Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật giáo tại Ái Nhĩ Lan

22/05/201317:47(Xem: 14235)
Phật giáo tại Ái Nhĩ Lan


Phật Giáo Khắp Thế Giới

Thích Nguyên Tạng
Melbourne, Úc Châu 2001
---o0o---


Phật Giáo tại Ái Nhĩ Lan

Ái Nhĩ Lan (Ireland) là một quốc gia nằm ở miền Bắc châu Âu, thủ đô Dublin, với diện tích 70.280 km2, dân số 3.720.000 người. Ngôn ngữ chính là Anh và Ái Nhĩ Lan. Phật giáo là một trong tám tôn giáo (bao gồm: Ca tô giáo, Anh giáo, Tin lành, Do thái giáo, Bahai, Hồi giáo, Ấn giáo, Phật giáo) có mặt tại Ái Nhĩ Lan.

Trong một cuộc thống kê gần đây tại Ái Nhĩ Lan, có khoảng 1.500 người tự nhận mình là Phật tử, phần lớn trong số đó đều theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng (PG TT) và PG Nam tông. Tính đến nay có khoảng 15 tự viện và Trung Tâm Phật giáo trên khắp Ái Nhĩ Lan và Bắc Ái Nhĩ Lan. 

Phật giáo được truyền vào Ái Nhĩ Lan vào đầu thập niên bốn mươi của thế kỷ này, do công của những nhà truyền giáo cư sĩ người Anh thuộc Hội Thiện Hữu Phật Giáo Phương Tây (The Friends of the Western Buddhist Order). Hội này đã xây dựng một Trung tâm PG tại thủ đô Dublin vào năm 1944 với mục đích đưa lời Phật dạy vào thế giới phương Tây. Chủ trương của Hội này kết hợp nhiều truyền thống Phật giáo ở phương Đông để mang lại những lợi ích thiết thực cho xã hội phương Tây. Hiện tại Hội này vẫn còn hoạt động mạnh. 

Đến năm 1977, Tu viện Samyedzong được thành lập do nhu cầu ngày càng đông của người Phật tử tại nơi này. Thành viên ban đầu của tu viện phần lớn là người theo Ái Nhĩ Lan và người theo đạo Ky Tô. Họ đến với tu viện trước hết là tò mò hơn là học hỏi, vì họ quá chán ngán những cảnh xung đột giữa các tôn giáo tại xứ sở này. Lần hồi họ phát hiện ra rằng trong Phật giáo có một cái gì đó rất bao dung và thoải mái trong cách xử thế của người tín đồ Phật giáo đối với người theo đạo khác. Họ tìm thấy ở đạo Phật có một sự hài hòa và sẵn sàng hợp tác với tôn giáo khác để có thể mang lại sự bình an và công bằng cho xã hội. Đây là một trong những thuận lợi của Phật giáo khi được truyền sang những vùng đất mới như Ái Nhĩ Lan này. Vì đây là trung tâm có tăng sĩ hoạt động đầu tiên tại Ái Nhĩ Lan, cho nên nó thu hút rất nhiều sắc dân khác nhau kéo đến như Tây Tạng, Trung Hoa, Việt Nam và người bản xứ.

Nhờ vào chủ trương phóng khoáng, không tông phái, chẳng bao lâu Tu viện Samydzong đã trở nên một trung tâm PG lớn nhất tại Ái Nhĩ Lan trong việc truyền bá Chánh Pháp. Hội viên thường trực hiện nay khoảng từ ba đến bốn trăm người đến Tu viện sinh hoạt hàng tuần. Anh John O'Neill, thư ký của Tu viện kể lại những khởi đầu của Tu Viện vào cuối thập niên bảy mươi: ''Trong những năm đầu, Samyedzong gặp nhiều khó khăn trong việc tìm một nơi để xây dựng Trung tâm và cứ phải dời đi dời lại nhiều nơi khác nhau giữa Dublin và những thành phố lân cận. Từ năm 1981, mọi sinh hoạt tụng kinh, ngồi thiền, nghe pháp đều diễn ra trong một ngôi chánh điện và một thư viện nhỏ trong một căn nhà ở Inchicore. Tuy nhiên, các cuộc hoằng Pháp vẫn được tổ chức khắp các nơi ở Ái Nhĩ Lan như tỉnh Bray, Galway và Waterford. Từ năm 1977 đến 1993, Tu viện đã tổ chức tất cả được sáu mươi chuyến đi hoằng Pháp trên khắp Ái Nhĩ Lan''.

Năm 1991, Tu viện góp phần thành công với chương trình lễ nhạc truyền thống của Tây Tạng và Mông Cổ trong dịp cung đón Đức Đạt Lai Lạt Ma viếng thăm Ái Nhĩ Lan. Tu viện cũng đã bảo trợ cho bảy tăng sĩ Tây Tạng đang theo đuổi chương trình Cao học tại Ấn Độ, và Tu viện cũng đã ấn tống nhiều kinh sách phổ biến cho mọi giới độc giả ở đây. Tu viện cũng được mời nói chuyện trên hệ thống truyền thông đại chúng và được mời diễn thuyết tại nhiều trường học và nhiều viện nghiên cứu khác nhau ở Ái Nhĩ Lan.

Đến tháng giêng năm 1994, Tu viện mua được một tòa nhà lớn tại trung tâm thành phố Kilmainham và Tu viện được dời về đây. Tòa nhà chỉ được sửa sang lại chút đỉnh cho phù hợp với Tu viện và sự tu học được thiết lập trở lại như cũ mà không có một sự xáo trộn nào. Hiện tại, Tu viện đang theo đuổi một chương trình tu học như sau: thứ ba từ 8 giờ tối: ngồi thiền và thảo luận về triết học Phật giáo, bao gồm cả việc hỏi và giải đáp; thứ năm từ 8 giờ tối, lớp giáo lý cho người sơ cơ, thảo luận, tọa thiền và trà đạo; sáng thứ bảy từ 9 giờ: lớp giáo lý, nghi thức và thiền tập theo truyền thống của PG Tây Tạng.

Người lãnh đạo tinh thần Phật giáo Ireland nói chung và Tu viện Samtdzong, là Thượng toạ Akong Rinpoche, một tăng sĩ người Tây Tạng. Ngài xuất gia năm 1941, lúc chỉ mới hai tuổi sau khi được thừa nhận là hậu thân của vị trụ trì chùa Dolma Lhakang ở Tây Tạng. Ngài đã được nuôi dạy rất kỹ theo truyền thống PGTT để có thể trở thành nhà truyền giáo sau này. Ngài cũng được đào tạo như một bác sĩ để chữa bệnh theo truyền thống y học Tây Tạng. Năm 1959, ngài đã lánh nạn khỏi quê hương của mình và sang tị nạn tại Ấn Độ khi quân lính Trung Hoa xâm chiếm Tây Tạng. Ngài tiếp tục tu học tại Ấn cho đến đầu những năm sáu mươi, ngài bắt đầu chuyến hoằng Pháp đến châu Âu. Sau chuyến du hóa này, ngài đã xây dựng Tu viện Samye Ling tại Tô Cách Lan (Scottland), đây là một những cơ sở truyền truyền giáo đầu tiên của PGTT ở phương Tây thời bấy giờ.

Đại sư Akong Rinpoche là một lạt ma tu theo Hoàng Mạo phái của Tây Tạng. Ngoài việc chăm nom hai cơ sở tại Ái Nhĩ Lan và Tô Cách Lan, ngài còn bận rộn cho những chuyến hoằng Pháp ở khắp châu Âu và đang xây dựng một số Trung tâm PG tại Trung Âu và Nam Phi.

Một cơ sở Phật giáo được nhiều người biết tại Ái Nhĩ Lan là Nhóm Tu Thiền Quán Niệm (Insight Medition Group), nhóm này thành lập vào năm 1976 tại thành phố Glenageary, theo truyền thống của Phật giáo Nam Tông. Hội viên của nhóm này nằm rải rác khắp Ái Nhĩ Lan và Anh quốc. Hàng tuần, vào tối thứ tư và thứ bảy, từ 8 đến 9 giờ, đều có lớp dạy thiền quán niệm (cả lý thuyết lẫn thực hành), thu hút rất nhiều tín đồ đến tham dự, đặc biệt gần đây có rất nhiều người theo đạo Ky Tô cũng tìm đến học hỏi.

Song song với đà phát triển PG tại Ái Nhĩ Lan , PG tại Bắc Ái Nhĩ Lan cũng từng bướùc thành lập và phát triển. Hiện tại nơi này có tất cả năm trung tâm PG đang làm công tác truyền bá Chánh Pháp. Nổi bật nhất trong Trung Tâm Phật giáo Tây Tạng Tashi Khyil, được Thượng tọa Panchen Otrul thành lập vào năm 1990 tại vùng Crossgar, để làm nơi tu học cho tín đồ trong vùng, đặc biệt là người Tây Tạng và Ấn Độ tập trung tại nơi này rất đông. Một trung tâm PG khác là Viện Phật Học Asanga, được thành lập vào năm 1979 tại Belfast, theo truyền thống PG Theravada. Hội viên thường trực hiện nay là 50 người, phần đông là người Ái Nhĩ Lan. Mỗi tuần gặp nhau một lần vào ngày chủ nhật từ 11 giờ đến 13 giờ để học giáo lý, tụng kinh và tọa thiền.

Theo các bản báo cáo của các cộng đồng sắc tộc, thì mọi người dường như hiền hòa hơn và ít gây hấn hơn từ khi họ trở về với PG. Một số vùng thôn quê ở Ái Nhĩ Lan có vẽ chưa hiểu gì nhiều về giáo lý nhà Phật nhưng điều mà ai cũng biết đó là tinh thần từ bi và trí tuệ luôn được nuôi dưỡng và khuyến khích phát triển trong mọi cộng đồng. Một lý do khác khiến cho người Ái Nhĩ Lan thích thú PG, bởi vì PG không nhắm vào việc đi tìm và khuyến khích người khác đổi đạo, đây là một nguyên tắc độc đáo của PG giúp tránh khỏi mọi xung đột và tôn trọng tín ngưỡng của người bản xứ. Một vài ý kiến cho rằng có một số giới luật của PG hơi kỳ lạ đối với đời sống vật chất và văn hóa của Ái Nhĩ Lan, tuy nhiên đó không phải là tất cả. Như là một cộng đồng, PG tại Ái Nhĩ Lan vừa làm công tác truyền bá và bảo vệ truyền thống vốn có của mình nhằm đem lại những nhu cầu thiết thực cho xứ sở này. Một phát ngôn viên của PG Ái Nhĩ Lan , anh John O' Neill phát biểu: ''Tôi tự hào để nói rằng, tôi chưa bao giờ nghe thấy bất kỳ một sự xung đột, thù hằn nào xảy ra giữa các cộng đồng Phật giáo ở trên đất nước này''.

Nhìn chung, Phật giáo tại Ái Nhĩ Lan so với các quốc gia ở châu Âu, như Đức, Anh, Pháp, thì vẫn còn quá non trẻ, và phát triển một cách chậm chạp từ khi được truyền vào, điều này cũng dễ hiểu, vì thiếu quá nhiều phương tiện truyền bá cũng như quý tăng sĩ không thường xuyên lui tới nơi này, việc học và tu Phật tại xứ này xưa nay, phần lớn đều nhờ vào các vị cư sĩ có tâm đạo. Mong rằng các nhà truyền bá Chánh Pháp trong thời hiện đại này để tâm cho những xứ sở Phật giáo quá non kém như Ái Nhĩ Lan ./.

(Tổng hợp theo tài liệu: - ANOTHER IRELAND, An Introduction to Ireland 's Ethnic-Religious Minority Communities. Belfast, 1996)


---o0o---

Kỹ thuật vi tính:
Hải Hạnh, Ðàm Thanh, 

Diệu Nga, Tâm Chánh, Nguyên Tâm
Trình bày: Nhị Tường


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/04/2013(Xem: 5524)
Sự tín ngưỡng Phật giáo tại Ðài Loan bắt nguồn từ những di dân hai tỉnh Phúc Kiến và Quảng Ðông vào thời Minh – Thanh. Nhưng vào thời kỳ đầu này Phật giáo chỉ chú trọng đến việc cầu phước, tiêu tai, sự tu tập chủ yếu là của các cá nhân đơn lẻ, chứ chưa có những hoạt động mang tính Tăng đoàn ở qui mô lớn.
10/04/2013(Xem: 5078)
Một hiện tượng không bình thường đang dần phát triển trong giới Phật giáo Đài Loan, đó là việc ni giới Đài Loan mấy năm gần đây vận động huỷ bỏ “Bát Kỉnh Pháp”. Hiện tượng này do sư cô Thích Chiếu Huệ khởi xướng và ngày càng lan rộng, nhận định về hiện tượng này và tìm hiểu nguyên nhân mà nó phát sinh cần có cái nhìn toàn diện về xã hội và Phật giáo Đài Loan.
10/04/2013(Xem: 5671)
Từ ngày 18-27/05/2002, nhà lãnh đạo của Phật giáo Tây Tạng, Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, sẽ viếng thăm các tiểu bang Canberra, NSW và Victoria. Ðây là chuyến viếng thăm Úc lần thứ 4 kể từ năm 1996 của Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, chuyến viếng thăm của Ngài sẽ bắt đầu từ ngày 18, và kết thúc vào ngày 27 tháng 05 năm 2002. Các sự kiện chính sẽ được diễn ra tại bốn thành phố: Melbourne, Geelong, Canberra và Sydney.
10/04/2013(Xem: 5004)
Theo tin đài VOA, ngày 8/1/2002, đức Đạt Lai Lạt Ma tuyên bố tại tỉnh Sanarth, Bắc Ấn, ngày nào mà Tây Tạng còn chưa được giải phóng, Ngài sẽ tái sinh vào những nơi đất nước tự do.
10/04/2013(Xem: 4519)
Các con số thống kê chính thức của viện Thống Kê Úc Đại Lợi cho thấy rằng trong 5 năm vừa qua, những người dân Úc Đại Lợi không tin vào Thượng Đế (vô tôn giáo) đã giảm đi. Điều không thể chối cãi là các tín đồ Ki-Tô tiếp tục giảm sút nhiều hơn đối với đạo Anh Cát Giáo và đạo Nhà Thờ Hợp Nhất (Uniting Church), còn đạo Thiên Chúa La Mã bị giảm tượng đối ít hơn. Trong khi đó số người tự coi là vô thần giảm đi hơn là con số của năm năm về truớc. Vào năm 2001 chỉ có hơn 15% dân số bị xếp loại vô tôn giáo, so với 16.5% vào năm 1996. Các tôn giáo có tín đồ gia tăng là đạo Hồi và đạo Ấn, vì lý do di dân.
10/04/2013(Xem: 5066)
Kênh truyền hình Địa Dư Quốc Gia (National Geographic Channel) đã cho trình chiếu trong tháng 5/2002 vừa qua một loạt phóng sự (Mummy Road Show) về các xác ướp cận đại còn giữ gìn đuợc tốt. Chương trình nghiên cứu này do hai chuyên gia về xác ướp là ông Jerry Conlogue và Ron Beckett thực hiện.
10/04/2013(Xem: 4979)
Tin 1 triệu người thuộc giai cấp cùng đinh của Ấn Độ từ bỏ Ấn giáo, quy y Tam Bảo tại viện Ambedkar, thủ đô Delhi Ấn Độ, đã tạo ra cơn sửng sốt cho các đảng lãnh đạo Ấn giáo của chính phủ Ấn Độ và gây chấn động khắp thế giới. Thanh Tâm đã phỏng vấn đại đức Thích Nhật Từ, tu sĩ Việt Nam duy nhất tham dự đại lễ quy y này.
10/04/2013(Xem: 5392)
Để hiểu rõ thêm về vai trò lịch sử trọng đại của Hoàng Đế Asoka không những đối với dân-tộc A?, mà còn đối với nhân loại qua sự truyền bá Phật giáo đến các nước khác, ta nên ôn lại đôi chút về bối cảnh lịch sử A? độ đương thời.
10/04/2013(Xem: 4961)
Hiện nay có khá nhiều bản dịch ra Anh ngữ về những Pháp dụ của Vua Asoka vốn được viết bằng tiếng Brahmi (Prakrit). Bản dịch Việt ngữ này đã dựa vào 2 bản Anh ngữ phổ thông nhất và được nhìn dưới 2 góc độ tiêu biểu: 1). Giới hàn lâm, của các tác giả Nayarayanrao Appurao Nikam và Richard McKeon thuộc Viện Đại học Chicago, ấn hành năm 1959 (Viết tắt "Bản Nikam") và 2).
10/04/2013(Xem: 4837)
Trung Quốc trải qua 10 năm đại nạn "đại cách mạng văn hóa", Phật giáo đứng mũi chịu sào, tự viện bị chiếm, Phật tượng bị đập phá, tăng ni bị trục xuất khỏi chùa. Cho đến vào khoảng thập niên 70, nhà nước thực hành cải cách đổi mới, bắt đầu toàn diện quán triệt thực hiện chính sách tự do tín ngưỡng tôn giáo, tự viện lần lượt khôi phục sinh hoạt tôn giáo, tăng ni xuất gia càng ngày càng đông, nhưng tăng tài của Phật giáo lại quá hiếm hoi, không đủ người kế tục sự nghiệp hoằng dương chánh pháp, tiếp dẫn hậu lai, làm sao có thể thay đổi được vận mệnh của Phật giáo ?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]