Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kinh Pháp Cú Dhammapada

16/02/202307:47(Xem: 1032)
Kinh Pháp Cú Dhammapada



kinh phap cu-1

Kinh Pháp Cú

Dhammapada

HT. Thích Thiện Châu biên soạn

Phật tử Diệu Danh diễn đọc

 

 

 

 

 


 


Giới thiệu

 

Pháp cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu bộ kinh (Khuddakanikâya), gồm các bài kệ do Phật nói ra trong nhiều trường hợp khác nhau. Pháp (Dhamma hay Dharma) có nghĩa là đạo lý, chơn lý; Cú (pada) có nghĩa là lời nói, câu kệ. Trong ngôn ngữ pâli, pada còn có nghĩa là con đường; như vậy, Dhammapada có thể dịch là con đường chơn lý hay Đạo lý.


Kinh Pháp cú gồm có 423 bài kệ nhẹ nhàng, diễn tả đầy đủ, đạo lý nhiệm mầu của Phật qua nhiều khía cạnh khác nhau. Mỗi bài kệ chứa đựng một nội dung Phật lý rất sâu sắc và phong phú: không thể nào chỉ đọc một lần mà hiểu được, phải đọc đi đọc lại nhiều lần và suy nghĩ thật chín chắn mới mong thông ngộ. Mỗi bài kệ là một nguồn cảm hứng cao đẹp, một lối đi mới lạ, một sức mạnh kỳ diệu giúp chúng ta đến gần giác ngộ, giải thoát.

Hiện nay ít nhất đã có ba bản dịch Việt ngữ đầy đủ: một của Thượng Tọa Minh Châu dịch từ pâli, một của ông Phạm Kim Khánh dịch từ bản tiếng Anh của Đại Đức Nârada dịch từ pali. Và bản dịch khác của Thượng Tọa Thiện Siêu dịch từ chữ Hán. Bản dịch này chỉ có 200 bài thiết yếu: Tuy ít nhưng nếu chịu khó đọc, nhớ, suy nghĩ thì những bài kệ súc tích này cũng giúp độc giả thấm nhuần được pháp vị.

Những bài kệ này được giảng giải liên tục tại Thiền đường Trúc Lâm vào những ngày rằm trong hai năm 1977-1978.

Mong rằng quí vị đọc tụng Pháp cú với đại nguyện: hướng về thực hiện giác ngộ giải thoát.

Thích Thiện Châu

Paris, Thu 1978

Phật lịch 2522



htthienchau
Hòa Thượng Thích Thiện Châu (1931-1998)

 

 kinh phap cu

 


1. Tâm dẫn đầu các pháp (1)

Tâm làm chủ, tâm sử (2)

Với tâm ý ô nhiễm

Nói năng hoặc hành động

Đau khổ theo liền ta

Như bánh xe theo bò.  1

 

2. Tâm dẫn đầu các pháp

Tâm là chủ, tâm sử

Với tâm ý thanh tịnh

Nói năng hoặc hành động

Hạnh phúc theo liền ta

Như bóng không rời hình.   2

 

3. Nó mắng tôi, đánh tôi

Thắng tôi, cướp của tôi

Ai ôm ấp niềm ấy

Oán thù không thể nguôi.   3

 

4. Oán thù diệt oán thù

Đời này không thể có

Từ bi diệt oán thù

Ấy là luật nghìn thu.   5

 

5. Không thể chơn tưởng chơn (3)

Chơn tưởng là không chơn

Ai suy nghĩ tà vạy

Không thể đạt chơn lý.   11

 

6. Nay buồn, đời sau buồn

Không chơn biết không chơn

Ai suy nghĩ chơn chánh

Thông đạt được chơn lý.   12

 

7. Nay buồn, đời sau buồn

Người ác hai đời buồn

Buồn lo và phiền khổ

Vì thấy mình làm ác.   15

 

8. Nay vui, đời sau vui

Người lành hai đời vui

An vui, thật an vui

Vì thấy mình làm lành.   16

 

9. Dầu tụng nhiều kinh điển

Không thực hành buông lung

Như trẻ đếm bò người

Không hưởng quả đạo hạnh.   19

 

10. Dầu tụng ít kinh điển

Nhưng làm theo chánh pháp

Diệt trừ tham, sân, si

Hiểu đúng, tâm giải thoát

Không chấp cả hai đời

An hưởng quả đạo hạnh.   20

 

11. Không buông lung, không chết (5)

Buông lung, con đường chết

Không buông lung, không chết

Buông lung như chết rồi.   21

 

12. Biết rõ sai khác ấy

Người trí không buông lung

Hoan hỉ (trong) không buông lung

An vui nơi cõi Thánh.    22

 

13. Chuyên cần tu thiền định

Kiên trì và tinh tấn

Người trí chứng Niết bàn.

Hưởng an lành cao tột.   23

 

14. Tâm chập chờn, giao động

Khó chế, khó nhiếp phục

Người trí giữ tâm ngay

Như thợ chuốt tên thẳng.   33

 

15. Cá bị quăng lên bờ

Vẫy vùng trên đất khô

Cũng thế tâm giao động

Nên tránh cảnh Ma-vương (6).   34

 

16. Tâm khó chế, lanh lẹ

Phóng đi khắp mọi nơi

Chế tâm là việc lành

Chế tâm, có hạnh phúc.   35

 

17. Người mà tâm không an

Cũng không hiểu chánh pháp

Niềm tin bị giao động

Trí tuệ không trọn thành.   38

 

18. Thân này chẳng bao lâu

Sẽ nằm dài trên đất

Bên đường, không hay biết

Vô dụng như gỗ mục.   41

 

19. Điều thù cho gây thù

Kẻ oán làm hại nhau

Tâm hướng về tà vạy

Ác độc còn lớn hơn.   42

 

20. Điều mà không cha mẹ

Bà con nào làm được

Tâm hướng về chơn chánh

Đưa ta lên cao hơn .   43

 

21. Người nhặt hoa (khoái lạc)

Tâm say mê (vật dục)

Bị thần chết mang đi

Như lụt cuốn làng ngủ.   47

 

22. Không nên nhìn lỗi người

Người làm hay không làm

Mà nhìn vào chính mình

Có làm hay không làm.   50

23. Cũng như hoa xinh đẹp

Có sắc mà không hương

Lời nói dầu hay ho

Không thực hành không ích.   51

 

24. Cũng như hoa xinh đẹp

Có sắc lại thêm hương

Lời nói đã hay ho

Thực hành, có lợi ích.   52

 

25. Như từ một nhóm hoa

Nhiều tràng hoa được kết

Với thân sống chết này

Nhiều việc lành nên làm.   53

 

26. Trầm hương, Tagara

Hoa sen và hoa lài

Tất cả hương thơm ấy

Không bằng hương đức hạnh.   55

 

27. Một đống bùn nhơ bẩn

Vất bỏ ở đường cái

Trên ấy hoa sen nở

Thơm tho thích ý người.   58

 

28. Cũng vậy giữa những người

Tối tăm và tầm thường

Đệ tử bậc Chánh giác

Sáng ngời với trí tuệ.   59

 

29. Đêm dài với người thức

Đường dài với người mệt

Đời dài với người ngu

Không thông hiểu chánh pháp (7).   60

 

30. Nếu chẳng tìm được bạn

Hơn mình hay bằng mình

Thì nên sống một mình

Đừng chơi với người ngu.   61

 

31. Đây con tôi, của tôi

Kẻ ngu lo nghĩ thế

Tự ta còn chẳng có

Huống chi của và con.   62

32. Người  ngu biết mình ngu

Nhờ thế thành người trí

Ngu mà tưởng là trí

Quả thật là người ngu.   63

 

33. Người ngu dầu suốt đời

Sống chung với người trí

Vẫn không hiểu chánh pháp

Như muỗng với vị canh.   64

 

34. Người khôn dầu một chốc

Sống chung với người trí

Thông hiểu ngay chánh pháp

Như lưỡi với vị canh.   65

 

35. Người ngu si mê tối

Là kẻ thù của họ

Vì làm những điều ác xấu

Phải chịu quả đắng cay.   66

 

36. Hành động không làm ích

Làm rồi thì ăn năn

Mắt đầy lệ khóc than

Biết mình chịu quả báo.   67

 

37. Hành động mà làm ích

Làm rồi không ăn năn

Hoan hỷ và an vui

Biết mình hưởng quả báo.   68

 

38. Người ngu tưởng mật ngọt

Khi điều ác chưa muồi

Nhưng lúc điều ác chín

Kẻ ngu chịu khổ đau.   69

 

39. Những hành động xấu ác

Như sữa không đông ngay

Âm thầm theo kẻ ngu

Như lửa ngụn dưới tro.   70

 

 

40. Nếu được bậc hiền đức

Phê bình và sửa sai

Như người chỉ kho vàng

Nên gần gũi hiền đức

Có lợi mà không hại.

 

41. Được hiền đức khuyên dạy

Ngăn ngừa làm điều ác

Người tốt thì kính yêu

Người xấu thì ghét bỏ.   77

 

42. Chớ gần gũi bạn ác

Đừng gần người ti tiện

Nên thân thiện tri thức

Nên thân người cao thượng.   78

 

43. Thích đạo sống an vui

Với tâm niệm thuần tịnh

Người trí thường hoan hỉ

Trong đạo lý thánh nhân.   79

 

44. Như tảng đá vững chắc

Không gió nào lay chuyển

Hiền đức không giao động

Trước lời khen tiếng chê.   81

 

45. Như nước hồ sâu thẳm

 Trong xanh và yên lặng

Cũng vậy khi nghe Pháp

Hiền đức được an tịnh.   82

 

46. Người lành xả tất cả (8)

Không bàn đến dục lạc

Dầu sung sướng khổ đau

Hiền đức không vui, buồn.   83

 

47. Ít người trong nhân loại

Qua đến bờ bên kia

Số đông còn ở lại

Ngược xuôi bờ bên này (9).   85

 

 

48. Ai khéo tu Giác chi (10)

Với tâm ý chân chánh

Dứt bỏ mọi chấp trước

Hoan hỉ, không ái nhiễm

Người sáng không lậu hoặc

Chứng Niết bàn ngay đời này (11).   89

 

49. Đến đích, không ưu phiền

Giải thoát ngoài tất cả

Cởi mở mọi ràng buộc

Lửa tham ái không còn.   90

 

50. Không chất chứa tài sản

Ăn uống biết độ lượng

Tự tại trong cảnh giới :

Không, vô tướng, giải thoát (12)

Như chim giữa hư không

Đường bay thật khó tìm.   92

 

51. Như đất không nóng giận

Như trụ đá, hồ lặng

Người tự tại như thế

Không còn luân hồi nữa.   95

 

52. Người tâm ý an tịnh

An tịnh cả ngôn, hạnh

Giải thoát bởi tánh trí

Luôn luôn được tịnh lạc.   96

 

53. Làng mạc hay rừng cây

Đồng bằng hay núi cao

Chỗ nào La Hán ở

Đều là nơi tịnh lạc.    98

 

54. Vui thích thay núi rừng

Người phàm thì không ưa

Người giải thoát lại thích

Vì không tìm dục lạc.   99

 

55. Dầu nói ngàn ngàn lời

Nhưng không có ý nghĩa

Chẳng bằng một câu hay

Nghe xong được tịnh lạc.   100

 

56. Dầu tụng trăm câu kệ

Nhưng không có ý nghĩa

Chẳng bằng một câu Pháp

Nghe xong được tịnh lạc.   102

 

57. Dầu tại bãi chiến trường

Thắng ngàn ngàn quân địch

Chẳng bằng tự thắng mình

Thắng mình là cao nhất.   103

 

58. Thường tôn trọng, kính lễ

Bậc đạo đức lớn tuổi

Được tăng trưởng bốn điều

Thọ, sắc đẹp, vui, mạnh.   109

 

59. Dầu sống một trăm năm

Phá giới, không tu tịnh

Chẳng bằng sống một ngày

Có giới hạnh, tu thiền.   110

 

60. Dầu sống một trăm năm.

Lười biếng không cố gắng

Chẳng bằng sống một ngày.

Tinh tấn hết sức mình.   112

 

61. Dầu sống lâu trăm tuổi

Không thấy pháp cao nhất (13)

Chẳng bằng sống một ngày

Mà thấy pháp cao nhất.   115

 

62. Hãy gấp làm việc lành

Ngăn điều ác trong tâm

Ai chậm làm việc lành

Thì tâm thích điều ác.    116

 

63. Nếu lỡ làm điều ác

Đừng làm đi làm lại

Chớ vui trong điều ác

Chứa ác thì chịu khổ.   117

 

 

64. Nếu đã làm việc lành

Nên tiếp tục mà làm

Vui thích trong việc lành

Chứa lành thì an vui.   118

 

65. Người ác vẫn thấy vui

Khi nghiệp ác chưa muồi

Khi nghiệp ác đã chín

Người ác mới thấy khổ.   119

 

66. Chớ khinh điều ác nhỏ

Cho rằng chưa đến mình

Như nước rơi từng giọt

Lâu ngày cũng đầy bình.   121

 

67. Chớ khinh điều lành nhỏ

Cho rằng chưa đến mình

Như nước rơi từng giọt

Lâu ngày cũng đầy bình

Cũng vậy người có trí

Dần chứa đầy điều lành.   122

 

68. Ít bạn nhưng nhiều của (18)

Người buôn tránh đường hiểm

Muốn sống tránh thuốc độc

Cũng vậy hãy tránh ác.   123

 

69. Kẻ ác hại người hiền

Thanh tịnh và vô tội

Ác báo đến kẻ ngu

Như tung bụi ngược gió.   125

 

70. Có người sanh bào thai (14)

Kẻ ác vào cảnh khổ (15)

Người lành lên nhàn cảnh (16)

Vô lậu chứng Niết bàn (17).   126

 

71. Hoặc ở trên trời, giữa biển

Hoặc vào trong rừng

Không chỗ nào trên đời

Trốn được quả báo ác.   127

 

72. Hoặc trên trời, giữa biển

Hoặc vào trong hang núi

Không chỗ nào trên đời

Thoát khỏi tay thần chết.   128

 

73. Ai cũng sợ dao gậy

Ai cũng quí sự sống

Lấy ta suy bụng người

Không giết, không bảo giết.   129

 

74. Cầu hạnh phúc cho mình

Bằng cách hành hạ người

Cũng ưa thích hạnh phúc

Đời sau không hạnh phúc.   131

 

75. Cầu hạnh phúc cho mình

Mà không hành hạ người

Cũng ưa thích hạnh phúc

Đời sau được hạnh phúc.   132

 

76. Đừng nói lời thô ác

Nói ác bị trả lại

Khổ thay lời thù hận

Phải chịu lấy hình phạt.   133

 

77. Nếu được như chuông bể

Tự mình giữ im lặng

Thế là chứng Niết bàn

Tự mình không oán giận.   134

 

78. Người chăn bò cầm gậy

Lùa bò ra cánh đồng

Cũng như thế, già chết

Lùa đời tới cảnh chết.   135

 

79. Người biết thẹn tự chế

Thật hiếm hoi trong đời

Ai cũng tránh khiển trách

Như ngựa hay tránh roi.   143

 

80. Người dẫn thủy dẫn nước

Kẻ làm cung chuốt tên

Người thợ mộc uốn gỗ

Hiền đức chế ngự mình.   145

81. Vui cười làm sao được

Khi biết mình đang cháy

Bị bóng tối phủ vây

Sao không tìm ánh sáng?   146

 

82. Thân thể này già yếu

Ồ bệnh tật, dễ hoại

Khối bất tịnh tan rã

Đã sống thì phải chết.   148

 

83. Người không chịu học hỏi

Lớn lên như trâu nái

Bắp thịt có nở nang

Trí tuệ không phát triển.   152

 

84. Trải qua bao kiếp sống

Ta tìm mà chẳng gặp

Người xây cất nhà này

Khổ thay kiếp luân hồi.   153

 

85. Người cất nhà (19) đã lộ

Không còn cất nhà nữa

Tất cả rui mè (20) gãy

Kèo cột (21) cũng bị nát

Tâm ta đạt tịch diệt

Ái dục thảy tiêu tan.   154

 

86. Lúc trẻ không tu dưỡng

Chẳng thu thập tài sản

Như cò già ủ rũ

Bên ao không tôm cá.   155

 

87. Dạy người như thế nào

Răn mình cũng thế ấy

Chế mình rồi điều người

Khó thay tự chế mình.   159

 

88. Hãy nương tựa chính mình

Còn điểm tựa nào hơn

Nhờ khéo chế ngự mình

Có điểm tựa khó được.   160

 

89. Dễ làm việc xấu ác

Và những điều hại mình

Còn những việc lành ích

Thì thật là khó làm.   163

 

90. Tự mình làm điều ác

Tự mình sanh nhiễm ô

Tự mình không làm ác

Tự mình thanh tịnh mình

Tịnh hay không, do mình

Ai thanh tịnh được mình?   165

 

91. Đừng theo điều thấp kém

Không nên sống buông lung

Chớ ôm ấp tà kiến

Đừng phát triển trần tục.   167

 

92. Thức tỉnh chớ buông lung

Hãy sống theo chánh pháp

Theo chánh pháp, an vui

Cả đời này, đời sau.   168

 

93. Như bọt nước trên sông

Như ảo ảnh (giả dối)

Nhìn đời với mắt ấy

Thần chết không thấy ta (22).   170

 

94. Ai che lấp nghiệp ác

Bằng cách làm việc lành

Sẽ chói sáng thế gian

Như trăng khỏi vầng mây.   173

 

95. Ai chống đối chân lý

Ưa nói lời dối trá

Không tin có đời sau

Không ác nào không làm.   176

 

96. Sinh làm người là khó

Được sống còn là khó

Nghe chánh pháp là khó

Gặp được Phật là khó.   182

 

97. Không làm các điều ác

Thành tựu mọi việc lành

Giữ tâm ý thanh tịnh

Ấy lời các Phật dạy.   183

 

98. Nhẫn, khổ hạnh cao nhất (23)

Niết bàn, quả cao nhất

Các Phật thường dạy thế

Xuất gia không hại người

Sa môn (24) không não người.   184

 

99. Không phỉ báng, tổn hại

Giữ mình theo Giới bổn (25)

Ăn uống có tiết độ

Sống yên nơi nhàn tịnh

Chuyên chú tâm cao thượng

Ấy lời các Phật dạy.   185

 

100. Dầu mưa vàng mưa bạc

Khó thỏa mãn dục tình

Dục ít vui, nhiều khổ

Biết vậy là người trí.   186

 

101. Người ta vì hoảng sợ

Tìm nhiều nơi nương tựa

Núi non và rừng rú

Vườn, cây và đền miếu.   188

 

102. Ấy không phải (nơi) nương tựa

An ổn và cao nhất

Nương tựa các nơi ấy

Không giải thoát khổ đau.   189

 

103. Ai nương tựa Đức Phật

Chánh Pháp và Tăng đoàn

Thấy rõ bốn chơn lý

Bằng trí tuệ chơn chánh.   190

 

104. Thấy khổ và nhân khổ

Thấy khổ bị tiêu diệt

Và Chánh đạo tám nẻo (26)

Thì sẽ được hết khổ.   191

 

 

105. Ấy là nơi nương tựa

An ổn và cao nhất

Nếu nương tựa như thế

Mới giải thoát khổ đau.   192

 

106. Vui thay Phật ra đời

Vui thay Pháp được giảng

Vui thay Tăng hòa hợp

Đồng hòa tu, thật vui.   194

 

107. Phước thay, nếu được sống

Không giận giữa hận thù

Giữa những kẻ thù hận

Ta sống không hận thù.   197

 

108. Phước thay, nếu được sống

Không tham giữa tham lam

Giữa những kẻ tham lam

Ta sống không tham lam.   199

 

109. Thắng lợi sinh thù oán

Thất bại chịu khổ đau

An tịnh thì sung sướng

Bỏ đi mọi thắng bại.   201

 

110. Lửa nào bằng lửa tham

Ác nào bằng ác sân

Khổ nào bằng khổ uẩn (27)

Vui nào bằng tịnh lạc.   202

 

111. Đói khát, bệnh nguy nhất

Các hành, khổ lớn nhất

Hiểu đúng như sự thật

Niết bàn, an lành nhất.   203

 

 

112. Không bệnh, phước lợi nhất

Biết đủ, giàu có nhất

Thành tín, bạn thân nhất

Niết bàn, an lành nhất.   204

 

113. Sống chung với người ngu

Thường phải chịu sầu muộn

Khổ thay gần người ngu

Như sống với kẻ thù

Lành thay gần người hiền

Như gặp lại bà con.   207

 

114. Ái dục sanh sầu muộn

Ái dục sanh lo sợ

Ai dứt bỏ ái dục

Không sầu, không lo sợ.   216

 

115. Đủ giới đức trí tuệ

Sống Đạo, ngộ chơn lý

Và làm tròn bổn phận

Ấy là người đáng kính.   217

 

116. Người cầu pháp ly ngôn (28)

Ý xúc cảm (ba quả) (29)

Tâm không đắm dục lạc

Gọi là bậc „Thượng Lưu“ (30).   218

 

117. Người xa nhà lâu ngày

Trở về quê an toàn

Được thân quyến bạn bè

Đón chào với hân hoan.   219

 

118. Cũng như thế phước nghiệp

Đón tiếp người làm lành

Đời này đến đời sau

Như đón người thân về.   220

 

119. Ai ngăn được cơn giận

Như dừng xe đang chạy

Đáng là người đánh xe

Kẻ khác, cầm cương hờ.   222

 

120. Lấy từ thắng nóng giận

Lấy thiện thắng hung ác

Lấy thí thắng keo kít

Lấy chơn thắng hư ngụy.   223

 

121. Nói thật, không nóng giận

Dầu ít, cho người xin

Làm ba việc lành này

Thì đi đến cảnh vui.    224

 

122. Trong quá khứ, tương lai

Hiện tại, không hề có

Người hoàn toàn bị chê

Hay hoàn toàn được khen.   228

 

123. Kiểm soát ác nơi thân

Khéo léo chế ngự thân

Dứt bỏ hành động xấu

Dùng thân làm việc lành.   231

 

124. Kiểm soát ác nơi miệng

Khéo léo chế ngự miệng

Dứt bỏ lời nói xấu

Dùng miệng nói điều lành.   232

 

125. Kiểm soát ác nơi ý

Khéo léo chế ngự ý

Dứt bỏ tư tưởng xấu

Dùng ý nghĩ điều lành.   233

 

126. Người trí chế ngự thân

Chế ngự cả lời nói

Chế ngự luôn tâm ý

Khéo léo chế ba nghiệp.   234

 

127. Hãy tự tạo hòn đảo (30)

Tinh tấn và sáng suốt

Trừ bẩn, không dục vọng

Thì chứng đạt Thánh vị.   236

 

128. Dần dần, người có trí

Từng chút và từng chút

Trừ nhơ nhớp nơi mình

Như thợ vàng lọc quặng.   239

 

129. Như rỉ do sắt sanh

Trở lại ăn thân sắt

Ác nghiệp do mình tạo

Dẫn mình đến cảnh khổ.   240

130. Dễ thay sống không thẹn

Lỗ mãng như loài quạ

Thích hưởng thụ, xấc xược

Và sống trong nhiễm ô.   244

 

131. Khó thay sống hổ thẹn

Thường mong cầu trong sạch

Sống thoải mái khiêm tốn

Thanh tịnh và sáng suốt.   245

 

132. Giết hại các sanh linh

Nói những lời dối trá

Lấy của người không cho

Đi lại với vợ (chồng) người.   246

 

133. Và rượu chè say sưa

Người nào sống như vậy

Thì ngay trong đời này

Tự đào bỏ căn lành.   247

 

134. Không lửa nào bằng tham

Không kềm nào bằng sân

Không lưới nào bằng si

Không sông nào bằng ái.   251

 

135. Thấy lỗi người thì dễ

Biết lỗi mình rất khó

Lỗi người, ta phanh phui

Như tìm trấu trong gạo

Còn lỗi mình thì che

Như thợ săn ẩn mình.   252

 

136. Không thể thành hiền đức

Chỉ vì nói năng nhiều

An tịnh, không oán, sợ

Mới xứng danh hiền đức.   258

 

137.  Không thể là đạt đạo

Chỉ vì nói năng nhiều

Dù cho nghe học ít

Nhưng chứng ngộ Chánh Pháp

Không buông thả Chánh Pháp

Mới xứng danh đạt đạo.   259

 

138. Không thể thành Trưởng lão

Nếu chỉ vì đầu bạc

Chỉ có tuổi tác cao

Thì gọi là Lão ngu.   260

 

139. Hiểu, sống đúng đạo lý

Không hại, biết chế phục

Người trí không ô nhiễm

Mới xứng danh Trưởng lão.   261

 

140. Chẳng phải nói lưu loát

Và hình dáng đẹp đẽ

Mà thành người lương thỉện

Nếu còn ghen, tham, ngạo.   262

 

141. Ai vượt trên thiện ác

Thường sống đời thanh tịnh

Lấy hiểu biết ở đời

Mới xứng danh tu sĩ.   267

 

142. Không phải là hiền thánh

Nếu tổn hại sanh linh

Không hại mọi chúng sanh

Mới xứng danh hiền thánh.   270

 

143. Tám chánh, đạo thù thắng

Bốn đế, lý thù thắng

Ly dục, pháp thù thắng

Giác ngộ, người thù thắng.   273

 

144. Người hãy tự cố gắng

Như Lai chỉ dẫn đường

Ai vào đạo, tu thiền

Giải thoát khỏi lưới Ma.   276

 

145. Các Hành (32) là vô thường

Thấy vậy với trí tuệ

Nhàm chán đời khổ não

Chính là đạo thanh tịnh.   279

 

146. Các hành là khổ não

Thấy vậy với trí tuệ

Nhàm chán đời khổ não

Chính là đạo thanh tịnh.   277

147. Các hành là vô ngã

Thấy vậy với trí tuệ

Nhàm chán đời khổ não

Chính là đạo thanh tịnh.

 

148. Lúc cần, không tinh tấn

Tuy trẻ mạnh song lười

Nhu nhược và uể oải

Sao có trí ngộ đạo ?   280

 

149. Thận trọng lời, giữ ý

Thân không làm điều ác

Thanh tịnh ba nghiệp này

Chứng đạo Thánh nhân dạy.   281

 

150. Tu thiền trí tuệ sanh

Không thiền trí tuệ diệt

Biết đường hai ngã ấy

Lợi ích và tổn hại

Tự gắng sức thế nào

Để trí tuệ tăng trưởng.   282

 

151. Con không thể che chở

Cha, họ hàng cũng thế

Khi thần chết đã đến

Không ai che chở được.   288

 

152. Biết rõ sự thực ấy

Người trí tuệ, trì giới

Nhanh chóng mở con đường

Đi đến cảnh Niết bàn.   289

 

153. Nếu từ bỏ vui nhỏ

Mà hưởng vui lớn hơn

Người trí bỏ vui nhỏ

Khi thấy vui lớn hơn.   290

 

154. Gây đau khổ cho người

Cầu an vui cho mình

Bị oán thù ràng buộc

Không thoát khỏi thù oán.  291

 

155. Việc nên làm không làm

Không nên làm lại làm

Người kiêu mạn, phóng túng

Lậu hoặc tất tăng trưởng.   292

 

156. Người tu hành tinh tấn

Thường quán niệm thân thể (33)

Không làm việc không đáng

Làm những việc đáng làm

Suy tư và giác tĩnh

Lậu hoặc tất tiêu trừ.   293

 

157. Đủ niềm tin, giới hạnh

Có tiếng tốt, công đức

Người ấy đến nơi nào

Cũng được người kính trọng.   303

 

158. Người lành dù ở xa

Tỏ rạng như núi tuyết

Người ác dù ở gần

Như tên bay đêm tối.   304

 

159. Buông lung, theo vợ người

Phải chịu bốn bất hạnh

Mắc họa, ngủ không yên

Bị chê, đọa cảnh khổ.   309

 

160. Vụng nắm cỏ Kusa

Thì bị cắt đứt tay

Sa môn sống trái đạo

Tất bị đọa cảnh khổ.   311

 

161. Không nên làm việc ác

Làm xong phải sầu khổ

Nên làm các việc lành

Làm xong, không sầu khổ.   314

 

162. Không đúng lại thấy đúng

Đúng lại thấy không đúng

Ôm ấp tà kiến ấy

Chúng sanh vào cảnh khổ.   318

 

 

163. Sai thì biết là sai

Không sai biết không sai

Có đủ chánh kiến ấy

Chúng sanh vào cảnh vui.   319

 

164.  Như voi giữa trận địa

Hứng chịu cung tên bắn

Ta chịu mọi phỉ báng

Bởi phần đông vô đạo.   320

 

165. Tâm này trước buông lung

Chạy theo ái, dục, lạc

Nay tâm được chế ngự

Như nài điều phục voi.   326

 

166.  Nếu gặp bạn hiền trí

Đáng sống chung, khôn khéo

Hãy cùng sống hoan hỷ

Chánh niệm, vượt hiểm nguy.   328

 

167. Không gặp bạn hiền trí

Đáng sống chung, khôn khéo

Hãy sống riêng một mình

Như vua bỏ nước bại

Voi chúa giữa rừng sâu.   329

 

168. Tốt hơn sống một mình

Không bạn với người ngu

Độc cư, không làm ác

Không lo, như voi rừng.   330

 

169. Vui, gặp bạn lúc cần

Vui, biết đủ tùy cảnh

Vui, chết có công đức

Vui, khổ đau tiêu hết.   331

 

170. Vui thay phụng dưỡng mẹ

Vui thay hầu hạ cha

Vui thay trọng sa môn

Vui thay kính hiền thánh.   332

 

 

171. Vui thay, già có đạo

Vui thay, niềm tin vững

Vui thay, có trí tuệ

Vui thay, không làm ác.   333

 

172. Ái được người buông lung

Tăng nhanh như giây rừng

Nhảy chỗ này chổ khác

Như vượn thích trái rừng.   334

 

173. Ai sống trong đời này

Bị ái dục ràng buộc

Sầu khổ tất tăng trưởng

Như cỏ dại gặp mưa.   335

 

174. Ai sống trong đời này

Hàng phục được ái dục

Sầu khổ sẽ tiêu tan

Như nước rời lá sen.   336

 

175. Cây còn rễ sâu chắc

Tuy bị đốn, mọc lại

Ái dục chưa sạch gốc

Khổ não vẫn sanh hoài.   338

 

176. Bị ái dục ràng buộc

Sợ như thỏ trong rọ

Tỳ kheo (34) cầu giải thoát

Nên xa lìa ái dục.   343

 

177. Hiền triết nói: sắt, cây

Gai trói buộc chưa chắc

Tham châu báu, vợ con

Trói buộc, bền chắc hơn.   345

 

178. Trói buộc này rất chắc

Nó trì xuống, mềm mại

Nhưng rất khó tháo gỡ

Hiền triết cắt trừ nó

Bỏ dục lạc, không tiếc.   346

 

179. Bỏ quá khứ, hiện tại

Vị lai, vượt  thế gian

Tâm giải thoát tất cả

Không còn sanh già nữa.   348

 

180. Lành thay chế ngự mắt

Lành thay chế ngự tai

Lành thay chế ngự mũi

Lành thay chế ngự lưỡi.   360

 

181. Lành thay chế ngự thân

Lành thay chế ngự lời

Lành thay chế ngự ý

Lành thay chế tất cả

Tỳ kheo chế tất cả

Giải thoát mọi khổ đau.   361

 

182. Người chế ngự tay chân

Lời nói và đầu óc

Vui thích trong thiền định

Ở một mình, biết đủ

Đáng gọi là Tỳ kheo.   362

 

183. Tỳ kheo chế ngự lưỡi

Khéo nói, không kiêu ngạo

Lúc giảng nghĩa Chánh Pháp

Lời lẽ phải ngọt ngào.   363

 

184. Không khinh điều mình được

Không ganh người khác được

Tỳ kheo mà ganh tị

Không thể tu thiền định.   365

 

185. Đối với tâm và thân

Không chấp ta, của ta

Không lo sợ thiếu thốn
Đáng gọi là Tỳ Kheo.   367

 

186. Tỳ kheo có từ tâm

Vui thích trong Phật pháp

Chứng cảnh giới tịnh lạc

Các hành diệt, an vui.   368

 

 

187. Tỳ kheo tát thuyền này

Thuyền không, nhẹ đi mau

Tham sân si diệt trừ

Do đó, chứng Niết-bàn.   369

 

188. Tỳ kheo mà đoạn năm (35)

Bỏ năm (36) tu thêm năm (37)

Vượt khỏi năm ràng buộc (38)

Đáng gọi là "vượt dòng ".   370

 

189. Thiếu trí thì không thiền

Thiếu thiền thì không trí

Người có thiền có trí

Nhất định gần Niết bàn.   372

 

190. Tự mình kiểm soát mình

Tự mình thẩm sát mình

Tự hộ trì, giác tỉnh

Tỳ kheo sống an lạc.   379

 

191. Tự mình cứu lấy mình

Tự mình nương tựa mình

Vậy hãy tự chế ngự

Như khách buôn dạy ngựa.   380

 

192. Không vì đầu bện tóc

Đẳng cấp và gia tộc

Mà là Bà la môn

Thanh tịnh, đủ trí đức

Mới gọi Bà la môn (39)     393

 

193. Người thiếu trí, ích gì

Bện tóc, mặc da nai

Bên trong đầy dục vọng

Bên ngoài lại điểm trang ?   394

 

194. Như nước trên lá sen

Hột cải trên đầu kim

Người không mê dục lạc

Ta gọi Bà la môn.    401

 

195. Có trí tuệ sâu sắc

Biết đạo và phi đạo

Đạt mục đích vô thượng

Ta gọi Bà la môn.

 

196. Bỏ gậy không tổn hại

Chúng sanh yếu hay mạnh

Không giết, không bảo giết

Ta gọi Bà la môn.   405

 

197. Thân hữu giữa cừu địch

Ôn hòa với hung hăng

Giải thoát trong đam mê

Ta gọi Bà la môn.   406

 

198. Người không còn tham muốn

Trong đời này, đời sau

Không tham và giải thoát

Ta gọi Bà la môn.   410

 

199. Người sống trong đời này

Mà vượt cả thiện ác

Thanh tịnh không sầu, nhiễm

Ta gọi Bà la môn.  412

 

200. Người ra khỏi đường lầy

Bể luân hồi, si mê,

Vượt tới bờ, thiền định

Không tham muốn, hoài nghi

Không chấp, chứng Niết bàn

Ta gọi Bà la môn.   414

 


Chú thích sơ lược

 

1-    Các pháp : các tâm lý hệ thuộc (tâm sở) Hoặc thiện hoặc ác.

2-    Đạo Phật chủ trương có cảnh vật bên ngoài song vẫn xem nặng sự chủ động và sáng tạo nơi con người mà tâm ý là phần quan trọng.

3-    Chơn : đạo lý đúng đắn gồm có ba học (giới, định, tuệ) và bốn quả (Dự lưu, Nhất lai, Bất lai, A La Hán).

4-    Chơn lý : Niết bàn (Nirvâna),   "cảnh giới an lành "   không có những thể hiện của phiền não, tham sân si, mục đích cao nhất của đạo Phật, có thể hiện" ở đây và bây giờ "..

5-    Không chết : giải thoát ra khỏi vòng sống chết luân hồi.

6-    Ma vương hay Ma (Mâra) : phiền não gây nên đau khổ

7-    Vì si mê, không hiểu Chánh pháp nên phải sống chết luân hồi, do đó cuộc đời dài ra.

8-    Tất cả mọi sự cố chấp và say đắm.

9-    Bờ bên kia : giác ngộ và giải thoát ; bờ bên này : mê lầm ràng buộc

10- Giác chi tức là 37 phần Bồ đề, con đường đưa đến Giác ngộ :

a) Bốn niệm xứ : niệm thân, thọ, tâm, pháp.

b) Bốn chánh cần : siêng năng ngăn điều ác phát sanh, phát triển điều lành đã sanh.

c) Bốn như ý túc, những yếu tố để đạt được sức mạnh phi thường : ý muốn, chuyên cần, tâm ý, thiền quán.

d) Năm căn : tín, tấn, niệm, định, tuệ.

d) Năm lực : năm căn khi đã trở thành sức mạnh không thể lay chuyển

e) Bảy giác chi :Niệm, trạch pháp, tinh tấn, khinh an, định, xả

g) Tám chánh đạo : chánh kiến,chánh tư duy,chánh  ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.

        

11- Lậu hoặc : bốn thứ phiền não (hoặc) rơi chảy qua các giác quan và làm cho chúng sanh lọt vào vòng sống chết (lậu) : phiền não sanh từ tham dục lạc, phiền não sanh từ tham đời sống trường cửu, phiền não sanh từ tà kiến, phiền não sanh từ vô minh.

         

12- Không, vô tướng, giải thoát : ba cửa ngõ để vào Niết bàn : nhận thức sự vật vốn không có bản chất, hình tướng, do đó giải thoát tham muốn và đau khổ. Tam quan (ba cửa) trước chùa mang ý nghĩa này.

         

13- Pháp cao nhất : bốn quả Niết bàn.

         

14- Loài người và loài thú thường sanh vào bào thai. Đây là một trong bốn cách sanh của tất cả chúng sanh : sanh từ bào thai, sanh từ trứng, sanh từ chỗ ẩm thấp, sanh từ biến hóa đột nhiên.

         

15- Cảnh khổ (niraya) : những nơi không hề có hạnh phúc, nhưng không phải là địa ngục trường cửu.

         

16- Nhàn cảnh (sagga) : những nơi thuộc cõi Dục, có nhiều hạnh phúc hơn thế giới loài người, nhưng không phải là thiên đàn trường cửu.

         

17- Không còn lậu hoặc thì chứng Niết bàn

         

18- Bạn : bạn cùng đi đường.

         

19- Người cất nhà : ái dục (tanhâ).

         

20- Rui mè : thân thể

         

21- Kèo cột : phiền não.

         

22- Có nghĩa là giải thoát luân hồi

         

23- Nhẫn : nhẫn có nghĩa là nhận thức sự vật một cách như thật, không thấy có ta, của ta ; do đó không cố chấp, đắm say hoàn cảnh vừa ý và không khó chịu khổ đau đối với hoàn cảnh trái ý (nhục). Đây là phép tu dưỡng cao nhất, hơn hẳn các phép tu khổ hạnh.

         

24- Sa môn : tên gọi chung các tu sĩ, không riêng gì tu sĩ đạo Phật.

         

25- Giới bổn là giới luật của tu sĩ đạo Phật

         

26- Bốn chơn lý : Khổ, nhân khổ, khổ diệt, con đường diệt khổ gồm tám chánh đạo, cốt yếu của Phật lý là nội dung của bài thuyết pháp lần đầu tiên của Phật.

         

27- Khổ uẩn : thân gồm năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) là nơi chứa nhiều đau khổ.

         

28- Pháp ly ngôn : Niết bàn là phát xuất thế gian (mặc dù có thể xuất hiện ở đây và bây giờ) cho nên ngôn ngữ thế gian không thể diễn tả được.

         

29- Ba quả : Dự lưu, Nhất lai và Bất lai.

         

30- Bậc thượng lưu : các vị Bất lai (Anâgâmin) sau khi viên tịch sanh vào cảnh giới an lành không trở lại cõi Dục này nữa

         

31- Hòn đảo :Nương tựa vào sức mình để tiến tu, đạt đạo mà không ỷ lại  vào ai khác. Phật cũng chỉ là người dẫn đường.

         

32- Hành (sankhârâ) : các pháp bị tạo thành bởi nhân duyên nên không thật, không thường và khổ não.

         

33- Quán niệm thân thể : quán niệm sự bất tịnh nơi thân thể, một trong bốn niệm xứ.

         

34- Tỳ kheo : tu sĩ nam

         

35- Tức là thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, tham ái, sân hận.

         

36- Tham ái thuộc cõi Sắc, tham ái thuộc cõi Vô sắc, ngã mạn, loạn động, vô minh.

         

37- Tức là năm căn : Tín, tấn, niệm, định, huệ

         

38- Tức là, tham, sân, si, mạn, tà kiến

         

39- Phật dùng chữ Bà la môn (Brahman) trong ý nghĩa khác với ý nghĩa thường dùng theo Bà la môn giáo. Bà la môn giáo cho rằng Bà la môn là những người sanh ra từ đẳng cấp Bà la môn và làm công việc văn hóa và tế lễ thần linh.

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/11/2010(Xem: 6868)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 518)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 33568)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 4652)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 4621)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 4582)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 4530)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 4855)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 4589)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
23/10/2010(Xem: 7524)
Trong lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, vương triều Trần (1226-1400) được tôn vinh là triều đại sáng chói nhất thể hiện qua những chiến công hiển hách thắng giặc ngoại xâm cũng như chính sách hộ quốc an dân đã tổng hợp được sức mạnh của toàn dân ta cùng với vua quan trong việc bảo vệ và phát triển đất nước vô cùng tốt đẹp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567