Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nghi Thức Lễ Phật (do HT Thích Thiện Châu biên soạn, Phật tử Diệu Danh diễn đọc)

16/02/202308:04(Xem: 951)
Nghi Thức Lễ Phật (do HT Thích Thiện Châu biên soạn, Phật tử Diệu Danh diễn đọc)


nghi thuc le phat-thich thien chau
NGHI THỨC LỄ PHẬT 
TRÚC LÂM
HT Thích Thiện Châu biên soạn
Phật tử Diệu Danh diễn đọc




 

Dâng hương

O O O

 

Nguyện đem lòng thành kính

Gửi theo vầng mây hương

Phưởng phất khắp mười phương

Cúng dường ba ngôi báu

Thề trọn đời sống đạo

Cùng tất cả chúng sanh

Như chính pháp tu hành

Phật từ bi gia hộ

Tâm bồ đề kiên cố

Xa biển khổ nguồn mê

Chóng qua về bờ giác.  O O O

 

Lễ Phật

 

Đức Thế Tôn cao cả,

Ba cõi chẳng ai bằng,

Thầy dạy khắp trời, người,

Cha lành của bốn loại,

Trong một niệm quy y,

Dứt sạch nghiệp ba kỳ,

Ca ngợi và tán thán,

Ức kiếp không cùng tận. O

 

Chí tâm kính lễ Phật Pháp Tăng trong quá khứ, hiện tại, vị lai ở khắp mười phương. O (1 lạy)

 

Chí tâm kính lễ Phật Thích Ca Mâu Ni giáo chủ cõi Ta bà, Bồ tát Văn Thù Sư Lợi, Bồ tát Đại Hạnh Phổ Hiền và hết thảy thánh hiền trong pháp hội. O (1 lạy)

 

Chí tâm kính lễ Phật Di Lặc sẽ giáng sinh và hết thảy Bồ tát thanh tịnh. O (1 lạy)

 

 

TÁN THÁN PHẬT

Vadanâ

 

Chủ lễ đọc trước ; đại chúng đọc sau

 

Kính lễ đức Thế Tôn, Ngài là bậc giải thoát, giác ngộ hoàn toàn. O (3lần)

Namo tassa Bhagavato Arahato Sammâ Sambuddhassa.

 

BA QUY Y

Tisarana

 

Con xin quy y Phật

Con xin quy y Pháp

     Con xin quy y Tăng. O

 Buddham saranam gacchâmi

 Dhamman saranam gacchâmi

    Sangham saranam gacchâmi. O

 

Lần thứ hai con xin quy  Phật

   Lần thứ hai con xin quy y Pháp

        Lần thứ hai con xin quy y Tăng. O

Dutiyampi Buddham saranam gacchâmi

 Dutiyampi Dhammam saranam gacchâmi

     Dutiyampi Sangham saranam Gacchâmi. O

 

Lần thứ ba con xin quy y Phật

Lần thứ ba con xin quy y Pháp

      Lần thứ ba con xin quy y Tăng. O

Tatiyampi Buddham saranam gacchâmi

Tatiyampi Dhammam saranam gacchâmi

Tatiyampi Sangham saranam gacchâmi. O

 

 

NĂM GIỚI

Pancasila

 

Chủ lễ đọc trước ; đại chúng đọc sau

 

Con nguyện giữ giới không sát hại

Pânâtipâtâ veramani sikkhâpadam samâdiyâmi

 

Con nguyện giữ giới không trộm cướp

Adinnâdânâ veramani sikkhâpadam samâdiyâmi

 

 Con nguyện giữ giới không tà hạnh

 Kâmesu micchâcârâ veramani sikkâpadam samâdiyâmi

 

Con nguyện giữ giới không dối trá

Musâvâdâ veramani sikkhâpadam samâdiyâmi

 

Con nguyện giữ giới không say rượu

Surâ-meraya-majja-pamâdatthânâ veramani sikkhâpa-dam sâmdiyâmi

                                                  O O O

 

 

CẦU NGUYỆN

 Mọi người cùng quỳ, chủ lễ đọc :

 

Nam mô Thập phương thường trụ Tam bảo.

Giờ đây, chúng con chân thành kính lễ các Đức Như Lai, các vị Bồ tát, La hán thường trú trong mười phương ; chúng con nhất tâm đọc tụng kinh điển nhiệm mầu của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Chúng con nguyện noi theo chính pháp, tu dưỡng thân tâm, làm điều phước thiện và hướng về giác ngộ giải thoát. O

Ngưỡng mong các đức Như Lai, các vị Bồ tát, La hán từ bi hộ niệm cho chúng con : phiền não dứt sạch, nghiệp chướng tiêu trừ, xa lìa khổ nạn, thân tâm thường được an lành, tâm bồ đề ngày càng kiên cố, hạnh nguyện giác ngộ cho mình và cho người đuề được trọn vẹn, để cùng tất cả chúng sinh chứng đạt chính đẳng chính giác.O

Ngưỡng mong đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật từ bi chứng minh, hộ niệm. O

Ngưỡng mong các đức Như Lai, các vị Bồ tát, La hán thường trú trong mười phương từ bi chứng minh, hộ niệm. O

 

Nếu thuận tiện thì cử tán một bài tán hương.

Nếu không thì cử chuông mõ đại chúng đồng tụng.

 

SÁM HỐI PHÁT NGUYỆN

 

Đệ tử kính lạy,

Đức Phật Thích Ca.

Giáo chủ Ta bà,

Mười phương chư Phật,

Vô thượng Phật Pháp,

Và Thánh Hiền Tăng.

Đệ tử lâu đời lâu kiếp,

Nghiệp chướng nặng nề,

Tham giận kiêu căng,

Si mê lầm lạc,

Ngày nay nhờ Phật,

Biết sự lỗi lầm,

Thành tâm sám hối. O

Thề tránh điều dữ,

Nguyện làm việc lành.

Ngưỡng mong ơn Phật,

Từ bi gia hộ,

Thân không tật bệnh,

Tâm không phiền não.

Hằng ngày an vui tu tập,

Phép Phật nhiệm mầu,

Để mau ra khỏi luân hồi,

Minh tâm kiến tính,

Trí tuệ sáng suốt,

Thần thông tự tại,

Đặng cứu độ các bậc tôn trưởng,

Cha mẹ anh em,

Thân bằng quyền thuộc,

Cùng tất cả chúng sinh,

Đồng thành Phật đạo. O O O

 

KỆ KHAI KINH

 

Thăm thẳm cao siêu pháp nhiệm mầu

Trăm ngàn vạn kiếp dễ tìm đâu

Nay con nghe thấy xin trì tụng

Nguyện hiểu Như Lai nghĩa rộng sâu.

 

(Trên đây là phần khai kinh, quí Phật Tử muốn tụng kinh nào tùy theo sự cầu nguyện, tiếp theo đây là phần hồi hướng)

 

TÂM KINH ĐẠI TRÍ HUỆ SIÊU VIỆT

 

Bồ tát Quán tuệ tại, khi tu chứng đại trí tuệ siêu việt, thấy rõ năm uẩn đều không, vượt hết thả khổ ách.

Này Xá Lợi Tử! Sắc chẳng khác không, không chẳng khác Sắc; sắc tức là không, không tức là sắc; thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như vậy.

Xá Lợi Tử! Thể không của các pháp là không sinh, không diệt, không nhiễm, không sạch, không thêm, không bớt. Vì thế trong chân không, không có sắc thọ tưởng hành thức, Không nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý. Không sắc thanh hương vị xúc pháp. Không nhãn giới cho đến ý thức giới. Không vô minh, cũng không hết vô minh; cho đến không già chết, cũng không hết già chết: Không khổ, tập, diệt, đạo, không quán trí, cũng không chứng đạt, vì không gì để chứng.

Bồ tát nương trí tuệ siêu việt nên tâm không vướng ngại; vì không vướng ngại nên không sợ hãi, xa lìa hết thảy điên đảo mộng tưởng, rốt ráo đạt đến Niết Bàn. Chư Phật ba đời nương trí tuệ siêu việt nên được giác ngộ hoàn toàn, chân chính và cao nhất.

Vì thế nên biết rằng trí tuệ siêu việt là sức lớn, sức sáng, sức cao nhất, sức không gì bằng, hay trừ hết thảy khổ đau, chân thật không sai. Cho nên từ trí tuệ  siêu việt rút ra tinh yếu như vầy:

Giải thoát, giải thoát, đã giải thoát, đã cùng giải thoát, giác ngộ hoàn toàn.

 

BỐN NGUYỆN LỚN

 

Chúng sanh không số lượng, thề nguyện đề độ khắp

Phiền não không cùng tận, thề nguyện đều dứt sạch.

       Pháp môn không kể xiết, thề nguyện đều tu học.

       Phật đạo không gì hơn, thề nguyện được trọn thành. O

 

BA TỰ QUY Y

 

Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sinh hiểu rõ đạo lớn, phát tâm vô thượng. O (1 lạy)

Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sinh vào sâu kinh tạng, trí tuệ như biển. O  ( 1 lạy)

Tự quy  Tăng, xin nguyện chúng sinh thống lý đại chúng, hết thảy không ngại. O  (1 lạy)

 

HỒI HƯỚNG CÔNG ĐỨC

 

Nguyện đem công đức này,

  Hướng về khắp tất cả,

   Đệ tử và chúng sinh,

   Đều trọn thành Phật đạo.

 

O O O

 

Chú thích: O = tiếng chuông

Sau phần tụng niệm nên ngồi thiền theo phương pháp Quán niệm hơi thở vào và hơi thở ra (Anâpânasati)

 

PHƯƠNG PHÁP QUÁN NIỆM

HƠI THỞ VÀO HƠI THỞ RA

 

Phương pháp Quán niệm hơi thở vào - hơi thở ra gồm 16 chủ đề quy vào 4 nhóm: I. Quán niệm về thân, II. Quán niệm về thọ, III. Quán niệm về tâm. IV. Quán niệm về Pháp. Do đó, thiền sinh nếu có thời giờ thì tuần tự tu tập theo 16 chủ đề. Nếu không, thì ít nhất tu tập 4 chủ đề đầu và chủ đề 3.

 

I- Bốn đề tài về Thân:

 

1-    Thở vô dài, tự biết: Tôi thở vô dài,

     Thở ra dài, tự biết: Tôi thở ra dài.

 

2-    Thở vô ngắn, tự biết: Tôi thở vô ngắn,

     Thở ra ngắn, tự biết: Tôi thở ra ngắn.

 

3-    Cảm giác toàn thân, tôi thở vô,

     Cảm giác toàn thân, tôi thở ra.

 

4-    An tịnh thân hành, tôi thở vô,

     An tịnh thân hành, tôi thở ra.

 

II- Bốn đề tài về Thọ:

 

5-    Cảm giác hỷ thọ, tôi thở vô,

     Cảm giác hỷ thọ, tôi thở ra.

 

6-    Cảm giác lạc thọ, tôi thở vô,

     Cảm giác lạc thọ, tôi thở ra.

 

7-    Cảm giác tâm hành, tôi thở vô,

     Cảm giác tâm hành, tôi thở ra.

 

8-    An tịnh tâm hành, tôi thở vô,

     An tịnh tâm hành, tôi thở ra.

 

III- Bốn đề tài về Tâm:

 

9-    Cảm giác về tâm, tôi thở vô,

     Cảm giác về tâm, tôi thở ra.

10   -Với tâm hân hoan, tôi thở vô,

  Với tâm hân hoan, tôi thở ra.

 

11   -Với tâm định tĩnh, tôi thở vô,

 Với tâm định tĩnh, tôi thở ra.

 

12   - Với tâm giải thoát, tôi thở vô,

  Với tâm giải thoát, tôi thở ra.

 

IV- Bốn đề tài về Pháp:

 

13   - Quán vô thường, tôi thở vô,

   Quán vô thường, tôi thở ra.

 

14   - Quán ly tham, tôi thở vô,

  Quán ly tham, tôi thở ra.

 

15- Quán đoạn diệt, tôi thở vô,

 Quán đoạn diệt, tôi thở ra.

 

16- Quán từ bỏ, tôi thở vô,

      Quán từ bỏ, tôi thở ra.

 

Đặc điểm của phương pháp này là: nhóm I đưa đến tĩnh chỉ (samatha), nhóm II đưa vào ngưỡng cửa của minh sát, nhóm III phát triển minh sát. Nhóm IV thành tựu tuệ quán (vipassana)

 

 

 buddha-5

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/11/2010(Xem: 6869)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 518)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 33573)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 4652)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 4621)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 4585)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 4534)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 4856)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 4590)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
23/10/2010(Xem: 7524)
Trong lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, vương triều Trần (1226-1400) được tôn vinh là triều đại sáng chói nhất thể hiện qua những chiến công hiển hách thắng giặc ngoại xâm cũng như chính sách hộ quốc an dân đã tổng hợp được sức mạnh của toàn dân ta cùng với vua quan trong việc bảo vệ và phát triển đất nước vô cùng tốt đẹp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567