Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Dẫn chương trình đài Phát thanh Mỹ Terry Gross Tưởng niệm Thiền sư Thích Nhất Hạnh

13/02/202214:12(Xem: 2983)
Dẫn chương trình đài Phát thanh Mỹ Terry Gross Tưởng niệm Thiền sư Thích Nhất Hạnh


su ong lang mai
Dẫn chương trình đài Phát thanh Mỹ
Terry Gross Tưởng niệm Thiền sư Thích Nhất Hạnh

(Remembering Thich Nhat Hanh, peace activist and Vietnamese Buddhist monk)

 

Thiền Sư Thích Nhất Hạnh, vị sứ giả Hòa bình, người mang Đông Phương vào Tây Phương, người có tầm ảnh hưởng trên thế giới, người phổ biến thiền chánh niệm ở phương Tây, nhà hoạt động vì hòa bình ở Việt Nam, một trong 13 vị Đạo sư góp phần vào sự thành hình và phát triển đạo Phật trên toàn thế giới, trong quá trình hơn 25 thế kỷ lịch sử Phật giáo, một vị cao tăng thạc đức Phật giáo Việt Nam, một trong những nhân vật có ảnh hưởng Tâm linh lớn nhất Thế giới đã "Thanh thản hồn nhiên trút hơi thở" viên tịch lúc 0 giờ ngày 22 tháng Giêng, 2022 (giờ Việt Nam), tại Tổ đình Từ Hiếu, cố đô Huế, Việt Nam, trụ thế 97 Xuân, Giới lạp 72 Hạ.

 

Phóng viên Dave Davies, một nhà báo báo chí và truyền hình người Mỹ thực hiện phóng sự và được phát sóng vào năm 1997.

 

Người dẫn chương trình Phóng viên Dave Davies:

 

This is FRESH AIR. Thiền sư Thích Nhất Hạnh, vị cao tăng thạc đức Phật giáo Việt Nam, năm 1966 Ngài bắt đầu sống lưu vong hải ngoại vì phản đối chiến tranh, Ngài là một trong những vị thiền sư có ảnh hưởng nhất thế giới, vị sứ giả Như Lai vận động vì hòa bình và thúc giục việc thực hành chánh niệm.

 

Khi ở quê nhà Việt Nam, Ngài bắt đầu khởi xướng phong trào "Phật giáo dấn thân" (Engaged Buddhism), còn được gọi là "Phật giáo Dấn thân vào xã hội" (socially engaged Buddhism), đề cập đến một phong trào xã hội Phật giáo nổi lên ở châu Á vào thế kỷ 20, bao gồm những Phật tử đang tìm cách áp dụng đạo đức Phật giáo, những hiểu biết có được từ việc thực hành thiền định và những lời dạy của Đức Phật. Ứng dụng Phật pháp cho các tình huống đương thời về sự đau khổ xã hội, chính trị, môi trường và kinh tế và sự bất công. Trong đó, Ngài kết hợp thiền định và công việc chống chiến tranh. Ngài thành lập hàng chục tu viện trên khắp thế giới, lớn nhất ở Tây Nam Pháp quốc.

 

Năm 1997, Bà Terry Gross, người dẫn chương trình đài phát thanh Mỹ Fresh Air phỏng vấn Thiền sư Thích Nhất Hạnh và chia sẻ với Ngài về công việc của phong trào Phật giáo Dấn thân.

 

Bà Terry Gross: Ngài đã làm một số việc trong thời chiến tranh tại Việt Nam để giúp đỡ tha nhân là gì?

 

Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Chúng tôi đã thành lập Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội khai giảng khóa đầu tiên năm 1964, TTNPSXH là một trường chuyên nghiệp thuộc Viện Đại Học Vạn Hạnh. Mục đích của trường là đào luyện những thanh niên nam nữ có chí hướng, kiến thức và khả năng chuyên môn để đi vào xã hội nông thôn Việt Nam, thực hiện một cuộc cách mệnh xã hội bằng tình thương và bằng sự cộng tác với người dân quê trên căn bản đồng sự và thông cảm. Họ trở thành những người hoạt động vì hòa bình và xã hội, đến các vùng có nạn nhân chiến tranh để chăm sóc những người bị tổn thương do chiến tranh, tái định cư và lập nơi ở mới cho họ sinh sống an toàn, xây dựng trường học cho con em họ, xây dựng các trung tâm y tế. Chúng tôi đã làm đủ thứ, nhưng điều cốt yếu là chúng tôi đã làm điều đó với tư cách là các học viên chứ không chỉ là nhân viên xã hội đơn thuần.

 

Bà Terry Gross: Ngài biết đấy, hình ảnh của hơi thở chánh niệm, v.v là hình ảnh của sự tĩnh lặng và trong thời chiến, thường cần phải chạy trốn càng nhanh càng tốt. Hai thứ đó có tương thích không? Ngài có thể thực hành sự tĩnh lặng và khả năng ứng phó trôi chảy cho cuộc sống của Ngài khi cần không?

 

Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Đó là vấn đề giáo dục đào tạo. Sự thực tập là trong sự thực tập của chánh niệm. Chánh niệm là năng lượng giúp bạn nhận thức được những gì đang diễn ra. Giống như, khi bạn đi bộ, bạn có thể bước đi trong chánh niệm. Khi bạn uống nước, bạn có thể uống nước với một cách có chánh niệm. Khi bạn chạy, bạn có thể chạy một cách có chánh niệm. Chạy có chánh niệm hoàn toàn khác với việc chỉ chạy và đó là lý do tại sao chánh niệm không có nghĩa là bạn phải chạy chậm lại hoặc bạn làm mọi thứ rất chậm. Điều cốt yếu là bạn lưu tâm đến lý do tại sao bạn làm mọi việc, cho dù bạn làm điều đó chậm hay nhanh. Vì vậy, khi bạn cố gắng giúp đỡ những người tỵ nạn và nếu họ bị lạc trong sự hoảng loạn, sợ hãi, bạn sẽ không thể giúp được gì cho họ. Do đó, bạn phải duy trì sự bình tĩnh nào đó để có thể trở thành một người trợ giúp thực sự. Đó là lý do tại sao việc tu tập chánh niệm rất quan trọng trong khi bạn là một nhà hoạt động xã hội.

 

Bà Terry Gross: Trong chiến tranh tại Việt Nam, khi người Mỹ có mặt tại chiến trường, một số nhà sư đã tự thiêu để phản đối. Ý tôi là, họ tự thiêu và tự sát để phản đối chiến tranh. Bản thân là một tu sĩ Phật giáo, tôi tự hỏi Ngài nghĩ gì về điều này như một cách kêu gọi sự quan tâm đến chiến tranh.

 

Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Tôi nghĩ trước khi tự thiêu, họ đã thử nhiều cách khác để thể hiện nguyện vọng của mình, rằng chúng sẽ không dừng lại, rằng mọi người hãy ngồi lại bên nhau và đàm phán để chấm dứt chiến tranh. Nhưng vì thực tế là các bên tham chiến đã không lắng nghe họ và tiếng nói của họ bị lất át bởi tiếng bom đạn, súng đại bác, đó là lý do tại sao họ phải thực hiện biện pháp thảm khốc, quyết liệt đó.

 

Một số người cho rằng đó là hành động tự sát, nhưng thực ra không phải như vậy bởi khi bạn bị thúc đẩy bởi nguyện vọng chấm dứt chiến tranh và giúp đỡ đồng bào khốn khổ, đó mới thực sự là năng lượng của từ bi tâm thúc đẩy bạn làm điều đó. Việc bản thân tự thiêu chỉ là một phương tiện để khiến khát vọng của chúng ta được thế giới hiểu được.

 

Bà Terry Gross: Ngài có biết những nhà sư đó không?

 

Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Tôi biết khá nhiều người trong số họ, như Thiền sư Thích Quảng Đức là người đầu tiên tự thiêu và nhiều người khác nữa. Tôi từng sống chung với Ngài trong nhiều tháng trong chốn tùng lâm. Chúng tôi đã quen biết nhau khá rõ và tôi biết rằng Ngài là vị tăng sĩ tràn đầy từ bi tâm, vô ngã vị tha.

 

Bà Terry Gross: Chuyến sang Hoa Kỳ của Ngài để phản đối sự hiện diện của Mỹ tham gia chiến tranh ở Việt Nam đã khiến Ngài phải lưu vong khỏi miền Nam Việt Nam. Ngài có thực sự được đưa ra một lý do chính thức cho việc bị lưu đày biệt xứ không?

 

Thiền sư Thích Nhất Hạnh: À, tôi không có ý định đến và ở lại phương Tây lâu dài. Trên thực tế, tôi đã được mời thuyết trình một loạt các buổi đối thoại và có cơ hội để chia sẻ nỗi đau thương của chiến tranh, một phiên bản mà những người bên ngoài Việt Nam không nghe thấy vì người Phật giáo ở Việt Nam, chúng tôi đại diện cho đa số những người không đứng về phía nào giữa hai bên chiến tranh vì ý thức hệ của ngoại bang. Những gì nguyện vọng của chúng tôi không phải là một chiến thắng, mà là sự chấm dứt chiến tranh. Vì vậy, những gì tôi nói với mọi người ở đây vào thời điểm đó không làm hài lòng bất cứ bên tham chiến nào ở Việt Nam. Đó là lý do tại sao tôi không được phép về quê nhà Việt Nam.

 

Điều đó rất khó cho tôi vì tất cả pháp lữ của tôi đều ở đó, tất cả công việc của tôi đều ở đó. Nhưng bởi vì tôi đã thực hành như một nhà sư, thực hành chánh niệm cho tôi biết rằng mỗi ngày bạn phải sống một cách đúng đắn. Vì vậy, thực tiễn của tôi lúc đó là nhận ra rằng, những điều kỳ diệu của cuộc sống đã có và đang cố gắng làm điều gì đó để chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam. Tôi có thể tiếp tục cuộc sống của mình và tiếp cận với những hình ảnh phản chiếu tuyệt vời này và chữa lành bên trong và bên ngoài tôi. Vì vậy, trong quá trình làm việc để chấm dứt chiến tranh, tôi cũng thực hành vun bồi cho bản thân và kết thân hữu, nhận ra rằng cuộc sống ở đây cũng tuyệt vời chứ không chỉ ở Việt Nam. Và không ngừng nguyện vọng muốn hồi hương Việt Nam thân yêu.

 

Bà Terry Gross: Khi Ngài dạy chánh niệm, Ngài đang dạy cách quán niệm hơi thở thực sự là trọng tâm của thiền định. Tại sao hơi thở lại quan trọng như thế?

 

Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Thường nhật trong cuộc sống của chúng ta, cơ thể của chúng ta thường hiện hữu, nhưng tâm trí của chúng ta thì để ở đâu đó. Tâm trí của chúng ta có thể bị lạc trong quá khứ, trong tương lai, trong những lo lắng và sợ hãi. Thực sự nó không hiện hữu, còn sống. Hơi thở của chúng ta giống như một chiếc cầu nối giữa thể chất và tinh thần. Và ngay sau khi bạn quay trở lại với hơi thở của mình và hít vào thở ra một cách có chánh niệm, bạn sẽ hợp nhất với nhau bởi cơ thể và tâm trí của bạn. Và nơi đó, hoàn toàn linh hoạt. Và nếu bạn thực sự an trụ nơi đó một cách trọm vẹn, bạn có cơ hội chạm vào cuộc trong khoảnh khắc đó, những điều kỳ diệu của cuộc sống khoảnh khắc đó. Giả sử bạn muốn tận hưởng cảnh bình minh tuyệt đẹp. Hít vào và thở ra một cách có chánh niệm có thể giúp bạn thực sự an trú nơi đó bởi vì trong quá trình tu tập, chúng ta học được rằng cuộc sống chỉ có sẵn trong phút giây hiện tại.

 

Bà Terry Gross: Kính trân trọng thâm ân của Ngài đã dành thời gian quý báu, cùng tương tác với báo đài để thực hiện phóng sự này.

 

Thiền sư hích Nhất Hạnh: Xin cám ơn và chúc quý vị từng bước chân an lạc, thịnh đạt.

 

Phóng viên Dave Davies: Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã tương tác với Bà Terry Gross, thực hiện phóng sự với phóng viên báo chí và truyền hình người Mỹ thực hiện phóng sự và được phát sóng vào năm 1997.

 

Thích Vân Phong biên dịch

(Nguồn: National Public Radio, NPR)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/06/2011(Xem: 7151)
Ngài họ Nguyễn húy là Hữu Kê, dòng họ của Đại thần Nguyễn Trãi. Nguyên quán thuộc Tông sơn Gia miêu Ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa. Ngài thọ sanh năm Nhâm Tý (1912), tại làng Nguyệt Biều, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Vốn thọ sanh trong gia đình vọng tộc, quý phái, thích lý luận Nguyễn Hữu Độ.
24/06/2011(Xem: 4201)
Ngài Mật Thể, pháp danh Tâm Nhất, pháp tự Mật Thể, tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 ở làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, thuộc dòng Thích Lý của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài qui hướng đạo Phật, cụ thân sinh và người anh ruột đều xuất gia.
23/06/2011(Xem: 4825)
Đọc Thánh Đăng Ngữ Lục, do Sa môn Tánh Quảng, Thích Điều Điều đề tựa trùng khắc, tái bản năm 1750, ta thấy đời Trần có năm nhà vua ngoài việc chăn dân, họ còn học Phật, tu tập và đạt được yếu chỉ của thiền, như vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông. Và sự chứng ngộ của các Thiền sư đời Trần thì không thấy đề cập ở sách ấy, hoặc có đề cập ở những tư liệu khác mà hiện nay ta chưa phát hiện được, hoặc phát hiện thì cũng phải tra cứu và luận chứng dài dòng rồi mới kết đoán ra được.
23/06/2011(Xem: 5591)
Đọc sử Phật giáo Việt Nam, hẳn chúng ta đều biết nước mình có một ông vua đi tu ngộ đạo, đó là vua Trần Nhân Tông. Ngài làm vua trong thời gian nước nhà đang bị quân Mông Cổ đem đại quân sang xâm lấn nước ta lần thứ ba.
22/06/2011(Xem: 6198)
Trong sáu thập niên qua, TIME đã không ngừng ghi chép lại những vinh quang cùng khổ nhọc của Á châu. Trong số đặc biệt kỷ niệm thường niên hôm nay, chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng của mình đến những nhân vật nổi bật đã góp phần vào việc hình thành nên thời đại chúng ta. Những thập niên xáo động nhất của một lục địa đông dân nhất trên trái đất này đã sản sinh ra hàng loạt những nhân vật kiệt xuất. Trong sáu mươi năm qua, kể từ khi TIME bắt đầu cho xuất bản ấn bản Á Châu, chúng tôi đã có cái đặc ân là được gặp gỡ đa số những nhân vật ngoại hạng này –theo dấu cuộc vận động hay trên chiến trường, trong phòng hội hay trong phòng thí nghiệm, tại cơ sở sản xuất hay tại phim trường.
16/06/2011(Xem: 3814)
Tôi có duyên lành gặp được ngài một lần khi ngài đến thăm Hòa thượng chùa Đông Hưng, bổn sư của tôi, cũng là y chỉ sư của Hòa thượng Quảng Thạc, một để tử xuất gia của ngài khi còn ở đất Bắc. Cung cách khiêm cung, ngài cùng Hòa thượng tôi đàm đạo về quá trình tu tập cũng như Phật học, hai ngài đã rất tâm đắc về chí nguyện giải thoát và cùng nhau kết luận một câu nói để đời : “Mục đích tu hành không phải để làm chính trị”. Cũng câu nói này, khi chia tay chư tăng miền Nam, ngài đã phát biểu với hàng pháp lữ Tăng ni đưa tiễn. Khi sưu tập tư liệu về cuộc đời của ngài, tôi may mắn gặp được các bậc tri thức cao đồ của ngài kể lại. Nay, nhân có cuộc hội thảo về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Bắc và công hạnh của ngài, tôi xin được góp thêm đôi điều.
14/06/2011(Xem: 5243)
Thiền sư PHÁP THUẬN (Bính Tý 918): Thiền sư đời Tiền Lê, thuộc dòng thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu Chi, không rõ gốc gác quê quán và tên thật, chỉ biết rằng Sư họ Đỗ, xuất gia từ thuở nhỏ ở chùa Cổ Sơn (Thanh Hóa), sau theo học đạo Thiền sư Phù Trì ở chùa Long Thọ, nổi tiếng là uyên thâm đức độ. Tương truyền rằng chính Sư đã dùng nghệ thuật phù sấm, làm cố vấn giúp vua Lê Đại Hành nắm quyền bính, dẹp yên được hỗn loạn trong triều cuối đời nhà Đinh, được vua Lê vô cùng trọng vọng. Năm 990 niên hiệu Hưng Thống thứ 2, Sư không bệnh mà viên tịch, thọ 76 tuổi, để lại cho đời các tác phẩm: “Bồ Tát sám hối văn”, “Thơ tiếp Lý Giác”, và một bài kệ.
14/06/2011(Xem: 5319)
• Thiền sư Chân Không(Bính Tuất -1046): Sư họVương, thế danh Hải Thiềm, quê quán ở làng Phù Đổng (nay là Tiên Sơn-Bắc Ninh), xuất thân trong một gia đình quý tộc. Lúc thân mẫu của ông mang thai, cha ông nằm mộng thấy một vị tăng Ấn Độ trao cho cây tích trượng, sau đó thì ông ra đời. Mồ côi cha mẹ từ thuở niên thiếu, ông siêng chăm đọc sách không màng đến những chuyện vui chơi. Năm 20 tuổi ông xuất gia, rồi đi ngao du khắp nơi để tìm nơi tu học Phật Pháp. Nhân duyên đưa đẩy cho Sư đến chùa Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu (Gia Lương-Hà Bắc), nghe Thiền sư Thảo Nhất giảng kinh Pháp Hoa mà ngộ đạo, được nhận làm đệ tử, sớm tối tham cứu thiền học, và được sư thầy truyền tâm ấn, thuộc dòng thiền Tì-ni-đa Lưu -chi, thế hệ thứ 16. Sau, Sư lên núi Phả Lại, trại Phù Lan (nay thuộc huyện Mỹ Văn-Hưng Yên) làm trụ trì chùa Chúc Thánh, ở suốt 20 năm không xuống núi để chuyên trì giới luật, tiếng thơm đồn xa đến cả tai vua.
13/06/2011(Xem: 12958)
Ôi, trong giáo pháp Phật đà của ta, việc trọng đại nhất là gì ? Con người sinh ra không từ cửa tử mà đến, chết không vào cửa tử mà đi. Thế nên người nằm non ở tổ, bỏ ngủ quên ăn, chẳng tiếc thân mạng, đều vì việc lớn sinh tử. Ở thời giáo suy pháp mạt này mà có người vì việc lớn sinh tử như Hòa thượng Liễu Quán, thật là hy hữu.
05/06/2011(Xem: 11523)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567