Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nhà doanh điền Bùi Tấn Diên, tiền hiền làng Vĩnh Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam

19/06/201821:00(Xem: 4549)
Nhà doanh điền Bùi Tấn Diên, tiền hiền làng Vĩnh Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam

images1400040_2A

Nhà doanh điền Bùi Tấn Diên, tiền hiền làng Vĩnh Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam

Châu Yến Loan

 

Tộc Bùi ở làng Vĩnh Trinh, huyện Duy Xuyên là một dòng tộc lớn vang danh trong nước không những vì “của nhiều người đông” mà còn vì có lắm nhân tài ở mọi lãnh vực với những tên tuổi chói sáng như nhà báo Bùi Thế Mĩ, bác sĩ Bùi Kiến Tín, thi hào Bùi Giáng, nhà giáo Bùi Tấn v.v… Vị thủy tổ của đại tộc này chính là nhà doanh điền Bùi Tấn Diên, Tiền hiền làng Vĩnh Trinh.

 

Bùi Tấn Diên quê ở Nghệ An, cho đến nay vẫn không rõ ông sinh và mất năm nào, chỉ biết ông sống vào khoảng nửa cuối thế kỷ XV dưới triều Lê Thánh Tông. Ông đã theo đoàn quân Nam tiến của vua Lê vào Quảng Nam, khai phá vùng đất mới thu phục, lập ra làng Vĩnh Trinh.

 

Huyện Duy Xuyên, trước có tên là huyện Hy Giang thuộc phủ Thăng Hoa nguyên là đất Chiêm động của Chiêm Thành.

 

Thời nhà Hồ, sau khi lên ngôi năm 1402 Hồ Hán Thương đã đem đại binh vượt qua Hải Vân đánh thắng quân Chiêm, chiếm Chiêm Động và Cổ Lũy mở rộng biên cương đến Quảng Ngãi. Nhà Hồ chia hai động này thành 4 châu: Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, đặt An phủ sứ và Phó sứ lộ Thăng Hoa để cai trị. Họ Hồ hạ lệnh cho dân không có ruộng ở Nghệ An, Thuận Hóa đem vợ con vào ở để khai khẩn, dân ấy phải thích hai chữ tên châu mình trên cánh tay cho khỏi bỏ trốn. Những người có trâu đem nộp thì được ban phẩm tước để lấy trâu cấp phát cho dân cày.

 

Nhưng chủ trương di dân của nhà Hồ không được lâu dài, chỉ 4,5 năm sau quân Minh nấp dưới chiêu bài phù Trần diệt Hồ sang đánh nước ta, Chiêm Thành nhân cơ hội đó cấu kết với quân Minh lấy lại đất ấy và phần lớn những di dân người Việt vào đây đã phải theo Nguyễn Lỗ trở về Thuận Hóa.

Sau khi chiếm lại Chiêm Động và Cổ Lũy, quân Chiêm đánh ra Thuận Hóa. Từ thời Lê Nhân Tông, năm Thái Hòa thứ II (1444 ) cho đến thời Lê Thánh Tông quân Chiêm đã 4 lần đem quân đánh phá Hoá châu vào các năm Giáp Tý (1444), Ất Sửu (1445), Kỷ Sửu (1469), Canh Dần (1470).

 

Vì thế năm Canh Dần (1470) vua Lê Thánh Tông lại kéo quân qua Hải Vân, tiến thẳng vào kinh đô Trà Bàn đánh quân Chiêm.

 

Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, tháng 8 năm Canh Dần, Hồng Đức năm thứ nhất (1470) vua Chiêm Thành là Bàn La Trà Toàn đem 10 vạn quân và một đoàn kỵ binh tấn công châu Hóa. Thủ ngữ Kinh lược sứ Thuận Hoá là Phạm Văn Hiển không chống nổi bèn dồn hết dân vào thành để cố thủ và cấp báo về triều đình. Trước tình hình đó, vua Lê Thánh Tông phải xuống chiếu thân chinh. Ngày 6 tháng 11 năm Canh Dần (1470) bắt đầu xuất quân. Vua sai Chinh lỗ tướng quân Lân Quận Công  Đinh Liệt, Phó tướng Kỳ Quận Công Lê Niệm đem 10 vạn thủy quân đi trước, ngày Canh Dần 16 tháng 11 vua đốc suất 15 vạn thủy quân đi tiếp theo.

 

Ngày mồng 2 tháng giêng năm Tân Mão (1471) vua vào tới Thuận Hóa cho quân ra biển tập thủy chiến rồi sai viên quan ở Thuận Hóa là Nguyễn Vũ vẽ bản đồ của Chiêm Thành dâng lên cho vua.

 

Ngày mồng 6, đội quân của Tướng Cang Viễn tấn công phòng tuyến Cu Đê tại phía nam đèo Hải Vân bắt sống tướng Chiêm giữ cửa quan Cu Đê là Bồng Nga Sa.

 

Ngày mồng 5 tháng 2, Trà Toàn sai tướng đem 5.000 quân và voi tiến sát quân của vua, ngay hôm sau vua mật sai đem 500 chiếc thuyền cùng 3 vạn quân tinh nhuệ ban đêm ra cửa Áp (nay là cửa Đại Áp thuộc thị xã Tam Kỳ tỉnh Quảng Nam) và cửa Tọa (nay là cửa Tiểu Áp, cách Đại Áp hơn 7 dặm) vượt biển tiến vào Sa Kỳ (thuộc huyện Bình Sơn tỉnh Quảng Ngãi) dựng lũy, đắp thành chặn đường về của giặc.

 

Ngày mồng 7, vua thân đem 1.000 chiếc thuyền chiến với hơn 70 vạn quân tinh nhuệ ra hai cửa biển Tân Áp và Cựu Tọa, kéo cờ hiệu thiên tử đánh trống hò reo tiến đi, mặt khác sai Nguyễn Đức Trung dẫn bộ binh đi đường núi. Tướng giặc trông thấy quân của vua, tự tan vỡ, giày xéo lên nhau chạy về Trà Bàn bị quân ta chặn đường đánh, quân Chiêm thất bại chết rất nhiều.

Ngày 27 vua thân đem đại quân đánh phá thành Thị Nại, ngày 28 vây thành Trà Bàn. Ngày 1 tháng 3 năm Tân Mão (1471), hạ thành Trà Bàn, ta  bắt sống vua Chiêm là Trà Toàn đưa về nước.

 

Sau khi Trà Toàn bị bắt, tướng Chiêm là Bô Trì Trì chạy đến Phiên Lung (tức là Phan Rang ngày nay), giữ lấy đất ấy, xưng là vua Chiêm Thành. Trì Trì lấy được 1 phần 5 đất của nước Chiêm, sai sứ sang xưng thần tiến cống. Vua phong cho làm vương, Vua lại phong cho Hoa Anh (có lẽ là khoảng giữa Đèo Cả và Bình Định) và Nam Bàn (Ở về phía tây núi Thạch Bi, sau này là Thủy Xá, Hỏa Xá. Nam Bàn có lẽ là miền Buôn Mê Thuộc và Công Tum), làm ba nước, để ràng buộc.

 

Công cuộc bình Chiêm thắng lợi, vua đổi Thăng Châu, Hoa Châu thành ba huyện Hà Đông, Hy Giang và Lê Giang thuộc phủ Thăng Hoa; Tư Châu , Nghĩa Châu thành ba huyện Bình Sơn, Nghĩa Giang và Mộ Hoa, thuộc phủ Tư Nghĩa. Chia đất cũ của Chiêm Thành là Đồ Bàn thành ba huyện Bồng Sơn, Phù Ly và Tuy Viễn, thuộc phủ Hoài Nhơn, đặt ba phủ rồi đưa tù nhân ba loại bị tội đồ tới đây để làm “đầy biên giới “ (thực biên ) (nguyên chú -Thơ chữ Hán Lê Thánh Tông-Viện nghiên cứu Hán Nôm ).

 

Ngày mồng 1 tháng 5 năm Tân Mão(1471), làm lễ mừng thắng trận. Với chiến thắng này, nhà vua không những  thực hiện được ý định khôi phục bốn châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, chấm dứt nạn binh đao, đem lại cuộc sống bình yên cho nhân dân, mà còn mở rộng biên cương đến miền Vijaya, tức là phủ Hoài Nhơn (ngày nay là Bình Định ).

 

Tháng 6 năm 1471, vua Lê Thánh Tông lấy ba phủ Thăng Hoa, Tư Nghĩa và Hoài Nhơn lập thành đạo thứ mười ba là Quảng Nam Thừa tuyên đạo, sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt, đúng như mục đích xuất chinh mà nhà vua đã nói trong câu thơ :

                              “ Hỗn nhất thư xa cộng bức quyên”

đặt chức Án Sát ở 12 thừa tuyên và đặt 3 ty (Đô ty, Thừa ty, Hiến ty) ở Quảng Nam. Danh xưng Quảng Nam ra đời từ lúc ấy. Đạo Thừa tuyên Quảng Nam thống lãnh 3 phủ, 9 huyện (Phủ Thăng Hoa 3 huyện: Lê Giang, Hy Giang và Hà Đông. Phủ Tư Nghĩa 3 huyện: Nghĩa Sơn, Bình Sơn và Mộ Hoa. Phủ Hoài Nhơn 3 huyện: Bồng Sơn, Phù Ly và Tuy Viễn), địa bàn từ Quảng Nam đến hết Bình Định ngày nay.

 

Mất các đồng bằng Nam, Nghĩa, Bình Định là những vùng đất rộng rãi, phì nhiêu nhất, Chiêm Thành phải lui về những miền đất khô khan ở phía nam nên từ đây họ đã bước vào con đường suy vong.

 

Khác với lần di dân trước dưới thời nhà Hồ, lần này khi di dân ta đến người Chiêm không rời bỏ quê hương ra đi vì họ biết rằng đất đai phía nam không màu mỡ bằng nơi mình đang sinh sống và họ cũng không còn hy vọng lấy lại đất đã mất nên chấp nhận lệ thuộc ta .

Cuộc di dân dưới thời Lê Thánh Tông vô cùng quan trọng vì nó vĩnh viễn, người dân yên ổn làm ăn không còn nơm nớp lo sợ người Chiêm đến cướp phá như ở Thuận Hóa trước kia.

 

Trong chiến dịch này, từ đất Hoan Châu (Nghệ An), Bùi Tấn Diên theo đoàn quân nam tiến của vua Lê Thánh Tông giữ nhiệm vụ vừa đồn thủ vừa khai phá những vùng đất mới thu phục được.

 

Sau khi lập đạo Thừa tuyên Quảng Nam, vua Lê Thánh Tông đã giao cho Phạm Nhữ Tăng cai quản vùng đất biên cương mới mở của Đại Việt với chức Quảng Nam thừa tuyên Đô thống, Thái Úy Trình quốc công Nguyễn Đức Trung làm Đô Ty thừa tuyên Quảng Nam và cử các tướng Nguyễn văn Lang, Lê Tấn Triều, Lê Tấn Trung là những vị tướng tài ba đã từng theo vua bình Chiêm, ở lại khai hoang lập ấp, di dân đến sinh cơ lập nghiệp ở vùng đất mới này. Bùi Tấn Diên và con trai là Bùi Tấn Trường đã ở lại bờ nam của sông Thu Bồn cùng với đoàn di dân trải qua bao gian khổ khai khẩn đất đai lập nên 6 thôn: Lệ Trạch, Vĩnh Trinh, Thanh Châu, Cổ Tháp, Cù bàn, An Lâm.

 

Trong bài Hoài niệm tổ tiên, ông Bùi Tấn đã viết về lịch sử mở đất của tổ tiên mình

                                                         …… “. BÙI GIA gốc ở NGHỆ AN,

HOAN CHÂU tên cũ, mộ phần còn ghi.

Vào đời HỒNG ĐỨC, HẬU LÊ,

Rời quê, THỈ TỔ quản gì gian truân.

Tôn xưng ngài bằng Đại lang,

TẤN DIÊN tên húy, lên đường cùng con.

Kể chi vượt suối trèo non,

Màn trời chiếu đất hao mòn xiết bao !

Sông Gianh rộng, Hải Vân cao,

Đá mềm chân cứng lần vào QUẢNG NAM.

Bến hiền thuyền đậu quyết tâm,

THĂNG BA, LA THÁP khéo cầm chân ai.

Lần thâu tháng rộng ngày dài,

Cùng chư Tộc khác ra tài khẩn hoang.

Sáu thôn phân định lân bàng,

VĨNH TRINH, LỆ TRẠCH, CÙ BÀN tiếp sau.

AN LÂM, CỔ THÁP, THANH CHÂU,

Lục thôn tự sở bắt đầu tạo chung”….

                          (Bùi Tấn, Hoài niệm tổ tiên)

Bùi Tấn Diên là một trong hai vị Tiền Hiền của hai tộc Bùi và Đào đã sáng lập ra làng Vĩnh Trinh. Bài văn tế quốc văn đọc trong lễ khánh thành từ đường Bùi tộc ngày 20 tháng 2 năm 1992 ở Duy Xuyên cũng có đoạn kể lại con đường lập nghiệp nhiều gian nan và những thành quả lớn lao mà ông đã đóng góp cho huyện Duy Xuyên:

“Theo đoàn Nam tiến, dưới thuở Hậu Lê;

Từ đất Hoan châu chính nơi cựu thổ 

Trên đường lập nghiệp, khi băng ngàn, khi vượt suối, xiết nỗi gian lao;

Đến chốn định cư, có đất rộng, có khe trong, thuận bề quy tụ.

Xây đình mở chợ, đống lương góp sức, Lục châu tự sở, bia cũ từng ghi ;

Đắp đập khai hoang, kiến thiết ra công, xã hiệu Bình Khương , tên xưa từ đó.

Ngay khi mới lập ra làng xã, Bùi Tấn Diên và Bùi Tấn Trường cùng cư dân Lục thôn đã dựng Đình Châu để làm nơi sinh hoạt chung của 6 thôn. Ban đầu đình dựng bằng tranh, lâu năm bị hư hỏng đến năm Cảnh Hưng thứ 15 (1754) mới được tái thiết và dựng bia kỷ niệm.

Bài minh khắc trên bia đá dựng vào tháng 10 năm Cảnh Hưng thứ 15 (1754) để kỷ niệm công cuộc trùng tu Đình Châu – đình Lục thôn – có đoạn ca ngợi sự đóng góp lớn lao của Bùi Tấn Trường trong công cuộc xây dựng đình làng:

Thiết duy: Bổn châu tiền đợi Cai phủ Khánh sơn hầu Bùi Quý công cấu tạo công đình. Địa linh nhân kiệt, đại chấn châu lý chi phong, cận duyệt viễn lai, hội vi nhật trung chi thị, trách trách hưu thanh, chí kim vị mẫn giã. Nhiên nhi mao từ thảo sáng, tuế viễn niên yên, suy chuyên vị miễn đồi hoại, tắc tuy di chỉ thượng tồn, nhi điện vũ đại bất như sơ. Tư dục tái khoách tiền quy, dĩ chiêu thần đức. Đệ niệm Bổn châu lịch niên đồ thán, vật lực duy nan. An đắc nhất như Bùi Quý công giả, tái vi thạnh cử tai !...

Qua đoạn bi ký này, ta có thể hiểu đại cương là:

“Nguyên châu chúng ta ngày trước có Ngài Cai phủ Khánh sơn hầu Bùi Quý công cấu tạo đình sở. Đất linh, người giỏi, tiếng đồn vang khắp châu thôn. Người gần lấy làm hài lòng, kẻ xa rủ nhau kéo đến, họp thành chợ đông vào lúc ban trưa, đến nay chưa ai quên vậy. Nhưng đình tranh dựng đã lâu năm, rui mè không khỏi mục nát; nền móng còn đấy, nhưng chánh điện không được như xưa. Nay muốn trùng tu lại để phát huy công đức của Thần linh. Song mấy năm gần đây, châu chúng ta làm ăn khó khăn, vật lực khan hiếm. Giá được một vị hảo tâm như Ngài Bùi Quý công ngày trước thì quý hóa và đáng được ca ngợi biết bao!”(Trích theo gia phả Bùi tộc Vĩnh Trinh).

Trong Cung lục gia phả họ Bùi ở Duy Xuyên cũng ghi:

“Ngài thủy tổ Bùi Đại lang, húy Tấn Diên, ngày xưa từ Hoan Châu, Nghệ An vào Thăng Hoa phủ, Ba Châu thuộc, sinh ra ngài Cao cao tổ Bùi Quí công, húy Tấn Trường khai khẩn ra xã hiệu Bình Khương và rạng rỡ thay! phúc ấm dồi dào, đời đời kế tiếp.

Đến triều Gia Long, xã hiệu Bình Khương đổi thành Bình Thuận. Gần đây, xã hiệu Bình Thuận lại được đổi thành Vĩnh Trinh. Sự nghiệp của ông cha ta ngày xưa không phải là không to tát.”

 Bùi Tấn Diên không những đã có công lớn trong sự nghiệp khai khẩn, mở mang huyện Duy Xuyên, biến vùng đất biên cương mới thu phục thành làng mạc trù phú mà ông còn là thủy tổ của một dòng tộc có lắm nhân tài thành công trên nhiều lãnh vực.

 

                                                                   

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/03/2018(Xem: 15380)
Chúng ta đang ở vào năm thứ 18 của Thế Kỷ 21 và chỉ còn 82 năm nữa nhân loại sẽ bước vào Thế Kỷ 22. Có rất nhiều biến động của thế kỷ trước mà chúng ta đã quên mất rồi. Nhân dịp về hưu rảnh rỗi tôi lục lại cuốn Biên Niên Sử Thế Kỷ 20 (Chronicle of the 20th Century) để xem nhân loại phát minh ra những gì, chịu những thống khổ, những vui buồn như thế nào và có bao nhiêu cuộc chiến tranh giữa các đế quốc. Sự thực phũ phàng của 118 năm qua là, một quốc gia tuy nhỏ bé nhưng có vũ khí tối tân và bộ máy quân sự khổng lồ vẫn có thể bá chủ thế giới và biến các quốc gia to rộng gấp mười lần mình thành nô lệ. Do đó muốn tồn tại trong độc lập, ngoài phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học, lúc nào cũng phải tăng cường binh bị, vũ khí cho kịp đà tiến triển của nhân loại. Sách lược ngoại giao cũng là một vũ khí nhưng sức mạnh quân sự của một quốc gia là loại vũ khí vững chắc nhất.
18/03/2018(Xem: 5870)
(Lắng lòng viết về đêm thắp nến 50 năm tưởng niệm và cầu nguyện cho nạn nhân biến cố Mậu Thân-Huế 1968-2018, tổ chức tại TTVHPGPV ngày 10.03.2018) Một thời máu lửa đạn bom Quê hương tang tóc, hồn hoang tru gào Từng trang sử, đẫm lệ trào Ngày im tiếng súng nghẹn ngào gọi nhau! (Một Thời-Tâm Không Vĩnh Hữu)
29/01/2018(Xem: 5366)
Nữ sĩ Huỳnh thị Bảo Hòa với “Bà Nà du ký” Châu Yến Loan
29/01/2018(Xem: 14657)
Nhà Chu (1122-256 Tr TL), triều đại kế tiếp nhà Hạ (2205-1767 Tr TL), nhà Thương (1766-1122 Tr TL), là triều đại cai trị lâu dài nhất so với bất cứ triều đại nào khác trong lịch sử Trung Quốc. Nhà Chu có gốc từ một bộ tộc ở đất Thai (Thiểm Tây), sau chuyển về đất Bân (Thiểm Tây). Khi Cổ Công Đản Phủ (sau được phong là Chu Thái Vương) dời về đất Bân (tỉnh Thiểm Tây), đất Bân thường bị địch xâm lấn ở không yên mới bỏ đất Bân, vượt núi Lương đến định cư dưới chân núi Kỳ Sơn. Thái Vương có ba người con, trưởng là Thái Bá, thứ là Trọng Ung, con út là Quý Lịch. Nhiều sách nói không biết Thái Bá tên là gì, nhưng theo thứ tự trong gia đình gọi trưởng là thái hay mạnh, thứ là trọng cuối là quý thì ông tên là Bá (Thái Bá), hai em ông người tên là Ung (Trọng Ung), người út tên là Lịch (Quý Lịch).
01/01/2018(Xem: 40219)
Đại Bảo tháp Phật giáo cổ xưa Nelakondapalli ở huyện Khammam đang ở giai đoạn cuối của việc tu sửa. Với kinh phí khoảng 6 triệu Rupee, Cục Khảo cổ học và Bảo tàng đã thực hiện công việc để Đại Bảo tháp khôi phục lại vinh quang ban đầu và để bảo tồn kiến trúc cổ xưa này cho hậu thế. Di tích Phật giáo này, tọa lạc cách thị trấn Khammam khoảng 22 km, là một trong những điểm đến du lịch nổi tiếng nhất của bang Andhra Pradesh. Đại Bảo tháp đồ sộ, vốn đã tồn tại qua nhiều thế kỷ của sự hao mòn, đang được tu sửa sau khi cư dân và các sử gia địa phương nhiều lần cầu xin để bảo tồn di tích lịch sử có tầm quan trọng lớn lao về khảo cổ học này. Cục khảo cổ học cho biết loại gạch đặc biệt được đặt làm cũng như các vật chất kết nối tự nhiên đã được sử dụng để tăng cường cho cấu trúc của Đại Bảo tháp. (bignewsnetwork – April 18, 2015)
15/11/2017(Xem: 8187)
Phật Giáo Hoa Tông theo dòng lịch sử - HT Thích Thiện Nhơn
23/09/2017(Xem: 22394)
The Vietnam War - Chiến Tranh Việt Nam (Trọn bộ 10 tập), đạo diễn: Ken Burns và Lynn Novick - Buổi ra mắt và thảo luận về phim “The Vietnam War” đêm thứ Ba 12/9 của hai đạo diễn Mỹ nổi tiếng về các phim tài liệu có giá trị lịch sử: Ken Burns và Lynn Novick diễn ra tại Trung tâm Biểu diễn Nghệ thuật Kennedy ở thủ đô Washington. Dẫn đầu cuộc thảo luận, ngoài hai nhà đạo diễn và MC là ký giả Martha Raddatz của chương trình tin tức đài ABC, còn có 3 khách mời đặc biệt, Thượng nghị sĩ John McCain, cựu Bộ trưởng Ngoại giao John Kerry và cựu Bộ trưởng Quốc phòng Chuck Hagel, cả 3 đều là cựu chiến binh từng tham chiến tại Việt Nam.
14/08/2017(Xem: 4971)
Trong những năm qua, nghiên cứu về quá trình ra đời, phát triển của báo chí Phật giáo Việt Nam đã và đang nhận được sự quan tâm của nhiều học giả trong và ngoài nước với những mức độ đậm nhạt khác nhau. Nét nổi bật trong các công trình nghiên cứu trước đây chính là đã xác định được thời điểm ra đời, cách phân kì lịch sử cùng những đóng góp của báo chí đối với tiến trình phát triển của Phật giáo Việt Nam cũng như đối với văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, vẫn còn có khá nhiều nội dung chưa nhận được sự đồng nhất từ phía các nhà nghiên cứu, như niên đại của các tờ báo, số lượng báo chí được xuất bản, nhất là trong giai đoạn khởi thủy của nó. Trên cơ sở các nguồn tư liệu đã sưu tầm được (chủ yếu là các văn bản gốc), chúng tôi xin được tiếp tục đi vào phân tích và trình bày thêm về quá trình ra đời và phát triển của báo chí Phật giáo ở Nam Bộ trong nửa đầu thế kỉ XX. Qua đó, góp phần bổ cứu nguồn tư liệu nhằm làm sáng tỏ hơn tiến trình phát triển của báo chí Phật giáo Việt Nam.
14/08/2017(Xem: 4146)
Trong những năm trở lại đây, công tác nghiên cứu về phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam đã và đang đạt được nhiều kết quả khả quan. Đặc biệt, khi bàn về quá trình vận động cũng như sự ra đời của phong trào này, các tác giả như Nguyễn Quốc Tuấn, Nguyễn Đại Đồng, Lê Tâm Đắc,... đã giành nhiều thời gian khảo cứu và đề cập thông qua các công trình và bài viết tiêu biểu như: Đặc điểm và vai trò của Phật giáo Việt Nam thế kỉ 20, Phong trào chấn hưng Phật giáo ở miền Bắc Việt Nam (1924-1954), Sư Tâm Lai và việc vận động chấn hưng Phật giáo ở Việt Nam đầu thế kỉ XX, Những người đầu tiên khởi xướng phong trào chấn hưng Phật giáo ở Việt Nam...
02/07/2017(Xem: 5492)
Tôi viết “Chấn hưng Phật giáo Việt Nam” không phải từ một nhà học giả, nhà nghiên cứu, mà từ trái tim. Tôi lớn lên dưới nhịp thở mái chùa, dưới bóng Từ Bi, Trí Tuệ và Hùng lực của Đức Phật. Và đây là những gì tôi từng được học hỏi, từng nghe thấy và từng cảm xúc tận đáy lòng. Lịch sử đất nước và lịch sử Phật giáo Việt Nam không thể nào quên những bậc Tăng già chống thiền trượng kiến lập những triều đại vàng son thịnh trị. Chúng ta không thể nào không nhớ đến những bậc tiền bối nhìn thấy sự suy đồi Đạo Pháp mà lên tâm nguyện chấn hưng Phật giáo Việt Nam; không thể nào không nhớ đến cố Hòa Thượng Thích Quảng Đức mà ngọn lửa, trái tim đã thành hào quang và sự bất diệt trong lòng dân tộc, nhân loại. Chúng ta không thể nào quên hình ảnh chư tôn Hòa thượng trưởng lão khi bước xuống đường, nói vào một chính quyền tàn bạo rằng: tăng ni và phật tử Việt Nam nhất quyết bảo vệ đạo - pháp bằng con đường dân tộc, bất bạo động.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567