễnh học Phật. Xin cung kính niệm ân Thầy; và cũng qua đây kính mong quý vị độc giả thông cảm và lượng thứ cho những thiếu sót và non nớt không sao tránh khỏi, dù đã có nhiều
21/03/2018(Xem: 17302)
Chúng ta đang ở vào năm thứ 18 của Thế Kỷ 21 và chỉ còn 82 năm nữa nhân loại sẽ bước vào Thế Kỷ 22. Có rất nhiều biến động của thế kỷ trước mà chúng ta đã quên mất rồi. Nhân dịp về hưu rảnh rỗi tôi lục lại cuốn Biên Niên Sử Thế Kỷ 20 (Chronicle of the 20th Century) để xem nhân loại phát minh ra những gì, chịu những thống khổ, những vui buồn như thế nào và có bao nhiêu cuộc chiến tranh giữa các đế quốc. Sự thực phũ phàng của 118 năm qua là, một quốc gia tuy nhỏ bé nhưng có vũ khí tối tân và bộ máy quân sự khổng lồ vẫn có thể bá chủ thế giới và biến các quốc gia to rộng gấp mười lần mình thành nô lệ. Do đó muốn tồn tại trong độc lập, ngoài phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học, lúc nào cũng phải tăng cường binh bị, vũ khí cho kịp đà tiến triển của nhân loại. Sách lược ngoại giao cũng là một vũ khí nhưng sức mạnh quân sự của một quốc gia là loại vũ khí vững chắc nhất.
18/03/2018(Xem: 6465)
(Lắng lòng viết về đêm thắp nến 50 năm tưởng niệm và cầu nguyện cho nạn nhân biến cố Mậu Thân-Huế 1968-2018, tổ chức tại TTVHPGPV ngày 10.03.2018) Một thời máu lửa đạn bom Quê hương tang tóc, hồn hoang tru gào Từng trang sử, đẫm lệ trào Ngày im tiếng súng nghẹn ngào gọi nhau! (Một Thời-Tâm Không Vĩnh Hữu)
29/01/2018(Xem: 5883)
Nữ sĩ Huỳnh thị Bảo Hòa với “Bà Nà du ký” Châu Yến Loan
29/01/2018(Xem: 15439)
Nhà Chu (1122-256 Tr TL), triều đại kế tiếp nhà Hạ (2205-1767 Tr TL), nhà Thương (1766-1122 Tr TL), là triều đại cai trị lâu dài nhất so với bất cứ triều đại nào khác trong lịch sử Trung Quốc. Nhà Chu có gốc từ một bộ tộc ở đất Thai (Thiểm Tây), sau chuyển về đất Bân (Thiểm Tây). Khi Cổ Công Đản Phủ (sau được phong là Chu Thái Vương) dời về đất Bân (tỉnh Thiểm Tây), đất Bân thường bị địch xâm lấn ở không yên mới bỏ đất Bân, vượt núi Lương đến định cư dưới chân núi Kỳ Sơn. Thái Vương có ba người con, trưởng là Thái Bá, thứ là Trọng Ung, con út là Quý Lịch. Nhiều sách nói không biết Thái Bá tên là gì, nhưng theo thứ tự trong gia đình gọi trưởng là thái hay mạnh, thứ là trọng cuối là quý thì ông tên là Bá (Thái Bá), hai em ông người tên là Ung (Trọng Ung), người út tên là Lịch (Quý Lịch).
01/01/2018(Xem: 42200)
Đại Bảo tháp Phật giáo cổ xưa Nelakondapalli ở huyện Khammam đang ở giai đoạn cuối của việc tu sửa. Với kinh phí khoảng 6 triệu Rupee, Cục Khảo cổ học và Bảo tàng đã thực hiện công việc để Đại Bảo tháp khôi phục lại vinh quang ban đầu và để bảo tồn kiến trúc cổ xưa này cho hậu thế. Di tích Phật giáo này, tọa lạc cách thị trấn Khammam khoảng 22 km, là một trong những điểm đến du lịch nổi tiếng nhất của bang Andhra Pradesh. Đại Bảo tháp đồ sộ, vốn đã tồn tại qua nhiều thế kỷ của sự hao mòn, đang được tu sửa sau khi cư dân và các sử gia địa phương nhiều lần cầu xin để bảo tồn di tích lịch sử có tầm quan trọng lớn lao về khảo cổ học này. Cục khảo cổ học cho biết loại gạch đặc biệt được đặt làm cũng như các vật chất kết nối tự nhiên đã được sử dụng để tăng cường cho cấu trúc của Đại Bảo tháp. (bignewsnetwork – April 18, 2015)
15/11/2017(Xem: 9426)
Phật Giáo Hoa Tông theo dòng lịch sử - HT Thích Thiện Nhơn
23/09/2017(Xem: 25356)
The Vietnam War - Chiến Tranh Việt Nam (Trọn bộ 10 tập), đạo diễn: Ken Burns và Lynn Novick - Buổi ra mắt và thảo luận về phim “The Vietnam War” đêm thứ Ba 12/9 của hai đạo diễn Mỹ nổi tiếng về các phim tài liệu có giá trị lịch sử: Ken Burns và Lynn Novick diễn ra tại Trung tâm Biểu diễn Nghệ thuật Kennedy ở thủ đô Washington. Dẫn đầu cuộc thảo luận, ngoài hai nhà đạo diễn và MC là ký giả Martha Raddatz của chương trình tin tức đài ABC, còn có 3 khách mời đặc biệt, Thượng nghị sĩ John McCain, cựu Bộ trưởng Ngoại giao John Kerry và cựu Bộ trưởng Quốc phòng Chuck Hagel, cả 3 đều là cựu chiến binh từng tham chiến tại Việt Nam.
14/08/2017(Xem: 5401)
Trong những năm qua, nghiên cứu về quá trình ra đời, phát triển của báo chí Phật giáo Việt Nam đã và đang nhận được sự quan tâm của nhiều học giả trong và ngoài nước với những mức độ đậm nhạt khác nhau. Nét nổi bật trong các công trình nghiên cứu trước đây chính là đã xác định được thời điểm ra đời, cách phân kì lịch sử cùng những đóng góp của báo chí đối với tiến trình phát triển của Phật giáo Việt Nam cũng như đối với văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, vẫn còn có khá nhiều nội dung chưa nhận được sự đồng nhất từ phía các nhà nghiên cứu, như niên đại của các tờ báo, số lượng báo chí được xuất bản, nhất là trong giai đoạn khởi thủy của nó. Trên cơ sở các nguồn tư liệu đã sưu tầm được (chủ yếu là các văn bản gốc), chúng tôi xin được tiếp tục đi vào phân tích và trình bày thêm về quá trình ra đời và phát triển của báo chí Phật giáo ở Nam Bộ trong nửa đầu thế kỉ XX. Qua đó, góp phần bổ cứu nguồn tư liệu nhằm làm sáng tỏ hơn tiến trình phát triển của báo chí Phật giáo Việt Nam.
14/08/2017(Xem: 4561)
Trong những năm trở lại đây, công tác nghiên cứu về phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam đã và đang đạt được nhiều kết quả khả quan. Đặc biệt, khi bàn về quá trình vận động cũng như sự ra đời của phong trào này, các tác giả như Nguyễn Quốc Tuấn, Nguyễn Đại Đồng, Lê Tâm Đắc,... đã giành nhiều thời gian khảo cứu và đề cập thông qua các công trình và bài viết tiêu biểu như: Đặc điểm và vai trò của Phật giáo Việt Nam thế kỉ 20, Phong trào chấn hưng Phật giáo ở miền Bắc Việt Nam (1924-1954), Sư Tâm Lai và việc vận động chấn hưng Phật giáo ở Việt Nam đầu thế kỉ XX, Những người đầu tiên khởi xướng phong trào chấn hưng Phật giáo ở Việt Nam...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]