Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Công trình giảng dạy Phật pháp của Hòa Thượng Thích Thiện Châu

14/02/202319:43(Xem: 2703)
Công trình giảng dạy Phật pháp của Hòa Thượng Thích Thiện Châu


ht thich thien chau

Công trình giảng dạy Phật pháp
của HT Thích Thiện Châu

(Khai Sơn Thiền Viện Trúc Lâm, Paris, Pháp Quốc)

Bài viết của Cư Sĩ Nguyên Phước Trịnh Đình Hỷ

Do Phật tử Diệu Danh diễn đọc





Tôi xin phép được chia sẻ với quí vị một số nhận xét và cảm nghĩ về công trình giảng dạy về Phật pháp của ThầyThiện Châu, trong khoảng thời gian 32 năm, từ 1966 tới 1998, tại Âu châu.

Vào những năm 1960, chỉ có một số ít tăng sĩ VN được đi du học và giảng dạy ở nước ngoài. Trong số đó có Thầy Minh Châu, đi du học tại Sri Lanka rồi Ấn Độ, tốt nghiệp Tiến sĩ Phật học tại Đại học Nalanda, sau trở về Sàigòn thành lập Viện ĐH Vạn Hạnh, rồi Viện Nghiên cứu Phật học VN. Thầy Thiện Châu, đi du học tại NalandaLondon và tốt nghiệp Tiến sĩ Triết học và Văn chương tại Đại học Paris Sorbonne. Thầy Nhất Hạnh, giảng dạy tại các Đại học Princeton và Columbia, Hoa Kỳ, sau về gần Bergerac, Pháp, phát triển dòng Tiếp hiện Làng Mai.

Nhờ kinh nghiệm tu học ở nước ngoài mang lại một cái nhìn lịch sử và chính xác hơn về đạo Phật, cho nên cả ba Thầy đều ý thức được sự cần thiết chấn hưng Phật giáo, trở về với giáo lý cội nguồn, đồng thời hiện đại hóa đạo Phật, thay vì thu mình trong các nghi lễ tín ngưỡng cổ truyền. Thầy Minh Châu bằng cách nâng cao ngành giáo dục PG qua sự phát triển viện ĐH Vạn Hạnh và các viện Phật học; Thầy Thiện Châu bằng cách xiển dương một đạo Phật trung thực, giản dị, dễ hiểu cho các Phật tử tại Âu châu; Thầy Nhất Hạnh bằng cách phổ biến rộng rãi phương pháp « chánh niệm », nhằm chuyển hóa tâm thức mỗi người, trong đời sống hàng ngày.

Trong những năm 60, ngoại trừ một vài huynh trưởng Phật tử đã từng hoạt động tại VN, đa số chúng tôi là những sinh viên mới sang du học tại Pháp, Đức, Thụy Sĩ hoặc Bỉ, ngây thơ chẳng biết gì về đạo Phật. Đạo Phật của chúng tôi thực tình đã được khai sáng bởi các Thầy, và đặc biệt Thầy Thiện Châu, là người hướng dẫn và thành lập nên Liên đoàn SVPT Âu châu, Hội PTVN tại Pháp và Trúc Lâm Thiền viện.

Điều đầu tiên mà Thầy dạy cho chúng tôi và tất cả những ai muốn tìm hiểu về đạo Phật, là đạo Phật là một con đường trí tuệ, dựa lên sự hiểu biết và thực hành con đường vạch ra bởi đức Phật. Và đức Phật là một người Thầy, đã tìm ra, chứng nghiệm và chỉ dạy con đường đó cho tất cả những ai muốn đi theo ngài. Con đường đó làconđường chánh 8 nẻo, với3 môn học « giới, định, huệ », nhằm giải thoát khỏi khổ đau, tiêu tan phiền não, lậu hoặc và đem lại thanh tịnh, an lạc.

Khác với các tôn giáo thần khải như Ấn Độ giáo, Ky Tô giáo, Hồi giáo,đạo Phật không cần đến đức tin. Đúng hơn, người Phật tử tin tưởng (tiếng pali gọilà saddhā) nơi con đường và người dẫn đường, chứ không phải sùng tín (pali là bhakti) Thượng Đế, các thần linh, hay một thế lực siêu nhiên nào. Trong tinh thần đó, Thầy nhắc nhở cho chúng tôi lời Phật dạy trong Kinh Đại Bát Niết Bàn pali: « Hãy tự mình là hòn đảo, là ngọn đèn cho chính mình, hãy tự mình nương tựa vào chính mình, chớ nương tựa vào một nơi nào khác ». Và trong Kinh Pháp Cú (1): « Hãy tự mình cố gắng, Như Lai chỉ là thầy (câu 276). « Tự mình làm điều ác, Tự mình sanh nhiễm ô, Tự mình không làm ác, Tự mình thanh tịnh mình. Tịnh hay không, do mình, Không ai thanh tịnh ai. »(câu 165).

Như vậy, điều cốt yếu phải hiểu là: đạo Phật là một con đường giải thoát; nhưng không phải giải thoát bởi một thế lực bên ngoài, mà là giải thoát bởi chính mình, tự mình giải thoát, tự mình giải phóng khỏi những ràng buộc do mình tạo nên. Vào thế kỷ thứ 5- thứ 6 trước CN tại Ấn Độ thời bấy giờ, thống trị bởi truyền thống Vedavàđạo Bà La Môn, đạo Phật xuất hiện như một tư tưởng hoàn toàn mới mẻ và cách mạng, đặt con người trước trách nhiệm của mình, và đặt tin tưởng nơi con người.

Có hai bài giảng của đức Phật mà Thầy thườngkể lại, gây nên một ấn tượng sâu sắc cho chúng tôi: đó là ẩn dụ “mũi tên độc”, và lời dạy của đức Phật cho dân làng Kalama.

Khi Malunkyaputta (2), một đệ tử hỏi ngài tại sao không trả lời về các câu hỏi siêu hình như « vũ trụ hữu hạn hay vô hạn trong không gian và thời gian, Như Lai sau khi chết có còn hay không, và linh hồn và thể xác là một hay khác nhau », thì ngài lấy thí dụ của một kẻ bị bắn một mũi tên độc, không chịu cho chữa chạy nếu không được biết mũi tên bắn từ đâu, với cây cung làm bằng gỗ nào, người bắn tên là ai, vì lý do nào lại bắn, v.v., thì người đó chắc chắn sẽ chết trước khi nhận được các câu trả lời. Đức Phật luôn luôn gạt bỏ những câu hỏi siêu hình, không những không thể trả lời được, mà chỉ làm mất thời giờ, không ích lợi gì cho sự giải thoát.

Còn đối với người dân làng Kalama (3), thắc mắc không biết nên tin vào lời thuyết giảng của ai, thì đức Phật dạy: "Này các vị Kalama, các vị đừng tin vì nghe lời truyền khẩu, đồn đại, đừng tin vì đó là truyền thống, được ghi trong kinh điển, đừng tin vì lý luận, suy diễn, đừng tin vì hợp với định kiến, đừng tin vì vẻ có uy quyền, đừng tin vì đó là lời thầy mình. Nhưng khi nào các vị tự mình biết rõ: 'Các điều này bất thiện; các điều này đáng chê; các điều này nếu được chấp nhận và thực hiện, sẽ đưa đến bất hạnh, khổ đau', thì các vị hãy từ bỏ chúng. Khi nào các vị tự mình biết rõ: 'Các điều này là thiện; các điều này đáng khen; các điều này nếu được chấp nhận và thực hiện, sẽ đưa đến an lạc, hạnh phúc', thì các vị hãy dựa vào chúng". Trong suốt lịch sử tư tưởng nhân loại, chỉ có đức Phật mới nói lên điều đó: đừng vội tin ngay cả vào ta, vị thầy của các người, nhưng hãy tự mình kiểm chứng!

Hai bài học này tỏ rõ tinh thần phê phán, thực tiễn và thực nghiệm của đạo Phật. Nói theo danh từ triết học Tây phương, thì đạo Phật là một hiện tượng học (phénoménologie), chứ không phải là một bản thể học (ontologie). Đức Phật chỉ đặt trọng tâm vào một hiện tượng, là hiện tượng khổ, cũng như lời ngài nói trong Kinh Trung Bộ (4): « Như Lai chỉ dạy một điều: sự khổ đau và sự chấm dứt khổ đau » và trong Kinh Phật Tự Thuyết (5): « Cũng như nước các đại dương chỉ có một vị mặn, Giáo pháp chỉ có một vị, đó là vị giải thoát ».

Vì đạo Phật là một con đường trí tuệ, cho nên Thầy chủ trương bài trừ mê tín, dị đoan, bói toán, bùa phép, đồng bóng, tin vào linh hồn, ma quỷ, là những truyền thống dân gian lạc hậu, không liên quan gì đến đạo Phật. Thầy giải thích « cầu siêu » chính là « cầu an » cho gia đình tang quyến, nhằm xoa dịu nỗi thươngđau và mang lại an tĩnh cho những người còn lại.

Nghi lễ tụng niệm chính là dịp để người Phật tử hiểu rõ hơn về đạo Phật, vì thế cho nên Thầy chủ trương tụng niệm bằng tiếng Việt, thay vì tiếng Hán do ảnh hưởng lâu đời của Trung quốc, và đọc những bài Kinh căn bản, dễ hiểu, như cácKinh Chuyển Pháp Luân, Vô Ngã Tướng, Từ Bi, Chơn Hạnh phúc, và đặc biệt Kinh Pháp Cú (1),với những câu kệ giản dị, dễ hiểu, và gần nhất với lời Phật dạy. Chẳng hạn như câu: « Dầu tụng trăm câu kệ, Nhưng không có lợi ích, Chẳng bằng một câu Pháp, Nghe xong được tịnh lạc »(câu 102).

Đa số kinh Thầy trích giảng là thuộc Bộ Kinh (Nikaya) hệ pali, cho nên có người đặt câu hỏi là tại sao đạo Phật VN chủ yếu là Đại Thừa, mà Thầy lại có vẻ theo Tiểu Thừa (hay là Nguyên Thủy) hơn?

Trong bài « Tam Bảo là chuẩn đích cho phát triển Phật Giáo Việt Nam » (6), trình bày trong một Hội thảo năm 1996, Thầy có nói : « Chúng ta quan niệm đạo Phật là một cây lớn; chúng ta không chia phần gốc là quan trọng, hay phần cành là quan trọng.(…) Vì vậy chúng ta không phân biệt Đại thừaTiểu thừa, ngay cả Nhất thừa, cho đến Tối Thượng thừa chúng ta cũng không nói đến; chỉ nhắc đến giáo pháp của Phật là phương pháp đạo lý để giải thoát và giác ngộ, tùy theo căn cơ mình tu tập. »

Tuy nhiên, trong bài giới thiệu « Kinh Sa môn Chơn chánh » (7), thuộc « Tiểu Bộ Kinh », Thầy cho rằng quan điểm « ngũ thời bát giáo », phân chia lời Phật dạy ra làm 5 thời kỳ (Hoa Nghiêm, A Hàm, Phương Đẳng, Bát Nhã, Pháp Hoa - Niết Bàn) của một cổ đức Trung quốc (tức là ngài Trí Giả) « không phù hợp với lịch sử tư tưởng Phật giáo và nhất là hoàn toàn sai với lịch trình thuyết pháp của Phật... Sự sai lầm lớn nhất là xem nội dung A Hàm là thấp kém (gọi là Tiểu thừa), và nội dung Pháp Hoa, Niết Bàn, là cao nhất (gọi là Tối Thượng thừa) ».

Thầy còn tiếp: « Các cổ đức Trung quốc là những bậc lão thông kinh điển, nhất là kinh điển phát triển Đại Thừa, song rất thiếu sót về quan niệm lịch sử, nhất là lịch sử Phật giáo Ấn Độ. (…) Chúng ta không có gì để phiền trách các vị cổ đức. Điều đáng phê bình là các học giả Phật học sau này, Trung quốc cũng như Việt Nam, sau khi đã tiếp xúc với Ấn Độ và Phật giáo Nguyên thủy, vẫn còn duy trì những sự hiểu biết cổ kính sai lầm như cách phán giáo ấy.

Quan niệm lệch lạc về lịch sử tư tưởng Phật giáo này đã gây nên hậu quả nguy hiểm là khinh rẻ giáo lý căn bản do chính Phật thuyết trong 45 năm, trái lại ham chuộng kinh điển phát triển về sau. Thậm chí, có những tôn phái chủ trương chỉ đọc tụng một bộ Kinh Pháp Hoa hay chỉ cần (...) tụng niệm câu "Nam mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh" là cũng đủ thành Phật! (…) Như thế, đối với chúng ta, tất cả gia tài giáo lý mà chúng ta có được đều là vô giá, song điều cần thiết khi đọc kinh là phân biệt kinh nào là kinh Phật, kinh nào là kinh Tổ. »

Thầy cũng giải thích tại sao Thầy đặt trọng tâm vào đức Phật Thích Ca: « Nhiều khi quá khoan hòa chúng ta quên mất ý niệm lịch sử; vì vậy, có nhiều người đi chùa mà không biết Phật là ai, ai là người lập ra đạo Phật. Có Nam mô Phật, có Nam mô A Di Đà Phật, có Nam mô Đấu Chiến Thắng Phật,... nhưng quên mất và cũng không hiểu rõ rằng người sáng lập ra đạo Phật là đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.(…) Trong thời đại khoa học này, chúng ta phải tập trung làm sáng tỏ đức Bổn sư của chúng ta, vì đức Bổn Sư quá đẹp, quá cao, quá siêu việt. Chúng ta có thể thờ tất cả các vị Bồ Tát, nhất là Bồ Tát Quan Thế Âm, nhưng đừng để những đức tánh của các vị Bồ Tát hay hình tượng các ngài che lấp ánh sáng đức Bụt của chúng ta.(…) Trong Phật giáo bây giờ có hiện tượng là nhiều khi có chùa mà không thờ Phật, hoặc thờ Phật mà không được rõ ràng, không được chú tâm tới đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Vì vậy, cũng đừng lấy làm lạ khi có người nghi ngờ tôi không phải là tu sĩ, người ta tới chùa không thấy tôi niệm A Di Đà Phật. Tôi biết đức Phật A Di Đà rất quý, rất đẹp, là một nơi cho nhiều người quy hướng, nhất là về tuổi già và hy vọng cho đời sau. Nhưng tôi không niệm A Di Đà Phật vì tôi muốn cố ý làm cho đức Bổn Sư lịch sử, cũng như hình tượng ngài được nổi lên rõ ràng, để chúng ta theo đó mà tu hành. »

Để trả lời lá thư một Phật tử (8) đặt câu hỏi tại sao lại tụng kinh Chơn Hạnh Phúc, kinh Từ Bi mà không tụng kinh A Di Đà, Phổ Môn, Thầy viết như sau: « Tôi xin nói rõ rằng tôi không hề ngăn trở việc tụng các kinh này, nhưng tôi chỉ khuyến khích những người nào hiểu nghĩa và quen tụng các kinh nầy nên tụng riêng ở nhà. Không cần nói đến tính cách tông phái của nó: kinh A Di Đà thích hợp với người theo tông Tịnh Độ, kinh Phổ Môn thích hợp cho những người tin tưởng Bồ Tát Quan Âm (…) Trong khi đó, kinh Chơn Hạnh Phúc và kinh Từ Bi là những kinh ngắn, hay, căn bản cho tất cả Phật tử và cũng là những kinh do chính đức Phật đã nói ra. »

Còn về câu hỏi tại sao Thầy lại cho tụng Ba qui y, Năm giới bằng tiếng pali mà không tụng chú Đại bichú Chuẩn đềnhư ai cũng làm bên nhà, thì Thầy trả lời: « Sở dĩ Phật tử bên nầy tụng Ba qui y, Năm giới là vì chính Hội Phật giáo Liên hữu Quốc tế đã quyết định: "Phật tử nên tụng Ba qui yNăm giới trước các buổi lễ Phật và các cuộc hội họp". Và họ tụng bằng tiếng pali là để gây tinh thần đồng nhất không những giữa các Phật tử Nam Tông, Bắc Tông Việt Nam mà cả giữa các Phật tử Pháp, Đức, Anh, Lào, Miến Điện, Tích Lan, v.v. Ba qui y, Năm giới là những điều căn bản mà bất cứ Phật tử ở nơi nào, thuộc tông phái nào, cũng đều phải biết. Còn các bài thần chú chỉ có người Phật tử theo Mật tông mới tụng mà thôi. Đó là không nói đến điều không chính xác do sự phiên âm từ tiếng Phạn sang tiếng Hán và được đọc ra bằng tiếng Việt. Hơn nữa các bài chú nầy không thể giảng nghĩa. »

Trong sự tu tập, thiền định đối với Thầy rất quan trọng, vì đó là một trong ba môn học để đánh tan lậu hoặc. Cũng như trong Kinh Pháp Cú có câu: « Không có tuệ, không định. Không có định, không tuệ. Người có định, có tuệ, Đạt Niết bàn viên tịnh »(câu 372). Thầy thường khuyến khích tất cả mọi người nên thực hành thiền định đều đặn, theo lời dạy của đức Phật trong Kinh Tứ Niệm Xứ hay Kinh Niệm Hơi Thở. Và đặc biệt đối với chúng tôi, các trí thức Phật tử có khuynh hướng học Phật trong sách vở hơn là thực hành. Bao nhiêu năm đã qua, nhưng kỷ niệm của các buổi ngồi thiền, sáng sớm trên cánh đồng ở các trại hè, vẫn còn sâu đậm trong ký ức của chúng tôi. Sau này, nhờ các tiến bộ đột phá của khoa học thần kinh và các áp dụng y khoa của thiền chánh niệm (mindfulness), thiền định đã trở thành một phương pháp tập luyện tâm-thân (mind-body) được hưởng ứng mạnh mẽ trong xã hội Tây phương hiện đại.

Nói tóm lại, Thầy Thiện Châu trong suốt cuộc đời hoằng pháp của Thầy, đã xiển dương một đạo Phật chân thực, thuần túy, trung thành với lời dạy của đức Phật Thích Ca. Một đạo Phật không hoa mỹ, hào nhoáng, nhưng trong sáng, giản dị, dễ hiểu, có thể áp dụng được bởi tất cả những ai đi tìm một giá trị tâm linh, một triết lý sống, một nền đạo đức, một tâm lý trị liệu, làm cho tâm thức bớt phiền não, thêm an lạc và hạnh phúc.

Cuối cùng, bài học của Thầy cũng chính là tác phong của Thầy, một con người bình dị, khiêm cung, gần gũi với mọi người, với lời nói nhẹ nhàng và nụ cười hiền hậu. Trong các bài thơ làm trên sườn đồi Trúc Lâm Villebon,Thầy tự ký tên là « người làm vườn ». Chẳng hạn như trongbài « Mai am »:

« Sương núi phủ am lạnh,

Nhạc nước vẫn reo đều,

Sư già vui tĩnh tọa,

Trên đồi chim, sóc kêu. »

Hình ảnh và tấm gương của Thầy Thiện Châu, một vị chân tu, trí tuệ trong sáng và đức độ cao dày, vẫn còn phảng phất đâu đây. Mặc dù Thầy đã đi qua, và các đệ tử của Thầy cũng lần lượt đi qua, nhưng các lời dạy thấm thía của Thầy còn vang vọng mãi trên sườn đồi Trúc Lâm.

Để tưởng nhớ đến Thầy, xin chúng ta cùng nhau đọc câuđảnh lễ đức Thế tôn bằng tiếng pali, như Thầy thường đọc :       

Namo tassa bhagavato arahato sammā-sambuddhassa !

Kính lễ đức Thế tôn, bậc giải thoát, giác ngộ hoàn toàn!

 

                                                          

 Trịnh Đình Hỷ,

Pháp danh Nguyên Phước




Tài liệu trích dẫn 

1)     Kinh Pháp Cú (Dhammapada), thuộc Tiểu Bộ (Khuddaka-nikaya)

Hiểu đạo Phật một cách giản dị bằng Kinh Pháp Cú (Dhammapada)

Trịnh Nguyên Phước, Nguyên Đạo : http://www.truclamthienvien.fr/index.php/tailieu/115-kinhphapcu

2)     Tiểu kinh Malunkya (Cula-malunkya sutta), thuộc Trung Bộ (Majjhima-nikaya, 63)

Thích Minh Châu dịch : http://cusi.free.fr/dtk/trungbo/trung063.htm

3)     Kinh Kalama, thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttara-nikaya, I, 188-193)

Thích Thiện Châu, Kinh Kalama http://cusi.free.fr/gtk/gtk0054.htm

4)     Kinh Trung Bộ (Majjhima-nikaya, I, 140, 22)

5)     Kinh Phật Tự Thuyết (Udana, 67)

6)     Thích Thiện Châu, « Tam Bảo là chuẩn đích cho phát triển Phật Giáo Việt Nam », bài trình bày trong Hội thảo « Hướng phát triển Phật Giáo Việt Nam », ngày 8/9/1996, tại Trúc Lâm Thiền Viện, Villebon s/Yvette.

http://cusi.free.fr/pgtd/chp0050.htm

(7) Thích Thiện Châu, « Kinh Sa môn Chơn chánh » : http://cusi.free.fr/gtk/gtk0055.htm

(8) Thích Thiện Châu, « Trả lời thư của một Phật tử », Báo Tin Phật, số 13, ngày 14/3/1970



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/03/2013(Xem: 5803)
Nói đến thơ và nền Triết Học lưu xuất từ Tư Tưởng Phật học Tánh Không hay một Triết lý phiêu bồng từ Đông sang Tây của thế tục đế, hầu như đã được tồn đọng trong con người gầy guộc, nhỏ nhắn, dáng dấp phiêu diêu, lãng đãng như sương sớm, mây chiều.
29/03/2013(Xem: 5591)
Những năm tháng dùi mài kinh điển trong các tự viện để thể nhập Phật học huyền vi, u hiển, một thời nào đó đã lầu thông giáo lý cao siêu giải thoát, hướng thân lập mệnh trên con đường giác ngộ, để rồi hôm nay là thành quả hiển nhiên có được tận cùng tâm hồn sâu thẳm mà Thầy đang phô diễn như ý nghĩa cao siêu của Đại Bi Tâm.
29/03/2013(Xem: 5866)
Đây là chủ đề bài thuyết trình của diễn giả Nguyên Siêu, tác giả 650 trang sách trong tác phẩm “Tuệ Sỹ Đạo Sư, Thơ, Và Phương Trời Mộng” tập 1 và tập 2 vừa hoàn thành và được chính thức ra mắt tại hội trường của Hiệp Hội Người Việt tại San Diego, miền Nam California.
29/03/2013(Xem: 12066)
Tôi người Quảng Bình, 1 trong 3 nơi mà Huyền Trân công chúa mới đáng là thành hoàng. Tổ tiên gốc người Hải dương, 4 cha con cùng có mặt trong đạo quân tiếp quản Quảng Bình, rồi định cư ở 3 làng. Thuận Lý là con trưởng, kế đó, Phương Xuân là con thứ 2. Diêm điền, làng tôi, là nơi Tổ của làng tôi cùng con út định cư.Làng tôi cách trung tâm tỉnh lỵ Quảng bình chỉ có chừng 600 mét đường chim bay.
27/03/2013(Xem: 12035)
Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư, Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 01 (2007, Canada) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 02 (2008, Hoa Kỳ) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 03 (2019, Hoa Kỳ) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 04 (2010, Đức) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 05 (2011, Pháp) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 06 (2012, Úc) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 07 (2013, Hoa Kỳ) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 08 (2014, Úc) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 09 (2015, Pháp) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 10 (2016, Canada) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 11 (2018, Pháp) Đại Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn - lần 12 (2020, Úc)
18/03/2013(Xem: 6387)
Viện Đại học Vạn Hạnh ở Sài Gòn, thủ đô miền Nam Việt Nam, trước năm 1975 là một trung tâm văn hóa Phật giáo nổi tiếng lừng lẫy. Nơi đây đã quy tụ biết bao hào kiệt trượng phu, biết bao tao nhân mặc khách, biết bao giáo sư, triết gia cự phách thượng đẳng. Đặc biệt là các thiên tài xuất chúng siêu việt như Phạm Công Thiện, Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thát, nổi bật nhất là Bùi Giáng, một thi sĩ kỳ dị, xưa nay chưa từng thấy xuất hiện trên bầu trời văn nghệ Việt Nam và thế giới.
11/03/2013(Xem: 7072)
Lê Quý Đôn (1726-1784) là một danh sĩ, nhà văn hóa, sử gia, sống vào đời Hậu Lê. Ông không những ba lần thi đều đỗ đầu, kinh qua nhiều chức quan, đã từng đi sứ sang Trung Quốc, mà còn là một nhà bác học, đã để lại một gia tài đồ sộ bao gồm khoảng 16 tác phẩm và nhiều thơ, phú bằng chữ Nôm khác. [1] Trong số những tác phẩm ấy, có Kiến văn tiểu lục, [2] là một tác phẩm dành riêng quyển 9 – thiên Thiền dật, để viết về Phật giáo và Thiền tông Phật giáo Việt Nam, chủ yếu là những vị Tổ thuộc Thiền phái Trúc lâm. Trong bài viết ngắn này, chúng ta thử chỉ tìm hiểu quan điểm của Lê Quý Đôn về Phật giáo, mà không bàn sâu đến phần Thiền tông Việt Nam mà ông đã chép.
21/02/2013(Xem: 7640)
Hòa thượng Thích Tâm Giác, thế danh là Trần Văn Mỹ, sinh năm 1917 tại tỉnh Nam Định, thân phụ là cụ ông Trần Văn Quý, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Suôi. Ngài là con trai thứ hai trong gia đình gồm hai trai một gái. Ngài sinh trưởng trong một gia đình Nho phong. Thân phụ Ngài tinh thông Hán học. Cả hai ông bà lại rất thâm tín Phật pháp. Do đó, Ngài được hấp thụ ngay từ thuở ấu thơ hai nền văn hóa cổ truyền của dân tộc là Khổng giáo và Phật giáo.
19/02/2013(Xem: 9070)
Mới đây các nhà khảo cổ Mỹ và Canada đưa ra chứng cứ cho rằng Phật giáo đã được truyền vào Mỹ trước khi ông Columbus tìm ra châu Mỹ. Tuy nhiên, theo các tài liệu có được hiện nay thì Phật giáo chỉ thật sự có mặt tại Mỹ sau kỳ Đại hội Tôn giáo Thế giới tổ chức tại bang Chicago vào năm 1893. Nhưng ai là người có công truyền bá và làm lớn mạnh "hạt giống Bồ đề" trên đất Mỹ? Trong bài này, chúng tôi sẽ giới thiệu một số nhà sư cư sĩ người châu Á, những người tiên phong có công đặt nền móng xây dựng ngôi nhà chánh pháp trên đất Mỹ.
10/02/2013(Xem: 10398)
Từ những con người bình thường, không được sinh ra ở cung vàng điện ngọc, nhưng rồi trở thành những vị vua anh minh tài kiêm văn võ, tư tưởng và nhân cách cao siêu, mãi còn đọng lại với thời gian. Dù sống ở hoàng cung nhưng tâm lúc nào cũng vượt thoát, làm bậc đế vương nhưng hạnh vẫn là một sơn Tăng, ưa vui với gió nội mây ngàn, thở nhịp cùng đất trời nhân gian cây cỏ. Để rồi trở thành những người con Phật vĩ đại, trí tuệ và công hạnh thắm đượm cả không gian, thức tỉnh chúng ta trên bến bờ sinh tử của mê ngộ, đậm nét trong lòng người đến tận hôm nay. Bồ Tát Lương Võ Đế ( 463-549 ) của Trung Hoa và Trần Thái Tông ( 1218-1277) của Việt Nam, dù ở hai phương trời xa cách, sinh ra ở hai thời điểm khác nhau, nhưng cùng chung một tấm lòng, mang an lạc thịnh vượng đến cho nhân dân, và một hạnh nguyện chuyển hoá cứu độ quần sanh.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]