Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vài nét Tang Lễ HT Hạnh Tuấn

26/11/201516:44(Xem: 7270)
Vài nét Tang Lễ HT Hạnh Tuấn
Tang le HT Hanh Tuan ngay 1 (177)

VÀI NÉT VỀ
TANG LỄ HT THÍCH  HẠNH-TUẤN

Tiểu-Long lược thuật

 Khoảng 125 Tăng Ni và trên 500 Phật tử có mặt trong  lễ Di quan và Trà tỳ  HT Thích Hạnh Tuấn, Trú trì chùa Trúc Lâm, Chicago  vào ngày cuối tuần, 8 tháng 11 năm 2015.  Hôm đó, trời bỗng nhiên ấm lại sau mấy ngày mưa gió! Phải chăng đây là sự tri tình đãi ngộ của  đất trời đối với người Tăng sĩ mà lắng nghe cuộc đời hành hoạt, chúng ta không khỏi  ngậm ngùi trước sự nghiệp còn dang dở, ước vọng cống hiến chưa thành tựu. Con người ấy là một bậc Tăng tài và cuộc đời là một chuỗi  tháng năm dành hết cho việc rèn luyện, trau giồi kiến thức, tri thức về nhiều mặt bên cạnh việc hoàn thiện phẩm chất của một người xuất gia. Hoàn cảnh đặc biệt của lịch sử lại trở thành cơ hội phấn đấu cho bao người. Trong sáu mươi năm trụ thế của Thầy, một nửa thời gian đã dành cho việc lập thân và gầy dựng sự nghiệp hoằng hóa trên đất Mỹ.

Thầy Hạnh Tuấn xuất thân từ môn phái Chúc Thánh ở Quảng Nam, lưu trú tại chùa Từ Quang (San  Francisco) và Tu viện Kim Sơn trong suốt thời gian 15 năm theo đuổi miệt mài việc đèn sách. Thầy hoạt động trong Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hoa Kỳ, đảm đương nhiệm vụ Tổng vụ trưởng Tổng vụ Thanh niên nên có mối tương quan mật thiết với các tổ chức Gia đình Phật tử. 

Dầu trong mưa gió, tang lễ vị trú trì quá cố đã được cử hành thật trọng thể với đầy đủ nghi thức và lễ tiết tại chùa Trúc Lâm, thành phố Chicago, tiểu bang Illinois trong 5 ngày. Không khí thanh tịnh trang nghiêm nhưng không thiếu phần ấm cúng, gần gũi của một gia đình tâm linh.

Thực vậy, sự ra đi của một bậc Tăng tài còn là sự vắng mặt khó điền khuyết của người có nhiều tận tụy cống hiến trong việc xây dựng đoàn ngũ Gia đình Phật tử tại địa phương và  lân cận. Tang lễ trở thành nơi thể hiện tấm chân tình và bộc bạch sự thiếu vắng một chỗ dựa tinh thần và tâm linh vững chãi. Do đó, quy mô tổ chức của Tang lễ dù lớn lao cũng chỉ là cách giãi bày và trần tình tấm tình cảm rất mực sâu đậm với người đã dành một đời cho sự phát triển của một hướng đi cao đẹp, hữu ích.

Tình cảm ấy còn được ghi trong ý nghĩa thâm sâu của đôi câu đối được treo nơi Giác linh đường, bên di ảnh do Hòa Thượng Thích Hạnh Niệm từ quê nhà Hội An gởi qua phúng viếng:

Hạnh Phỏng tiên hiền, bất nại phong ba, hải ngoại xuất dĩ hoằng Phật đạo
Tuấn như cổ triết, hân thường tân khổ, thân độc cư nhi nhập vô dư

( Hạnh học tiên hiền, sóng gió chẳng nề, ra hải ngoại để hoằng Phật đạo
Tuấn như cổ triết, đắng cay vui nếm, sống độc cư rồi nhập vô dư)

Tham dự tang lễ tại chùa Trúc Lâm, người viết ghi nhận mấy điều chính yếu dưới đây:

1- Khởi đầu là lễ nhập Kim Quan vào ngày thứ tư 4-11,  khai kinh bạch Phật và luân phiên tụng niệm.

     Tang lễ tiến hành theo nghi  thức cổ truyền, với phần Chủ sám của chư HT Thích Tín Nghĩa, Thích Phước Thuận và Thích Bổn Đạt; ban Kinh sư lễ nhạc Huế trong phần tán tụng, có cả trống cơm phụ họa cùng những pháp khí khác. Lời tán xen lẫn trong tiếng nhạc nghe vừa như than thở cho kiếp sống vô thường, tạm bợ nhưng vừa thoa dịu nỗi buồn nhân thế bằng việc vạch ra ý nghĩa giải thoát của đạo pháp: Chân như chẳng biến lại tùy duyên. Mắt sáng, bụi tiêu, một tánh viên. Cất bước đã ra ngoài vũ trụ. Độ sanh trở lại một từ thuyền.

2- Lễ Thọ Tang vị Thầy Cố vấn Giáo hạnh của tổ chức Gia đình Phật tử địa phương, đơn vị Trúc Lâm, diễn ra trong chân tình cảm động. Những lời cảm niệm thốt lên từ các em Oanh Vũ, các em đoàn sinh Nam Nữ làm lay động lòng người, phảng phất trong không gian mối tưởng tiếc vì âm dương cách trở: “Thầy ơi ! Không thể nào diễn tả nỗi đau và sự mất mát quá lớn mà chúng con đang trải qua. Chúng con vẫn không tin sự thật rằng Thầy đã thật sự xa chúng con mãi mãi. Thay mặt cho các em đoàn Thiếu Nữ, chúng con xin đảnh lễ và thương kính gởi lòng tri ân sâu sắc đến vị Thầy khả kính, một vị Ân sư trong đời.Tình thương yêu Thầy dành cho chúng con, chúng con xin ghi tạc. Sự chăm sóc tận tình của Thầy, chúng con cũng chẳng thể quên.  Ngay cả, trang phục Đoàn trong các buổi lễ, hay trang phục múa trên sân khấu được đồng nhất, trang nghiêm như đã thấy, đều nhờ sự lưu tâm chu đáo của Thầy. Vì thương chúng con nên Thầy ngợi khen và  hãnh diện về Vũ khúc Quán Thế Âm Nghìn Mắt Nghìn Tay và bài múa Dâng Hoa của chúng con dẫu rằng chúng con còn vụng về, bởi vì dưới mắt các bậc cha mẹ thì mọi cố gắng của con cái đều đáng ca ngợi phải không ạ, thưa Thầy? Chúng con rất thích được tháp tùng Thầy về dự Hội thảo hay Phật sự ở những nơi khác. Được làm đệ tử của Thầy Trúc Lâm thật là hãnh diện biết làm sao, bởi vì Thầy của chúng con thật là một vị Thầy tài đức. Được ở gần Thầy, chúng con cảm nhận được sự an ổn và che chở.

Nay, Thầy đi rồi, trong những buổi góp vui văn nghệ  trong các dịp lễ, Tết,  chúng con đều chạnh lòng khi từ trên sân khấu nhìn xuống đã vắng đi bóng dáng và ánh mắt bao dung, khuyến khích của người Thầy thân yêu. Vắng bóng Thầy rồi, những khi đi tham dự khóa tu, hội thảo của GĐPT mà không có Thầy dìu dắt, chúng con sẽ buồn biết mấy, Thầy ơi”.

Và không thiếu những lời nghẹn ngào thay dòng lệ ứa nơi những tâm hồn ngây thơ: “Dẫu biết rằng đời là vô thường, không ai tránh khỏi sự sinh, lão, bệnh, tử. Nhưng khi phải đối diện với sự thật này, chúng con vẫn không cầm được nước mắt, Thầy ơi!…Hôm nay chúng con tề tựu về đây và quỳ xung quanh Kim quan Thầy để làm lễ tưởng niệm Thầy, chúng con vẫn còn có cảm tưởng như Thầy vẫn còn ở nơi này, cười, nói, nhắc nhở, và chăm sóc cho chúng con, như chăm sóc đàn con yêu thương của mình”.

 Qua ngày hôm sau, thứ Bảy, lễ Thọ Tang của các tổ chức GĐPT, với sự hiện diện của các Huynh Trưởng cao niên, kỳ cựu đại diện cho các Ban Hướng Dẫn tại Hoa Kỳ và trên Thế giới. Tất cả cùng dâng lời khấp nguyện:

“1. Biến nỗi buồn đau thương tiếc này - thành quyết tâm dõng mãnh để vững tiến trên Con Đường Hoa Sen Trắng, qua việc Học và Hành theo lời dạy đầy thương yêu đối với tổ chức Áo Lam mà Hòa Thượng  đã ân cần dạy bảo trong các kỳ Đại Hội Huynh Trưởng Toàn Quốc, Trại Huấn Luyện, các buổi Hội Thảo suốt hơn 20 năm qua.

2. Biến sự mất mát to lớn này - bằng quyết tâm khâm thừa Di Huấn của Hòa Thượng Ân Sư trong việc Cải Tiến chương trình Sinh Hoạt, Tu Học và Huấn Luyện khế hợp với nền văn minh tiến bộ của xã hội; đặc biệt là, từng bước hoàn thành Di Nguyện của Ân Sư trong việc cố gắng tạo điều kiện, tìm phương cách để anh chị em chúng con thương yêu nhau hơn, xích lại gần nhau hơn, đưa Tổ Chức Gia Đình Phật Tử Việt Nam Tại Hoa Kỳ về một khối - hầu làm sáng đẹp truyền thống "bất khả phân" của tổ chức Áo Lam - để phụng sự Lý Tưởng, Đạo Pháp và Dân Tộc.”

 Lời ấy vẫn còn vang vọng trong  lòng mọi người.

3.   Vào tối sau cùng của lễ tiễn đưa, tối thứ Bảy, môn đồ, Pháp quyến quy tụ bên nhau quanh Linh đài vị Cao Tăng cùng giãi bày tình đạo. Nơi đây, trong hàng  Trưởng lão của môn phái Chúc Thánh có HT Như Điển, phương trượng chùa Viên Giác ở Đức. Thầy Đạo Quảng, trú trì chùa Tam Bảo ở Baton Rouge  lãnh phần giới thiệu, và mở đầu bằng lời phát biểu mạch lạc của HT Minh Dung, trú trì chùa Quang Thiện ở San Bernadino: “Đây là giáo lệnh, Thầy Hạnh Tuấn có thể đi vacation trong vòng 3 tháng thôi, sau đó, Thầy phải trở lại cõi đời để xiển dương Phật pháp trên xứ người  như hai chúng ta đã cam kết với nhau từ trại tỵ nạn Galang”. Ôi, nước mắt hòa lẫn với tiếng cười, tình Pháp lữ còn đậm đà hơn thủ túc, gắn bó hơn ruột thịt của mẹ cha.

Sau đó là sự góp tiếng, góp lời của mọi người hiện diện thay cho lời cảm niệm. Có những bài thơ, bài hát được đọc hay hát lên để nhắc lại những kỷ niệm với Thầy Hạnh Tuấn. Một đoạn cải lương trong vở tuồng Quán Âm Thị Kính được trình diễn như một lời cầu nguyện cho người tu nhập cõi Vô sanh, mà tiếng hát làm nao nao lòng người: “ Thì ra đức Phật tổ cũng cảm thương kẻ chân tu đầy gian khổ nên phổ độ cho Tiểu Kỉnh Tâm đắc quả Niết bàn. Nam mô Đại từ Đại bi Quán Thế Âm Bồ tát. Xin cứu độ những linh hồn đang đọa đày nơi bể khổ sông mê.”

Thầy Giác Minh, trú trì chùa Pháp Hoa ở Wichita, nước mắt đầm đìa, đọc bài thơ để tiễn biệt người “lão huynh” chùa Trúc Lâm. Ai bảo đi tu là không có tình cảm? Chỉ có khác, là phải chờ đúng lúc, đúng chỗ, chúng ta mới chứng kiến được những Tấm Lòng chung thủy, thương mến hết mực với nhau.


Tạm kết luận, sau Tang lễ của HT Thích Hạnh Tuấn, một đời người khép lại nhưng chắc chắn, nhiều trang sách sẽ mở ra, bút mực sẽ còn ghi lại bao nhiêu là chân tình, ân nghĩa. 

Đoàn người đưa tiễn mở đầu là 2 chiếc xe hoa mang hình Phật tiếp dẫn, xe chở Kim quan, tiếp theo là 6 chiếc xe school bus và gần cả trăm xe nhỏ nối đuôi  trên đường phố, là một cảnh tượng khó quên cho thành phố Chicago và những người biết đến Thầy như bài hát “Tôi Yêu Màu Lam”ngày nào đã hòa nhập vào tâm thức, cõi lòng của những người cùng theo đuổi  một hướng đi mang lại an lạc nơi xa xứ.

 

Nam Mô A Di Đà Phật
Tiểu-Long lược thuật

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/11/2010(Xem: 7047)
Vào ngày 1-11-1963 khi quân đội đứng lên làm cuộc đảo chánh lật đổ chế độ của gia đình Ô. Ngô Đình Diệm - mà Hội Đồng Quân Dân Cách Mạng do Đại Tướng Dương Văn Minh cầm đầu gọi đó là cuộc “Cách Mạng” thì tôi là cậu sinh viên Luật Khoa Năm Thứ Nhất, chuẩn bị thi lên Năm Thứ Hai của Đại Học Luật Khoa Sài Gòn. Bố tôi sính đọc sách báo, vả lại gia đình cư ngụ ở xóm lao động cho nên Radio hàng xóm mở ầm ầm cả ngày khiến dù không muốn nghe nhưng cũng phải nghe tin tức từng giờ của đài phát thanh. Hơn thế nữa khi Sài Gòn nổ ra cuộc đấu tranh của Phật Giáo thì hầu như các đại học, trung học đều đóng của hoặc tự động bãi khóa.
10/11/2010(Xem: 6646)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
02/11/2010(Xem: 6944)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 1002)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 33977)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 4753)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 4686)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 4648)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 4598)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 4933)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567