Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thành Kính Tưởng Niệm Đại lão Thiền sư Thích Nhất Hạnh sau 50 Ngày Viên Tịch

22/03/202211:38(Xem: 2515)
Thành Kính Tưởng Niệm Đại lão Thiền sư Thích Nhất Hạnh sau 50 Ngày Viên Tịch

 

su ong lang mai



Thành Kính Tưởng Niệm

Đại lão Thiền sư THÍCH NHẤT HẠNH

11.10.1926 - 22.1.2022

50 Ngày Viên Tịch

 

 

 

 

 

 

Kính bạch Giác linh Thầy,

 

Thấm thoát đã qua năm mươi ngày Thầy viên tich.

Chúng con từng nghe Cổ đức dạy rằng:

"Đến tay không, đi tay không.

Đó là kiếp con người.

 

Trước lúc sanh ra, ta từ đâu tới?

Sau khi chết rồi ta lại về đâu?

Sống như mây nổi, chết tợ mây tan.

Mây nổi tự thể vẫn biến dịch vô thường.

Sống và chết, đến và đi cũng đều như thế."

 

Từ trong nhiệm thể, Ứng thân hiền sĩ, phát nguyện độ sanh.

Thầy chào đời gần ánh sáng thị thành,

Kinh đô Huế lừng danh một thuở.

Rồi từ đó, giũa tuổi hoa niên vào chốn rừng thiền tầm sư tế độ.

Đất nước Việt Nam trải qua bao lần sóng gió.

Từng thời kỳ chinh chiến điêu tàn.

Từng thời kỳ dân tộc lầm than.

Rồi ngót hai mươi năm dặc dài nội chiến.

Hai nẻo Đạo - Đời lắm nỗi gian nan.

Thầy muốn "Chuyển hoá Tâm linh|"

Đưa Đạo Tiếp Hiện vào Đời, cứu khổ độ sanh.

Cho Phật giáo được tồn sinh theo trào lưu tiến hoá.

Dù là trên quê hương xứ sở,

Hoặc nơi đất khách tha phương.

Quảy túi kinh luân hồ thỷ.

Đôi chân gầy có lầm tưởng chừng như ngã quỵ.

Xót thân phận mình như vận mệnh quê hương.

Càng trải nghiệm đau thương, càng vững niềm tin đi tới.

"Tuyên ngôn Phật giáo vì Hoà bình" đồng thanh vang dội.

Kêu gọi hai miền Nam Bắc chấm dứt chiến tranh.

Tránh gây đau thương mất mát dân lành.

Nêu cao Chánh đạo Từ bi bất bạo động.

Bởi lẽ: Bắc Nam Trung vẫn một nhà,

Dù ai chia cách vẫn là Việt Nam.

Cùng giòng máu đỏ anh em.

Giống nòi Hồng Lạc ai đem giết mình!

 

Con còn nhớ, một nhà văn tiền chiến, đã nêu cao chính khí qua lời ca:

"Đường ta đi gian nguy khốn khó.

Đường tuy khó nhưng có con đường ta đi.

Đường ta đi gian nguy khốn khó.

Đường tuy khó nhưng có con đường ta về."

 

Vâng, kính bạch Thầy,

Thầy đã đi, trên con đường phụng hành Chân lý.

Thầy đã về, nơi chốn Tổ gia hương.

Thầy đã tới, Niết bàn tĩnh lặng.

Thầy đã xong, cuộc lữ vô thường.

 

Kính bạch Thầy,

Dù không trực tiếp là đệ tử, truyền nhân của Thầy.

Nhưng chúng con là hàng hậu học, học nơi Thầy qua sách vở Kinh văn.

Hàng trăm tác phẩm đậm nét Nhân văn.

Nhất là hai bộ sách gối đầu giường của bao thế hệ Tăng ni tập huấn.

"Việt Nam Phật Giáo Sử Luận" và "Đường Xưa Mây Trắng".

Đã trở thành những bài Thánh ca Đông phương trầm lắng.

Thổi hồn vào đất nước náo động Tây phương.

Qua từng bước chân vững chãi, Từng hơi thở nhẹ nhàng.

Thực tập chánh niệm tỉnh giác.

 Lắng nghe để Hiểu, lặng nhìn để Thương.

 

Hôm nay, cộng đồng Tăng thân chúng con hướng vọng về Thầy.

Xin hát lên bài ca Đông phương mầu nhiệm ấy.

Tay hư vô, ôm vũ trụ tròn đầy.

Rồi hãy cứ ngồi yên, điềm tỉnh vậy.

Sóng gió gì, mặc thế giới vần xoay.

Đừng nuối tiếc, ai ơi xin đừng nuối tiếc!

Dĩ vãng qua rồi như nước cuốn dòng sông

Đừng mơ ước, ai ơi xin đừng mơ ước!

Vì tương lai là sương khói mông lung.

 

Hãy tập sống từ trong lòng cõi chết.

Tập chết đi giữa cuộc sống vô thường.

Hãy đón nhận vui buồn trong thực tại.

Làm đẹp cuộc đời, làm đẹp quê hương .

 

Kính bạch Thầy,

Chúng con bồi hồi cảm xúc, còn nghe văng vẳng đâu đây,

Trống Từ Hiếu vang rền hồn Phật Việt.

Chuông Làng Mai ngân dội đất Trời Tây.

Từng bước chân xưa in bóng dáng Thầy.

Từng lời Pháp nhũ còn vang vọng mãi.

 

Chúng con quay về thực tại, để hình dung lại chốn Tổ  Từ Hiếu quê nhà:

"Mái chùa cũ, chút hồn xưa.

Ngói rêu cỏ mọc trên trưa nắng nồng.

Sứ, đào nở rực từng bông.

Bên khe giếng mục biệt dòng nhạn bay.

Mây trời trắng, tượng ngủ say.

Vẳng mưa dưới núi tháng ngày Có - Không.

Ngõ chùa vắng áo Sư ông.

Gió tung hôm trước còn mong chi về".

 

Chúng con xin được  phép kính dâng lên Thầy lời xưng tán:

 

NHẤT Hướng Không Môn An Lạc HẠNH

PHÙNG Chân Lý Giải Ngộ Tâm XUÂN

 

Cali. Hoa Kỳ, Ngày Phật Niết Bàn 2566,

 Rằm tháng Hai, năm  Nhâm Dần (17-3- 2022)

Hậu học Thích Giác Nguyên kính lễ.


su ong lang mai

Tác giả và Đại lão Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Khoá tu  mùa Đông 2002 tại Tu viện Lộc Uyển CA. Hoa Kỳ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/06/2011(Xem: 5407)
Đọc sử Phật giáo Việt Nam, hẳn chúng ta đều biết nước mình có một ông vua đi tu ngộ đạo, đó là vua Trần Nhân Tông. Ngài làm vua trong thời gian nước nhà đang bị quân Mông Cổ đem đại quân sang xâm lấn nước ta lần thứ ba.
22/06/2011(Xem: 6018)
Trong sáu thập niên qua, TIME đã không ngừng ghi chép lại những vinh quang cùng khổ nhọc của Á châu. Trong số đặc biệt kỷ niệm thường niên hôm nay, chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng của mình đến những nhân vật nổi bật đã góp phần vào việc hình thành nên thời đại chúng ta. Những thập niên xáo động nhất của một lục địa đông dân nhất trên trái đất này đã sản sinh ra hàng loạt những nhân vật kiệt xuất. Trong sáu mươi năm qua, kể từ khi TIME bắt đầu cho xuất bản ấn bản Á Châu, chúng tôi đã có cái đặc ân là được gặp gỡ đa số những nhân vật ngoại hạng này –theo dấu cuộc vận động hay trên chiến trường, trong phòng hội hay trong phòng thí nghiệm, tại cơ sở sản xuất hay tại phim trường.
16/06/2011(Xem: 3631)
Tôi có duyên lành gặp được ngài một lần khi ngài đến thăm Hòa thượng chùa Đông Hưng, bổn sư của tôi, cũng là y chỉ sư của Hòa thượng Quảng Thạc, một để tử xuất gia của ngài khi còn ở đất Bắc. Cung cách khiêm cung, ngài cùng Hòa thượng tôi đàm đạo về quá trình tu tập cũng như Phật học, hai ngài đã rất tâm đắc về chí nguyện giải thoát và cùng nhau kết luận một câu nói để đời : “Mục đích tu hành không phải để làm chính trị”. Cũng câu nói này, khi chia tay chư tăng miền Nam, ngài đã phát biểu với hàng pháp lữ Tăng ni đưa tiễn. Khi sưu tập tư liệu về cuộc đời của ngài, tôi may mắn gặp được các bậc tri thức cao đồ của ngài kể lại. Nay, nhân có cuộc hội thảo về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Bắc và công hạnh của ngài, tôi xin được góp thêm đôi điều.
14/06/2011(Xem: 5079)
Thiền sư PHÁP THUẬN (Bính Tý 918): Thiền sư đời Tiền Lê, thuộc dòng thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu Chi, không rõ gốc gác quê quán và tên thật, chỉ biết rằng Sư họ Đỗ, xuất gia từ thuở nhỏ ở chùa Cổ Sơn (Thanh Hóa), sau theo học đạo Thiền sư Phù Trì ở chùa Long Thọ, nổi tiếng là uyên thâm đức độ. Tương truyền rằng chính Sư đã dùng nghệ thuật phù sấm, làm cố vấn giúp vua Lê Đại Hành nắm quyền bính, dẹp yên được hỗn loạn trong triều cuối đời nhà Đinh, được vua Lê vô cùng trọng vọng. Năm 990 niên hiệu Hưng Thống thứ 2, Sư không bệnh mà viên tịch, thọ 76 tuổi, để lại cho đời các tác phẩm: “Bồ Tát sám hối văn”, “Thơ tiếp Lý Giác”, và một bài kệ.
14/06/2011(Xem: 5185)
• Thiền sư Chân Không(Bính Tuất -1046): Sư họVương, thế danh Hải Thiềm, quê quán ở làng Phù Đổng (nay là Tiên Sơn-Bắc Ninh), xuất thân trong một gia đình quý tộc. Lúc thân mẫu của ông mang thai, cha ông nằm mộng thấy một vị tăng Ấn Độ trao cho cây tích trượng, sau đó thì ông ra đời. Mồ côi cha mẹ từ thuở niên thiếu, ông siêng chăm đọc sách không màng đến những chuyện vui chơi. Năm 20 tuổi ông xuất gia, rồi đi ngao du khắp nơi để tìm nơi tu học Phật Pháp. Nhân duyên đưa đẩy cho Sư đến chùa Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu (Gia Lương-Hà Bắc), nghe Thiền sư Thảo Nhất giảng kinh Pháp Hoa mà ngộ đạo, được nhận làm đệ tử, sớm tối tham cứu thiền học, và được sư thầy truyền tâm ấn, thuộc dòng thiền Tì-ni-đa Lưu -chi, thế hệ thứ 16. Sau, Sư lên núi Phả Lại, trại Phù Lan (nay thuộc huyện Mỹ Văn-Hưng Yên) làm trụ trì chùa Chúc Thánh, ở suốt 20 năm không xuống núi để chuyên trì giới luật, tiếng thơm đồn xa đến cả tai vua.
13/06/2011(Xem: 12751)
Ôi, trong giáo pháp Phật đà của ta, việc trọng đại nhất là gì ? Con người sinh ra không từ cửa tử mà đến, chết không vào cửa tử mà đi. Thế nên người nằm non ở tổ, bỏ ngủ quên ăn, chẳng tiếc thân mạng, đều vì việc lớn sinh tử. Ở thời giáo suy pháp mạt này mà có người vì việc lớn sinh tử như Hòa thượng Liễu Quán, thật là hy hữu.
05/06/2011(Xem: 11411)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
01/06/2011(Xem: 5416)
Cuộc đời và sự nghiệp của Khương Tăng Hội, ta hiểu biết qua hai bản tiểu sử xưa nhất, một của Tăng Hựu (446 - 511) trong Xuất tam tạng ký tập 13 ĐTK 2145 tờ 96a29-97a 17 và một của Huệ Hạo trong Cao Tăng truyện 1 ĐTK 2059 tờ 325a13-326b13. Bản của Huệ Hạo thực ra là một sao bản của bản Tăng Hựu với hai thêm thắt. Đó là việc nhét tiểu sử của Chi Khiêm ở đoạn đầu và việc ghi ảnh hưởng của Khương Tăng Hội đối với Tô Tuấn và Tôn Xước ở đoạn sau, cùng lời bình về sai sót của một số tư liệu. Việc nhét thêm tiểu sử của Chi Khiêm xuất phát từ yêu cầu phải ghi lại cuộc đời đóng góp to lớn của Khiên đối với lịch sử truyền bá Phật giáo của Trung Quốc, nhưng vì Khiêm là một cư sĩ và Cao Tăng truyện vốn chỉ ghi chép về các Cao Tăng, nên không thể dành riêng ra một mục, như Tăng Hựu đã làm trong Xuất tam tạng ký tập 13 ĐTK 2145 tờ 97b13-c18, cho Khiêm.
31/05/2011(Xem: 13711)
Quy ẩn, thế thôi ! (Viết để thương một vị Thầy, mỗi lần gặp nhau thường nói “mình có bạn rồi” dù chỉtrong một thời gian rất ngắn. Khi Thầy và tôi cách biệt, thỉnh thoảng còn gọi điệnthoại thăm nhau) Hôm nay Thầy đã đi rồi Sắc không hai nẻo xa xôi muôn ngàn Ai đem lay ánh trăng vàng Để cho bóng nguyệt nhẹ nhàng lung linh Vô thường khép mở tử sinh Rong chơi phù thế bóng hình bụi bay Bảo rằng, bản thể xưa nay Chơn như hằng viễn tỏ bày mà chi
27/05/2011(Xem: 7484)
Vào năm 247, một vài năm sau khi Chi Khiêm rời khỏi kinh đô Kiến Nghiệp, Khương Tăng Hội, một vị cao tăng gốc miền Trung Á, đã đến đây. Ngài đến từ Giao Chỉ, thủ phủ của Giao Châu ở miền cực Nam của đế quốc Trung Hoa (gần Hà nội ngày nay). Gia đình của Ngài đã sinh sống ở Ấn độ trải qua nhiều thế hệ; thân phụ của Ngài, một thương gia, đến định cư ở thành phố thương mại quan trọng này.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567