Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lời Dẫn Nhập Kỷ Yếu Tưởng Niệm HT Hạnh Tuấn

18/12/201505:43(Xem: 6657)
Lời Dẫn Nhập Kỷ Yếu Tưởng Niệm HT Hạnh Tuấn

                                                                 thichhanhtuanLỜI DẪN NHẬP

 

Ca dao xứ Quảng có câu:

“Đất Quảng Nam chưa mưa đã thấm

Rượu Hồng Đào chưa nhấm đã say”

Từ năm 1600 đến năm 1786 gần 300 năm  như vậy, chín đời Chúa Nguyễn ở  Đàng Trong đã ngự trị từ  xứ Quảng trở vào Nam và từ năm 1600 đến năm 1640 cửa biển Hội An đã là nơi giao lưu với các nền văn minh Tây phương, trong khi đó ở Đàng Ngoài do Vua Lê, Chúa Trịnh cai trị thì không được phát triển như vậy. Tiếng Quảng Nam hay nói đúng hơn là tiếng Quốc ngữ cũng đã được xuất phát từ làng Thanh Chiêm tại Hội An. Có lẽ vì thế mà đã có lần chúa Nguyễn gọi Quảng Nam  là nước Quảng Nam, chứ không còn là Quảng Nam Trấn và tiếng Quảng Nam một thời cũng đã được dùng như là tiếng nói chung của những người sinh sống ở Đàng Trong.

Người ta hay bảo: “Quảng Nam hay cãi, Quảng Ngãi hay lo, Bình Định nằm co, Thừa Thiên ăn hết”. Đó là đặc trưng của những người được sinh ra tại những vùng đất nầy. Thế nhưng khi người ta nói đến mì Quảng, giọng Quảng, Cao Lầu Hội An, cãi như người Quảng v.v…thì ai cũng biết rằng những việc nầy cốt để ám chỉ người Quảng Nam, chứ chẳng ai khác, mặc dầu nước Việt Nam của chúng ta có rất nhiều địa phương bắt đầu bằng chữ Quảng như: Quảng Trị, Quảng Bình, Quảng Tín, Quảng Ngãi, Quảng Đức v.v…Thầy Hạnh Tuấn được sinh ra từ xứ Quảng Nam ấy nhưng ít khi nghe Thầy bảo rằng “Xứ Quảng hay nước Quảng của chúng tôi”, mà Thầy hay hãnh diện để nói với bạn bè rằng: “Nước Mỹ của chúng tôi”. Câu nói nầy chứng tỏ rằng Thầy đã hội nhập sâu vào nền văn hóa của Hoa Kỳ và đây cũng có thể là hoài bão của Thầy muốn giới thiệu nền văn hóa Việt cho người bản xứ, nhưng tiếc thay công hạnh chưa hoàn thành thì Thầy đã ra đi vào cuối tháng 10 năm 2015 vừa qua tại Chicago, Hoa Kỳ, hưởng thọ 60 tuổi.

Mùa Hè năm 1991 sau khi sang Đức dự lễ Khánh Thành chùa Viên Giác tại Hannover về lại Hoa Kỳ, là Thầy bắt tay vào việc liên lạc với Thầy Hải Tạng ở trong nước để hoàn thành tâm nguyện cho một Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại Hoa Kỳ và  đã được thành tựu, sau đó Thầy từ nhiệm tất cả, lui về với công việc dùi mài kinh sử. Niềm tin của Thầy vào tuổi trẻ không lúc nào là không gắn chặt qua tinh thần “Tôi yêu màu lam” mà Thầy đã mặc vào người khi chưa xuất gia và đã mang theo suốt cả cuộc đời của Thầy trong khi hành hoạt tại Hoa Kỳ cũng như Hải Ngoại. Ngoài ra sự truyền thừa của Môn Phái Lâm Tế Chúc Thánh ở Hoa Kỳ, Thầy cũng luôn quan tâm, vì muốn rằng việc “Ẩm thủy tư nguyên” là chuyện của những người thuộc đàn hậu học, phải cần duy trì cũng như phát triển, nên bao nhiêu năm qua Thầy đã thể hiện được điều đó.

Mong rằng: Đất Hoa Kỳ cũng giống như đất Quảng Nam, nơi Thầy đã xuất thân và thành đạt, sẽ ươm mầm trí tuệ, từ bi để bốn loại hạt giống như tâm nguyện của Thầy bên trên hằng mong muốn, được đâm chồi nẩy lộc trên miền đất mới ấy, mà Gia Đình Phật Tử Việt Nam vốn là điểm then chốt để Thầy hy vọng cũng như trông chờ. Riêng rượu Hồng Đào là loại rượu gì, khi hỏi đến thì ít có người Quảng Nam nào rõ biết, nhưng cũng mong rằng tinh thần hy hiến của Thầy cho Đạo Pháp và Dân Tộc sẽ lan tỏa khắp muôn phương như mùi vị của rượu Hồng Đào vậy.

Hôm nay (17.12.2015) là ngày tuần Chung thất của Thầy và cũng nhằm ngày mồng bảy tháng 11 âm lịch, vốn là ngày Kỵ Tổ Khai Sơn chùa Chúc Thánh tại Hội An. Đây là một sự trùng hợp ngẫu nhiên, nhưng điều ấy cũng có nghĩa là Thầy đã hạnh ngộ cùng chư Tổ trong ngày trọng đại nầy. Xin cầu chúc Thầy hưởng được phần “Chúc Thánh Dư Hương” như Đức cố Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN Thích Huyền Quang đã đi bốn chữ nầy, hiện được treo trong Tổ Đường chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc.

Xin niệm ân toàn thể chư Tôn Đức Tăng Ni trong cũng như ngoài Giáo Hội, Môn phong Pháp phái Chúc Thánh cũng như những Pháp Lữ gần xa đã vì tình Linh Sơn cốt nhục mà đã đến bên kim quan của Thầy để tiễn đưa lần cuối, đồng thời cũng đã chia sẻ với môn đồ pháp quyến những mất mát to lớn mà không thể nào dùng ngôn từ để bù đắp vào đó được cả. Ân ấy, nghĩa nầy xin vô vàn thâm tạ. Chúng tôi cũng xin cảm ơn tất cả chư Tôn Đức Tăng Ni và Quý đạo hữu Phật Tử xa gần đã đóng góp bài vở cho tập Kỷ Yếu nầy để kịp tuần Bách nhật của cố Hòa Thượng Thích Hạnh Tuấn.

 Người bạn Đạo hay quan tâm chia sẻ mọi việc, kể từ khi còn ở chung tại chùa Từ Quang, San Francisco, California cho đến khi “cái quan luận sự”, không giây phút nào là không quan tâm, lo lắng đốc thúc để tập Kỷ Yếu nầy được thành hình. Đó là Thượng Tọa Thích Từ Lực, Viện Chủ chùa Phổ Từ và Trung Tâm Phổ Trí ở miền Bắc Cali. Nếu không có Thượng Tọa thì quyển Kỷ Yếu nầy cũng khó thành tựu. Ngoài ra trang nhà quangduc.com tại Úc, dưới sự điều hành của Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng đã trực tiếp đăng tải hình ảnh cũng như bài viết để độc giả khắp nơi được theo dõi, cập nhật. Chỉ trong vòng 49 ngày mà đã có hơn ba vạn người vào trang nhà Quảng Đức để xem, quả là một dấu ấn khó phai mờ. Xin niệm ân nhị vị Thượng Tọa.

Cuối cùng là những Phật Tử xa gần đã hỗ trợ đánh máy và layout bài vở trong một thời gian ngắn để tập Kỷ Yếu nầy hoàn thành. Ơn ấy chúng tôi sẽ không bao giờ quên và giờ nầy Thầy Hạnh Tuấn đang ở một nơi xa xăm nào đó, hãy ngoái trông về cảnh giới Ta Bà nầy để  thấy những Pháp lữ, học trò, đệ tử của mình mỗi người một việc, cốt mong sao tâm nguyện của Thầy sớm thành tựu như lúc Thầy còn sanh tiền. Chắc hẳn là Thầy hoan hỷ lắm!

 

Kính nguyện Tam Bảo gia hộ cho tất cả được sở cầu như nguyện.

HT. Thích Như Điển

Phương Trượng chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc ngày 17-12-2015

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/11/2010(Xem: 6885)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 732)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 33671)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 4666)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 4634)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 4596)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 4552)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 4871)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 4597)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
23/10/2010(Xem: 7544)
Trong lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, vương triều Trần (1226-1400) được tôn vinh là triều đại sáng chói nhất thể hiện qua những chiến công hiển hách thắng giặc ngoại xâm cũng như chính sách hộ quốc an dân đã tổng hợp được sức mạnh của toàn dân ta cùng với vua quan trong việc bảo vệ và phát triển đất nước vô cùng tốt đẹp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567