Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kinh Gần Phật Xa Phật ( do HT. Thích Thiện Châu giảng giải, Phật tử Diệu Danh diễn đọc)

16/02/202307:41(Xem: 1465)
Kinh Gần Phật Xa Phật ( do HT. Thích Thiện Châu giảng giải, Phật tử Diệu Danh diễn đọc)

duc phat thuyet phapHT-Thich-Thien-Chau-03
KINH GẦN PHẬT XA PHẬT

HT. Thích Thiện Châu giảng giải

Phật tử Diệu Danh diễn đọc

 

I.GIỚI THIỆU.

">Bài kinh này rút từ Itivuttaka số 92 (Tik.V.3) trang 90-92 (Pâli Text Society). Hòa Thượng Thích Minh Châu đã dịch trong tập kinh "Phật thuyết như vậy". Tủ thư Phật học Vạn Hạnh, ấn hành 1982.

Nội dung thật là rõ ràng: Sống bên cạnh Phật mà không thấy pháp, nghĩa là không thấy đạo lý, không tu dưỡng, không tiến bộ trên đường đạo thì vẫn xa Phật. Trái lại, dù ở xa Phật ngàn dặm mà vẫn thấy pháp, đạt đạo thì cũng rất gần Phật.

Lời dạy nổi bật của kinh là: "thấy pháp tức là thấy Phật"nghĩa là ngộ đạo, tu đạo và chứng đạo. Đạo là chánh pháp, giáo lý chứng được các nguyên lý khổ, vô thường, vô ngã và Nirvâna. Qua lời dạy này chúng ta thấy Phật quả là vị Đạo Sư sáng suốt, giải thoát mọi tham muốn uy quyền dù là uy quyền của ông thầy đối với học trò. Và gần Phật nghĩa là hòa hợp giữa hai hay nhiều người cùng có trình độ giác ngộ, giải thoát giống nhau. Điều này làm sáng rõ nguyên lý bình đẳng trong đạo Phật: tất cả chúng sanh đều có khả năng thành Phật, và khi đã giác ngộ giải thoát hoàn toàn thì tất cả hòa hợp với nhau trong chơn lý: "Phật Phật đạo đồng"

Như thế, vấn đề quan trọng không phải là lễ bái, cúng dường, phụng sự Phật (những điều này là cần và tốt song chưa đủ để gần Phật, thấy Phật) mà chính là sự ngộ tu chứng đạo vì có ngộ-tu-chứng đạo thì mới thấy pháp và Phật thật sự.

 

II.CHÁNH KINH

 

Nầy các Tỳ Kheo, nếu có Tỳ Kheo cầm viên đại-y (Sanghâtikanne) của Ta đi sau lưng Ta, bước theo chân Ta, song vị ấy tham cầu dục lạc, với tham dục nặng nề (tibbasârâga), tâm giận dữ, tư duy tà ác, thất niệm (3), không chánh giác, không định tĩnh, tâm mê loạn, căn tánh hoang dại (4), thì vị ấy xa hẳn Ta và Ta cũng xa vị ấy. Tại sao? Nầy các Tỳ Kheo, vị Tỳ Kheo ấy không thấy pháp (5); do không thấy pháp nên không thấy Ta. Nầy các Tỳ Kheo, dù có Tỳ Kheo ở xa Ta đấn 100Yoja (6) mà vị ấy không tham cầu dục lạc, không tham dục nặng nề, tâm không giận dữ, tư duy không tà ác, chánh niệm, chánh giác, định tĩnh, nhất tâm, căn tánh được chế ngự, thì vị ấy rất gần Ta và Ta cũng rất gần vị ấy. Tại sao? Nầy các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ấy thấy pháp, do thấy pháp nên thấy Ta.

"Dù cho có theo chân

Song đa dục não hại

Thì người tham, người không

Người mát dịu, người không

Vẫn xa cách hẳn nhau

Bậc hiền triết biết rõ,

Và hoàn toàn hiểu pháp

Như hồ không gió thổi

Không giao động yên lặng

Những người không tham dục

Những người đã mát dịu

Những người hết tham dục

Quả thật rất gần nhau"

 

III.CHÚ THÍCH SƠ LƯỢC

 

(1)  : Tựa kinh do dịch giả đặt ra

(2)  : Đại y (sanghâti): mỗi Tỳ Kheo có 3 y. Đại y thường được mặc trong khi đi khất thực hay đi ra ngoài.

(3)   : Thất niệm: không tỉnh táo, không chú ý, tán loạn

(4)  : Căn tánh hoang dại : tâm tư chưa được chế ngự và chưa hướng về đạo lý.

(5)  : Pháp : chánh pháp – thật tế cuộc đời và lý tưởng giác ngộ, giải thoát; pháp cũng chỉ có 4 chơn lý cao cả, hoặc 3 hay 4 dấu ấn: khổ, vô thường, vô ngã và Nirvâna.

(6)  : Yoja: (Do tuần) – 1 Yoja dài độ 7 dặm Anh.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/04/2013(Xem: 5955)
Con, Tỳ kheo ni Hạnh Thanh, vừa là môn phái Linh Mụ ; nhưng thật ra, Ôn, cũng như con và cả Đại chúng Linh Mụ đều là tông môn Tây Thiên pháp phái. Vì Ôn Đệ tam Tăng thống tuy Trú trì Linh Mụ quốc tự, nhưng lại là đệ tử út của Tổ Tâm Tịnh, Khai sơn Tổ Đình Tây Thiên, được triều Nguyễn dưới thời vua Khải Định sắc phong là Tây Thiên Di Đà tự. Ôn Cố Đại lão Hòa thượng Đôn Hậu có cùng Pháp tự chữ Giác với quý Ôn là Giác Thanh, trong Sơn môn Huế thường gọi là hàng thạch trụ Cửu Giác và có thêm một hàng gọi là bậc danh tăng thạc học Cửu Trí (Chỉ cho các ngài Trí Quang, Thiện Minh, Thiện Siệu v..v...) Cố đô Huế là vậy ; đó là chưa kể nơi phát sinh ra danh Tăng ưu tú ngũ Mật nhị Diệu (Mật Tín, Mật Khế, Mật Hiển, Mật Nguyện, Mật Thể, Diệu Huệ và Diệu Không) và cũng là nơi đào tạo tăng tài, xây dựng trường Đại học Phật giáo đầu tiên không những chỉ cho Huế mà cả miền Trung việt Nam nữa. Ở Huế thường kính trọng các bậc chơn tu thực học, đạo cao đức trọng nên thường lấy tên chùa để gọi pháp
11/04/2013(Xem: 11039)
Một con người với nhiều huyền thoại bao phủ theo từng bước đi, dù ngàn năm trôi qua nhưng dấu ấn vẫn còn đong đầy trong tận cùng tâm thức, hạnh nguyện độ sanh vẫn lớn dần theo nhịp tử sinh, in dấu trên từng hoá độ, kỳ bí trong vô cùng không tận, không ngôn ngữ nào có thể diễn tả trọn vẹn. Một sự lặng thinh phổ cập trên từng đường nét, chỉ có cõi lòng thành kính tri ơn, nhớ ơn, biết ơn, được nhân dân tôn thờ lễ bái
10/04/2013(Xem: 7624)
Ngày 15-2-1965, tôi và thầy Chơn Thanh cũng như các học Tăng khác từ các nơi tập trung về Phật học viện Huệ Nghiêm dự thi tuyển vào khóa II của Phật học viện. Thầy thì từ Phật học đường Phổ Quang Gia Định đến, tôi thì từ Phật học đường Lưỡng Xuyên- Trà Vinh lên, tất cả cùng một chí hướng, một mục đích và một ước nguyện là thi đậu vào Phật học viện. Kết quả, thầy thi đậu lớp Sơ trung 2, tôi thi đậu vào lớp Sơ trung 1
10/04/2013(Xem: 9537)
Kính dâng Hoà Thượng Thích Tịch Tràng, để nhớ công ơn giáo dưỡng - Tôi ra thắp nhang nơi tháp mộ của Người, ngồi bên tháp rêu phong, vôi vữa đã lở ra từng mảng, đường nét đơn sơ giản dị như cuộc đời giản dị của Thầy, lòng chợt bâng khuâng nhớ thương thầy vô hạn. Tôi tự hỏi: “Động cơ nào đã thôi thúc Thầy nguyên là một vị giáo sư Pháp văn ưu tú con nhà quý tộc ở xứ Quảng, lại cắt ngang con đường công danh sự nghiệp, để vào đây nối bước theo chân Tổ mà nối đuốc đưa mọi người qua khỏi bóng đêm vô minh dày đặc và biến nơi đây thành một quê hương tâm linh cho tất cả ngưỡng vọng hướng về”.
10/04/2013(Xem: 8782)
Một sinh thể đã xuất hiện trong cuộc đời như chưa từng có, đến lúc từ giã ra đi cũng thật nhẹ nhàng như cánh nhạn lưng trời. Vốn xuất thân từ dòng dõi trâm anh thế phiệt, được bẩm thụ cái gen của tổ phụ từng nổi tiếng văn chương, lại hấp thụ tinh hoa của địa linh sông Hương, núi Ngự - một vùng đất được xem là cái nôi của văn hóa Phật giáo miền Trung. Khi trưởng thành, thể hiện phong thái của một bậc nữ lưu tài sắc vẹn toàn, nhưng túc duyên thôi thúc, sớm rõ lẽ vô thường, dễ dàng từ bỏ cảnh phú quí vinh hoa, hâm mộ nếp sống Thiền môn thanh đạm.
10/04/2013(Xem: 6642)
Cư sĩ Tâm Minh- Lê Đình Thám sanh năm Đinh Dậu (1897) tại làng Đồng Mỹ (Phú mỹ), tổng Phú Khương, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam-nay là tỉnh Quảng Nam- Đà Nẵng. Ông xuất thân trong một gia đình quyền quí nhiều đời làm quan.Thân sinh là Binh Bộ Thượng Thư Lê Đỉnh ở triều Tự đức.
10/04/2013(Xem: 7140)
Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, thế danh là Nguyễn Văn Kỉnh, sinh ngày 17 tháng 11 năm Tân Mão (1890), tại làng Dưỡng Mông Thượng, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Thân sinh là cụ ông Nguyễn Văn Toán và cụ bà Tôn Nữ Thị Lý. Ngài là con trai thứ ba trong gia đình, bẩm tính thông minh, năm 15 tuổi Ngài đã tinh thông Nho học rõ lẽ xuất xứ ở đời, nhưng với chí khí xuất trần, muốn vươn tới một phương trời cao rộng Ngài đã xin phép song thân được xuất gia tầm sư học đạo.
10/04/2013(Xem: 11253)
Đại Lão Hoà Thượng Pháp danh Thượng Quảng Hạ Liên, Tự Bi Hoa, Hiệu Trí Hải thế danh Nguyễn Văn Chính, sinh năm 1926 – Bính Dần tại Sông Cầu – Tỉnh Phú Yên, trong một gia đình túc nho, tiểu thương, giàu lòng kính tin tam bảo, Hoà thượng là con thứ 8 trong gia đình với 09 Anh Chị Em được thân phụ là Cụ Ông Nguyễn Văn Phân – PD. Nhựt Minh và thân mẫu là cụ bà Võ Thị Dưỡng – PD.
10/04/2013(Xem: 6957)
Ngài thế danh là Nguyễn Xuân pháp danh Thanh Phong pháp tự Hoàng Thu hiệu Như Nguyện. Sinh ngày 01/06/1937 tai thôn Phú Cấp xã Diên Phú huyện Diên Khánh tinh Khánh Hoà. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Ðối thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Lẻo pháp danh Trừng Lan. Ngài là anh cả trong 4 anh em.
10/04/2013(Xem: 12088)
Viết thêm một bài về Ngài Thiện Minh, dù nhiều vị đã viết - Viết, vì thấy thêm một bài của Tâm Nguyên trên diễn đàn baovechanhphap - Viết, vì Mùa Hạ 2009, tịnh niệm An Cư, tưởng nhớ tiền nhân, làm gì cho hôm nay, và nhắc nhở hậu bối mai sau Tương chao nhà quê Tăng Lữ
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]