Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đạo Lý (Do HT. Thích Thiện Châu giảng giải và Phật tử Diệu Danh diễn đọc)

16/02/202307:21(Xem: 1265)
Đạo Lý (Do HT. Thích Thiện Châu giảng giải và Phật tử Diệu Danh diễn đọc)


Phat thuyet phap 7
ĐẠO LÝ

HT. Thích Thiện Châu

Phật tử Diệu Danh diễn đọc

I.GIỚI THIỆU

 

Bản kinh này thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikâya, tập I, trang 173-177 bản in của Pâli Text Society-London. Nội dung gồm 2 phần:

 

1)    Không như thật và không lợi ích.

Phần nhất Phật trình bày tóm tắt ba lý thuyết ngoại đạo, tuy thích hợp với những quan điểm giáo lý truyền thống  của các đạo giáo song không như thật và không lợi ích. Không như thật vì túc nghiệp, (nghiệp hành động đã làm trong đời trước), sự tạo hóa của đấng Tự tại và không nhân duyên không thể là nguyên nhân hay sự giải thích về nguyên nhân của khổ vui nơi con người. Túc nghiệp ảnh hưởng nhưng không thể là yếu tố quyết định hoàn toàn khổ vui. Sự tạo hóa của đấng Tự tại chỉ là tín ngưỡng về quyền năng của thần linh mà không thật là nguyên nhân khổ vui. Còn không nhân duyên là quan điểm phủ nhận hoàn toàn các điều kiện khách quan và chủ quan gây nên khổ vui, trong khi đó khổ vui cũng như sự vật có ra do nhiều nhân duyên chứ không phải là ngẫu nhiên.

Không lợi ích vì ba lý thuyết trên tuy lý luận khác nhau song vẫn giống nhau ở điểm là gạt bỏ ý chí và hành động chủ quan, làm cho con người vọng niệm, thụ động, chấp nhận số phận, ỷ lại tha lực, không tha thiết với vấn đề tu dưỡng đạo đức, xây dựng cuộc sống an lành và hướng về giác ngộ giải thoát .

Những lý thuyết sai lầm, khuyết điểm này đã bị Phật chỉ trích cách đây hơn 2500 năm. Tuy thế, ngày nay người ta cũng còn tìm thấy một cách dễ dàng tính chất định mệnh, thần quyền và lý luận thiếu nghiêm túc trong những lý lẽ giải thích về nguyên nhân khổ vui nơi con người trong kinh sách của đạo giáo đang lưu hành. Cũng có nhiều người, vì không hiểu Phật lý căn bản, đã (1) dùng lý thuyết nghiệp báo (karmavipâka) như lý thuyết định mệnh, (2) xem Phật như thần linh và xếp ngang hàng với Thượng Đế (Phật –Trời), (3) mê tín rủi may, bói toán, số phận mà không quan sát sự vật với ánh sáng của đạo lý Duyên Khởi (paticcasamuppâda).

 

2. Như thật và lợi ích.

Phần hai Phật trình bày tổng quát đạo lý như thật và lợi ích. Trước hết, Phật phân tích những yếu tố cấu tạo sự sống con người. Ấy là sáu giới (dhâtu, éléments). Địa giới-chất cứng, thủy giới-chất lỏng, hỏa giới-sức nóng, phong giới-sức động, không giới-khoảng trống, hệ thuộc vật lý là vật lý và thức giới tâm linh là tâm lý. Vật lý và tâm lý (Rupa, Nâma) là những gì hiện hữu nơi con người và đồng hành sự sống linh động của con người.

Sự sống của con người được thể hiện đầy đủ là do sự tiếp xúc của sáu giác quan đối với sáu đối tượng. Khi sáu giác quan tiếp xúc với sáu đối tượng  thì liền theo đó cảm tình khổ vui và trung tính hiện ra.

Như vậy khổ vui của con người có ra là do những nhân duyên chủ quan, khách quan chứ không do túc nghiệp, sự tạo hóa của đấng Tự tại hay không nhân duyên.

Xa hơn, căn cứ đạo lý Duyên khởi Phật trình bày sự thật về cuộc đời (Khổ và khổ nhân) và lý tưởng để thay đổi cuộc đời (khổ diệt và con đường diệt khổ) trong bốn chân lý cao thượng. Về Khổ, Phật chỉ rõ những nỗi khổ căn bản mà ai ai cũng phải chịu như sanh già bệnh chết và những nỗi khổ phụ thuộc có nhiều hay ít do con người tạo nên như sầu bi khổ ưu não, oán thù tụ hội, thương yêu biệt ly, mong cầu không được. Về nhân khổ, Phật phân tích quá trình dẫn đến khổ não là 12 nhân duyên mà chúng ta có thể tóm tắt trong ba điểm: mê lầm ==> hành động ích kỷ ==> đau khổ. Về khổ diệt, Phật nêu lên sự tiêu diệt toàn bộ quá trình gồm 12 nhân duyên mà vô minh hay mê lầm là khâu quan trọng. Vô minh bị tiêu diệt thì hành động ích kỷ không còn, không có hành động ích kỷ thì đau khổ không hiện ra. Về con đường diệt khổ, Phật giới thiệu một giải pháp chơn chánh: tu dưỡng theo con đường tám nẻo gồm 3 điểm: Sống theo giới luật (giới), tu tập thiền định (định) và phát triển trí tuệ (Tuệ).

Như vậy, Phật giải thích Khổ vui là những gì hiện hữu ngay nơi con người; muốn diệt trừ đau khổ không thể làm gì khác hơn là hủy bỏ nguyên nhân của nó tức là mê lầm và hành động ích kỷ bằng cách thực hiện giới định và tuệ; và một khi có đủ giới định tuệ thì an vui thể hiện ngay ở đây và bây giờ.

Vì xem đời sống ngắn ngủi của kiếp sống người chỉ là một giai đoạn trong quá trình sống-chết-chết-sống của mỗi chúng sanh, cho nên khi trình bày sự thực về cuộc đời Phật đề cập cả những nỗi khổ căn bản và khi trình bày lý tưởng để thay đổi cuộc đời Phật đưa ra một giải pháp trọn vẹn nhằm giác ngộ giải thoát con người với quá trình sống chết sâu thẳm lâu dài của nó.

Lẽ dĩ nhiên, với mục đích diệt khổ cho chúng sanh, Phật không những không bỏ quên mà còn tán thán và ca ngợi những cố gắng và mọi phương pháp nhằm thăng hoa một cách quân bình đời sống con người và xã hội loài người.

 

II. CHÁNH KINH

Các Tỳ Kheo, có ba lý thuyết ngoại đạo, (1) bị người trí thẩm vấn, nạn vấn, và thảo luận, dù thích hợp với truyền thống, làm chỗ dựa cho sự không hành động. (2)

 

Ba lý thuyết ngoại đạo

Các Tỳ Kheo, có một số Samôn, Bàlamôn nói và chấp như vầy: Tất cả Khổ, vui, không khổ không vui mà con người cảm thọ đều do túc nghiệp. (3) Có một số Samôn Bàlamôn nói và chấp như vầy: Tất cả khổ, vui không khổ không vui mà con người cảm thọ đều do sự tạo hóa của đấng Tự tại (4). Có một số Samôn, Bàlamôn nói và chấp như vầy: Tất cả khổ vui, không khổ không vui đều không nhân duyên (5).

Này các Tỳ Kheo, đối với các Samôn Bàlamôn nói và chấp như vầy: Tất cả khổ, vui, không khổ, không vui mà con người cảm thọ đều do túc nghiệp, sự tạo hóa của đấng Tự tại, không nhân duyên, (*) Ta đến với họ và nói với họ như vầy: Các Tôn giả, có thật chăng các vị nói và chấp như vầy: Tất cả khổ, vui, không khổ không vui mà con người cảm thọ đều do Túc nghiệp, sự tạo hóa của đấng Tự tại , không nhân duyên? (*)

Được Ta hỏi như vậy thì họ trả lời: Vâng, đúng như thế. (*)

 

Lý thuyết bị chỉ trích.

Ta bèn nói với họ như vầy: Các Tôn giả, như thế thì do túc nghiệp, sự sáng tạo của đấng Tự tại, không nhân duyên (*) mà có những kẻ giết hại sanh linh lấy của không cho, sống không phạm hạnh (6), nói dối trá, nói hai lưỡi, nói thô ác, nói phù phiếm, tham lam, tàn bạo, tà kiến (7). Nhưng các Tỳ Kheo, ai dựa vào túc nghiệp, sự tạo hóa đấng tự tại, không nhân duyên (*), như là lý lẽ vững chắc sẽ không có ước muốn, siêng năng, đây là điều nên làm, đây là điều không nên làm. Như thế thì điều nên làm, điều không nên làm không thể hiện hữu một cách chắc chắn vững vàng được (8), danh từ Samôn không thể áp dụng một cách đứng đắn để chỉ cho các vị, bởi vì (các vị) sống trong vọng niệm và không phòng hộ.

Các Tỳ kheo, đây là ba (*) sự chỉ trích đúng đắn của ta đối với các Samôn Bàlamôn nói và chấp như vậy. Các Tỳ kheo, đây là ba lý thuyết ngoại đạo, bị người trí thẩm vấn, nạn vấn, thảo luận, dù thích hợp với truyền thống, làm chỗ dựa cho sự không hành động.

 Và, các Tỳ Kheo, đây là đạo lý do ta thuyết giảng, không bị chỉ trích, không ô nhiễm, không đáng chê, không bị các Samôn Bàlamôn quở trách. Và các Tỳ Kheo, thế nào là đạo lý do ta thuyết giảng không bị chỉ trích, không ô nhiễm, không đáng chê, không bị các Samôn Bàlamôn quở trách?

 

Đạo lý của Phật

Các Tỳ Kheo, sáu giới (dhâtu), sáu Xúc-xứ ( phassâyatana), mười tám ý -cận-hành (manopavicârâ), bốn chân lý cao thượng  (ariyasacca) (*), là đạo lý do Ta thuyết  giảng không bị chỉ trích, không ô nhiễm, không đáng chê, không bị các Samôn Bàlamôn có trí quở trách.

 

Giới, xúc xứ, ý-cận-hành.

Đây (*) là sáu giới: địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới, thức giới (10) (*)

Đây là (*) sáu Xúc-xứ: Xúc-xứ nơi mắt, Xúc-xứ nơi tai, Xúc-xứ nơi mũi, Xúc-xứ nơi lưỡi, Xúc-xứ nơi thân, Xúc xứ nơi ý (11) (*);

Đây (*) là mười tám ý-cận-hành (12): Mắt khi thấy sắc hướng đến sắc làm chỗ nương cho hỷ, ưu, xả; lưỡi khi nếm vị hướng đến vị làm chỗ nương cho hỷ, ưu, xả; thân khi xúc vật hướng đến vật làm chỗ nương cho hỷ, ưu, xả; thân khi xúc vật hướng đến vật làm chỗ nương cho hỷ, ưu, xả, ý khi biết pháp (13) hướng đến pháp làm chỗ nương cho hỷ, ưu, xả (*).

 

Bốn chơn lý

Đây là bốn chơn lý cao thượng (*). Do chấp thủ sáu giới, các Tỳ Kheo, nên có nhập thai, do nhập thai nên có danh sắc, duyên danh sắc có sáu xứ, duyên sáu xứ có xúc, duyên xúc có thọ. Đối với người có cảm thọ (14), các Tỳ Kheo, Ta nói rõ: đây là khổ, đây là nhơn khổ, đây là khổ diệt, đây là con đường diệt khổ.

 

Khổ

Các Tỳ Kheo, thế nào là chơn lý cao thương về khổ?

- Sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sầu bi khổ, ưu não là khổ, oán thù tụ hội là khổ, thương yêu biệt ly là khổ, cầu không được là khổ; tóm lại năm thủ uẩn là khổ (15). Các Tỳ Kheo, ấy là chơn lý cao thượng về khổ.

 

Nhơn khổ

Các Tỳ Kheo, thế nào là chơn lý cao thượng về nhơn khổ?

- Duyên vô minh có hành, duyên hành có thức, duyên thức có danh sắc, duyên danh sắc có sáu xứ, duyên sáu xứ có xúc, duyên xúc có thọ, duyên thọ có ái, duyên ái có thủ, duyên thủ có hữu, duyên hữu có sanh, duyên sanh có lão, tử, sầu bi, khổ ưu não. Như thế là nhân toàn bộ của khổ uẩn. Các Tỳ Kheo, ấy là chơn lý cao thượng về nhơn khổ.

 

Khổ diệt

Các Tỳ Kheo, thế nào là chơn lý cao thượng về khổ diệt ?

- Do vô minh diệt không dư tàn nên hành diệt, hành diệt nên thức diệt, thức diệt nên danh sắc diệt, danh sắc diệt nên sáu xứ diệt, sáu xứ diệt nên xúc diệt, xúc diệt nên thọ diệt, thọ diệt nên ái diệt, ái diệt nên thủ diệt, thủ diệt nên hữu diệt, hữu diệt nên sanh diệt, sanh diệt nên lão tử, sầu bi khổ ưu não đều diệt. Như thế là sự tiêu diệt toàn bộ khổ uẩn. Các Tỳ Kheo, ấy là chơn lý cao thượng về khổ diệt.

 

Con đường diệt khổ

Các Tỳ Kheo, thế nào là chơn lý cao thượng về con đường diệt khổ?

Đây là con đường tám nẻo cao thượng tức là chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Các Tỳ Kheo, ấy là con đường diệt khổ.

 

Kết luận

Các Tỳ Kheo, sáu giới, sáu xúc xứ, mười tám ý-cận-hành, bốn chơn lý cao thượng (*) là đạo lý do Ta thuyết giảng không bị chỉ trích, không ô nhiễm, không đáng chê, không bị các Samôn Bàlamôn có trí quở trách. Điều đã được nói như thế là do nhân duyên như thế.

 

CHÚ THÍCH SƠ LƯỢC

1) Lúc Phật ở đời có rất nhiều ngoại đạo. Tính ra có đến 62 phái. Song ba lý thuyết được Phật trình bày trong bản kinh này có thể tóm tắt được tất cả những lý thuyết của ngoại đạo. Danh từ ngoại đạo không những chỉ các đạo giáo không phải đạo Phật mà còn chỉ các đạo giáo không như thật và lợi ích.

2) Sự không hành động được dịch từ chữ akiriya; dịch giả không dịch là vô vi, vì chữ vô vi trái nghĩa với chữ hữu vi (asankhata sankhata) trong Phật lý không có nghĩa là thụ động.

3) Túc nghiệp (pubba-Kata-Hetu) chỉ cho hành động đã làm trong đời trước; Túc nghiệp luận là lý thuyết của ngoại đạo mang tính chất định mệnh  trong khi đó Đạo lý nghiệp báo (Karma-vipâka) chủ trương rằng hành động quá khứ, kể cả những hành động trong phút trước, chỉ có ảnh hưởng mà không thể là yếu tố quyết định khổ vui; vì nếu có ý chí và đủ điều kiện người ta có thể đổi khổ thành vui, nghĩa là chuyển nghiệp. Đạo lý nghiệp báo phải được đặt trong toàn bộ Phật lý mà trong tâm là Đạo lý Duyên-Khởi. Hiểu đạo lý nghiệp báo một cách máy móc và một chiều tức là biến đạo lý giải thoát của Phật thành lý thuyết định mệnh của ngoại đạo.

4) Sự sáng tạo của đấng Tự-tại (issaranimâna) là sự tín ngưỡng về quyền năng của Thần linh. Tín ngưỡng này rất phổ thông. Hầu hết các Nhất thần giáo đều chủ trương rằng tất cả sự vật trong thế gian đều là sản phẩm bị tạo hóa bởi một đấng toàn trí toàn năng. Đạo Phật không hề chủ trương có một đấng tạo hóa; do đó xem Phật như Trời là điều sai lầm rất lớn.

5) Không nhân duyên (ahetu-apaccaya) tức là quan điểm cho rằng sự vật có ra một cách ngẫu nhiên mà không do điều kiện nào hết. Lý thuyết này làm cho con người có thái độ chấp nhận số phận, phó mặc cho rủi may, trái ngược hoàn toàn với đạo lý Duyên Khởi của Phật.

(*)- Những dấu này chỉ cho sự rút gọn để khỏi có sự lặp đi lặp lại trong bản dịch.

6) Sống không phạm hạnh: chạy theo dục lạc, không thanh tịnh

7) Tức là mười điều bất thiện được thể hiện qua hành động, lời nói và tâm ý.

8) Khi đã chấp nhận ba lý thuyết ngoại đạo, người ta mất cả ý chí và không còn siêng năng để tránh điều ác làm điều lành, nghĩa là không có ý muốn tu dưỡng đạo đức, giác ngộ, giải thoát cho mình cho người.

9) Chức năng của tu sĩ (Samôn) là tu dưỡng, sống trong sự tỉnh giác của tâm ý, giữ gìn và phát triển khả năng trí tuệ. Nhưng nếu tất cả đều do túc nghiệp, sự tạo hóa của đấng Tự-tại và không nhân duyên thì chức năng của tu sĩ không thể hiện hữu hay trở thành vô dụng.

10) Sáu giới (dhâtu): Chúng sanh hay con người là tên gọi chỉ cho sự tổng hợp của sáu yếu tố. Sáu yếu tố này có thể tóm thâu trong hai phần:

- Vật lý (rupa): địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới, và

– Tâm lý (nâma): thức giới.

Nơi con người thì có đủ vật lý và tâm lý. Còn ngoài sự vật thì chỉ có vật lý

11) Sáu Xúc-xứ (phassâyatana): Xúc-xứ (phassâyatana): Xúc-xứ lá ấn tượng tình cảm hay lý trí, một trong những nhân tố tâm lý liên hệ mật thiết với tất cả nhận thức của sáu giác quan : mắt, tai, mũi, lưỡi, thân ý, khi đối diện với sáu đối tượng: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; và cũng là cơ sở cho những tình cảm khổ, vui và trung tính.

12) Ý cận-hành (manopavicâra): những hành trạng gắn liền với tâm ý; có 18 loại: 6 loại thuộc về hỷ, 6 loại thuộc về ưu, 6 loại thuộc về xả, không hỷ không ưu.

13) Pháp (dharma): những đối tượng bên trong của tâm ý

14) Cảm thọ ở đây có nghĩa là hay biết chứ không riêng gì cảm giác, cảm tình.

15) So với bản kinh Chuyển Pháp Luân thì có lẽ bản văn Pali thiếu các câu "oán thù tụ hội là khổ, thương yêu biệt ly là khổ" dịch giả thêm 2 câu này

 

Buddha-0001

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/03/2013(Xem: 5715)
Nói đến thơ và nền Triết Học lưu xuất từ Tư Tưởng Phật học Tánh Không hay một Triết lý phiêu bồng từ Đông sang Tây của thế tục đế, hầu như đã được tồn đọng trong con người gầy guộc, nhỏ nhắn, dáng dấp phiêu diêu, lãng đãng như sương sớm, mây chiều.
29/03/2013(Xem: 5521)
Những năm tháng dùi mài kinh điển trong các tự viện để thể nhập Phật học huyền vi, u hiển, một thời nào đó đã lầu thông giáo lý cao siêu giải thoát, hướng thân lập mệnh trên con đường giác ngộ, để rồi hôm nay là thành quả hiển nhiên có được tận cùng tâm hồn sâu thẳm mà Thầy đang phô diễn như ý nghĩa cao siêu của Đại Bi Tâm.
29/03/2013(Xem: 5783)
Đây là chủ đề bài thuyết trình của diễn giả Nguyên Siêu, tác giả 650 trang sách trong tác phẩm “Tuệ Sỹ Đạo Sư, Thơ, Và Phương Trời Mộng” tập 1 và tập 2 vừa hoàn thành và được chính thức ra mắt tại hội trường của Hiệp Hội Người Việt tại San Diego, miền Nam California.
29/03/2013(Xem: 11930)
Tôi người Quảng Bình, 1 trong 3 nơi mà Huyền Trân công chúa mới đáng là thành hoàng. Tổ tiên gốc người Hải dương, 4 cha con cùng có mặt trong đạo quân tiếp quản Quảng Bình, rồi định cư ở 3 làng. Thuận Lý là con trưởng, kế đó, Phương Xuân là con thứ 2. Diêm điền, làng tôi, là nơi Tổ của làng tôi cùng con út định cư.Làng tôi cách trung tâm tỉnh lỵ Quảng bình chỉ có chừng 600 mét đường chim bay.
27/03/2013(Xem: 11867)
Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư, Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 01 (2007, Canada) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 02 (2008, Hoa Kỳ) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 03 (2019, Hoa Kỳ) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 04 (2010, Đức) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 05 (2011, Pháp) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 06 (2012, Úc) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 07 (2013, Hoa Kỳ) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 08 (2014, Úc) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 09 (2015, Pháp) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 10 (2016, Canada) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 11 (2018, Pháp) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 12 (2020, Úc)
18/03/2013(Xem: 6276)
Viện Đại học Vạn Hạnh ở Sài Gòn, thủ đô miền Nam Việt Nam, trước năm 1975 là một trung tâm văn hóa Phật giáo nổi tiếng lừng lẫy. Nơi đây đã quy tụ biết bao hào kiệt trượng phu, biết bao tao nhân mặc khách, biết bao giáo sư, triết gia cự phách thượng đẳng. Đặc biệt là các thiên tài xuất chúng siêu việt như Phạm Công Thiện, Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thát, nổi bật nhất là Bùi Giáng, một thi sĩ kỳ dị, xưa nay chưa từng thấy xuất hiện trên bầu trời văn nghệ Việt Nam và thế giới.
11/03/2013(Xem: 6981)
Lê Quý Đôn (1726-1784) là một danh sĩ, nhà văn hóa, sử gia, sống vào đời Hậu Lê. Ông không những ba lần thi đều đỗ đầu, kinh qua nhiều chức quan, đã từng đi sứ sang Trung Quốc, mà còn là một nhà bác học, đã để lại một gia tài đồ sộ bao gồm khoảng 16 tác phẩm và nhiều thơ, phú bằng chữ Nôm khác. [1] Trong số những tác phẩm ấy, có Kiến văn tiểu lục, [2] là một tác phẩm dành riêng quyển 9 – thiên Thiền dật, để viết về Phật giáo và Thiền tông Phật giáo Việt Nam, chủ yếu là những vị Tổ thuộc Thiền phái Trúc lâm. Trong bài viết ngắn này, chúng ta thử chỉ tìm hiểu quan điểm của Lê Quý Đôn về Phật giáo, mà không bàn sâu đến phần Thiền tông Việt Nam mà ông đã chép.
21/02/2013(Xem: 7575)
Hòa thượng Thích Tâm Giác, thế danh là Trần Văn Mỹ, sinh năm 1917 tại tỉnh Nam Định, thân phụ là cụ ông Trần Văn Quý, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Suôi. Ngài là con trai thứ hai trong gia đình gồm hai trai một gái. Ngài sinh trưởng trong một gia đình Nho phong. Thân phụ Ngài tinh thông Hán học. Cả hai ông bà lại rất thâm tín Phật pháp. Do đó, Ngài được hấp thụ ngay từ thuở ấu thơ hai nền văn hóa cổ truyền của dân tộc là Khổng giáo và Phật giáo.
19/02/2013(Xem: 8968)
Mới đây các nhà khảo cổ Mỹ và Canada đưa ra chứng cứ cho rằng Phật giáo đã được truyền vào Mỹ trước khi ông Columbus tìm ra châu Mỹ. Tuy nhiên, theo các tài liệu có được hiện nay thì Phật giáo chỉ thật sự có mặt tại Mỹ sau kỳ Đại hội Tôn giáo Thế giới tổ chức tại bang Chicago vào năm 1893. Nhưng ai là người có công truyền bá và làm lớn mạnh "hạt giống Bồ đề" trên đất Mỹ? Trong bài này, chúng tôi sẽ giới thiệu một số nhà sư cư sĩ người châu Á, những người tiên phong có công đặt nền móng xây dựng ngôi nhà chánh pháp trên đất Mỹ.
10/02/2013(Xem: 10267)
Từ những con người bình thường, không được sinh ra ở cung vàng điện ngọc, nhưng rồi trở thành những vị vua anh minh tài kiêm văn võ, tư tưởng và nhân cách cao siêu, mãi còn đọng lại với thời gian. Dù sống ở hoàng cung nhưng tâm lúc nào cũng vượt thoát, làm bậc đế vương nhưng hạnh vẫn là một sơn Tăng, ưa vui với gió nội mây ngàn, thở nhịp cùng đất trời nhân gian cây cỏ. Để rồi trở thành những người con Phật vĩ đại, trí tuệ và công hạnh thắm đượm cả không gian, thức tỉnh chúng ta trên bến bờ sinh tử của mê ngộ, đậm nét trong lòng người đến tận hôm nay. Bồ Tát Lương Võ Đế ( 463-549 ) của Trung Hoa và Trần Thái Tông ( 1218-1277) của Việt Nam, dù ở hai phương trời xa cách, sinh ra ở hai thời điểm khác nhau, nhưng cùng chung một tấm lòng, mang an lạc thịnh vượng đến cho nhân dân, và một hạnh nguyện chuyển hoá cứu độ quần sanh.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]