Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kính bạch Giác Linh Thầy Hạnh Tuấn

30/08/202205:49(Xem: 1818)
Kính bạch Giác Linh Thầy Hạnh Tuấn


HT Hanh Tuan 33
ht hanh tuan 28ngay-2-tthanhtuan-2
HT Thich Hanh Tuan (4)HT Hanh Tuan-TT Nguyen Tang-dd Nhu Tinh-2



Nam Mô A Di Đà Phật

Kính bạch Giác Linh Thầy Hạnh Tuấn,

Con rất cảm ơn Thầy Nguyên Tạng, chủ biên trang nhà Quảng Đức đã viết bài tưởng niệm và nói lên ước nguyện Phật Việt của Thầy Hạnh Tuấn (mời vào nghe), nhờ đó mà mới biết được ước nguyện và hoài bão của HTHT, một ước nguyện thật đẹp và cao quý, như Thầy NTạng đã viết : "hình ảnh hào quang Phật tại chùa Trúc Lâm là độc nhất vô nhị trên thế giới, một sự phá cách ngoạn mục mà không hề sợ chỉ trích hay phê bình, khi Thầy mạnh dạn đáu PG vào lòng của DT Việt một cánh tài tình"

Ước mơ Phật Việt như trong Tứ Trọng Ân mà Đức Phật đã dạy: trong đó có ân Tổ Quốc, 1 ân cao cả mà bao nhiêu đời này các bậc Thầy, Tổ, Thánh tử đạo phải hy sinh cho Đạo Pháp và Dân Tộc, 4 chữ được nối liền với nhau như huyết mạch gắn bó nhiệm màu!

Còn Đạo Pháp thì còn Dân Tộc , Dân Tộc còn, còn Đạo Pháp mà HT Hạnh Tuấn đã thể hiện lên trong ánh hào quang của Đức Phật tỏa sáng bằng trống đồng Đông Sơn và Ngọc Lũ của Việt Nam có từ thời vua Hùng Vương dựng nước Văn Lang biểu tượng thiêng liêng của nên văn hóa Việt Nam mà người con Phật mỗi khi đảnh lễ Đức Phật không quên cội nguồn.

Thêm thế nữa, sau lưng Đức Phật, thay cho cội Bồ Đề HT Hạnh Tuấn cho vẽ hình bầu trời xanh và mây trắng thênh thang mà riêng con, con cảm thấy rất thiền vị, thanh thoát: trời xanh cho quả địa cầu tươi mát, mây trắng bay đi khắp cõi trời như hành trạng của người Tăng Sĩ:

"Bình bát cơm ngàn nhà
Thân chơi muôn dặm xa
Mắt trong xem người thế
Mây trắng hỏi đường qua.."

Ôi thật thanh bình, khi con người thấm nhuần giáo lý cao cả của Đấng Từ Phụ Thích Ca.

Nơi Tổ Đường Trúc Lâm HT HT tôn thờ Sơ Tổ Trúc Lâm, đạo hiệu của vị vua nhân từ Trần Nhân Tông sau khi xuất gia đã khai sáng thiền phái Trúc Lâm trên núi Yên Tử mở ra một trào lưu tu học Phật tại VN vào triều đại nhà Trần

" Ở đời vui đạo hãy tùy duyên
Đói đến thì ăn mệt ngủ liền
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm
Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền"
(Lời kệ của Phật Hoàng Trần Nhân Tông)

Con xin ghi lại kệ 4 núi mà Thầy Nguyên Tạng đã giảng:

Kệ 4 núi:

Bốn núi cheo len vạn khóm tùng
Ngộ xong chẳng có, muôn vật không
Mừng được 3 chân lừa có sẵn
cỡi lên thúc mạnh vượt cao phong

Núi thứ nhất: tướng sanh
Trời đất nấu nung vạn tượng thành
Xưa nay không mống cũng không manh
Chỉ sai hữu niệm quên vô niệm
Liền trái không sanh nhận có sanh
Mũi vướng các hương, lưỡi tham vị
Mắt mờ chúng sắc, tai dắm thanh
Lang thang làm khách phong trần mãi
Ngày cách quê hương muôn dặm trình

Núi thứ hai: tướng già
Con người kiếp sống tợ phù âu
Thọ yểu người trời chớ vọng cầu
Bóng ngã nương dâu chiều sắp đến
Thân như bồ liễu tạm qua thu
Phan lang thuở nó còn xanh tóc,
Lữ Vọng ngày nay dã bạc đầu
Cuồn cuộn việc đời thôi chẳng đoái
Vâng ô gác núi, nước trôi xuôi

Núi thứ ba: tướng bệnh
Âm dương trái vận vốn xoay vần
Gieo rắc tai ương đến thế nhân
Đại để có thân thì có bệnh
Ví bằng không bệnh cũng không thân
Linh đơn chớ cậy trường sanh thuật
Lương dược khó mong được sống bền
Sớm nguyện xa lìa ma cảnh giới
Xoay tâm về đạo dưỡng thiên chân

Núi thứ tư: tướng chết
Cào đất đùng đùng trận gió hanh,
Lão ngư xoay tít, chiếc thuyề chành
Bốn bề mù mịt mây sầm bóng
Một dãy lô xô sóng cuộn liền
Theo lớp hạt mưa bay phất phới
Dồn nhau tiếng sét nổ đì đoành
Giây lâu tan bụi, bên trời tạnh
Trăng lặn lòng sông đêm mấy canh?

để nhớ và tri ân một vị vua nhân từ, đạo đức, suốt đời vì nước, vì dân, thấm nhuận , chiêm nghiệm nguyên lý vô thường của sanh, già, bệnh, chết để cho chúng ta có 1 dới sống cả thân lẫn tâm đếu thường an lạc.

Dưới chân Đức Thiên Thủ ngàn mắt, ngàn tay, con xin tiễn đưa Giác Linh Thầy về trong hào quáng của Mười Phương Chư Phật, ngán mắt chiếu soi, ngàn tay nâng đỡ ,chiếu sáng khắp nơi đến những nơi tăm tối đọa đày cho muôn người, muôn loài thoát khỏi cảnh cơ cực lầm than.

Con đường thiền hành Thầy xây dựng nơi Tinh Xá Trúc Lâm, hoa vẫn nở, cây lá vẫn xanh tươi như cám ơn đã có bàn tay Thầy chăm sóc. Thầy còn mãi bên chúng con, màu lam không bao giờ phai nhạt vẫn còn quyện theo lời ca của Thầy: màu của sức sống, của giải thoát an vui. Thầy luôn có mặt với chúng con trong muôn ngàn nẻo sống.


Con kính lễ Giác Linh Thầy,

Tây Đức 30/8/2022

Đệ tử Diệu Danh

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/11/2010(Xem: 6898)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 780)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 33727)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 4677)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 4648)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 4610)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 4564)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 4887)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 4611)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
23/10/2010(Xem: 7547)
Trong lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, vương triều Trần (1226-1400) được tôn vinh là triều đại sáng chói nhất thể hiện qua những chiến công hiển hách thắng giặc ngoại xâm cũng như chính sách hộ quốc an dân đã tổng hợp được sức mạnh của toàn dân ta cùng với vua quan trong việc bảo vệ và phát triển đất nước vô cùng tốt đẹp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567