Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tưởng niệm Thiền sư Thích Nhất Hạnh, người được Linh mục Thomas Merton Kính trọng

28/01/202220:16(Xem: 2709)
Tưởng niệm Thiền sư Thích Nhất Hạnh, người được Linh mục Thomas Merton Kính trọng

Linh mục Thomas Merton nhà văn Công Giáo Mỹ thế kỷ 20  và Thiền sư Thích Nhất Hạnh
Tưởng niệm Thiền sư Thích Nhất Hạnh, người được Linh mục Thomas Merton Kính trọng

(Remembering Thich Nhat Hanh, the Buddhist monk who Thomas Merton called a brother)

 

Trái: Linh mục Thomas Merton, nhà văn Công Giáo Mỹ thế kỷ 20, Phải: Thiền sư Thích Nhất Hạnh nói chuyện trong một cuộc phỏng vấn tại Hà Nội, Việt Nam vào ngày 29 tháng 3 năm 2005. (Ảnh: AP/ Richard Vogel.

 

Tháng 2 năm 1966 Thiền sư Thích Nhất Hạnh lập ra dòng tu Tiếp Hiện (The Order of Interbeing, L’ordre de l’interêtre), một dòng tu theo phái Phật giáo Dấn thân, dòng tu này dành cho người xuất gia cũng như người thế tục, nam cũng như nữ. Đây là quãng thời gian mà phương Tây biết đến vị tu sĩ Phật giáo này như một nhân vật tích cực hoạt động phản đối cuộc chiến tranh Việt Nam.

 

Năm 1966, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã đến thăm Hoa Kỳ, một chuyến đi diễn thuyết nhằm khai sáng cho người dân Hoa Kỳ về cuộc chiến tranh tại Việt Nam từ góc nhìn của người Việt Nam. Chuyến công du của Ngài bao gồm một loạt các cuộc giao lưu với các chính trị gia, nhà tư tưởng và các nhà lãnh đạo tôn giáo, bao gồm cả nhà hoạt động nhân quyền người Mỹ gốc Phi, và là người đoạt Giải Nobel Hoà bình Mục sư Tiến sĩ Martin Luther King, Jr., vào tháng 5 năm đó, Ngài đã gặp Linh mục Thomas Merton, một tu sĩ Trappist người Mỹ, nhà văn Công Giáo Mỹ thế kỷ 20, nhà thần học, nhà thần bí, nhà thơ, nhà hoạt động xã hội và học giả về tôn giáo so sánh.

 

Sự quan tâm của Linh mục Thomas Merton đối với Thiền sư Thích Nhất Hạnh, người đã đã thu thần tịch diệt vào lúc 00:00 giờ ngày 22/01/2022, trụ thế 97 Xuân, theo giờ Việt Nam, tại Tổ đình Từ Hiếu, thành phố Huế, Việt Nam.

 

Vào đầu những thập niên 1960, Linh mục Thomas Merton trở thành người đề xướng bất bạo động khi đối mặt với cỗ máy chiến tranh hạt nhân mà ông tin rằng có thể dẫn đến tự sát tập thể. Trong bối cảnh đó, ông là một nhà phê bình hùng hồn về Chiến tranh Việt Nam, ông miêu tả vào chiến dịch năm Mậu Thân (1968) là một "sự tàn bạo quá mức." Với tinh thần đạo hữu với nhau, Linh mục Thomas Merton muốn chia sẻ với Thiền sư Thích Nhất Hạnh để hiểu rõ ràng hơn những gì đang diễn ra tại Việt Nam.

 

Linh mục Thomas Merton cũng muốn chia sẻ với Thiền sư Thích Nhất Hạnh về chế độ tu hành của đạo Phật. Người đọc tự truyện "The Seven Storey" (Ngọn núi bảy tầng) của Linh mục Thomas Merton, biết rằng sự quan tâm của ông đối với Phật giáo bắt đầu từ khi còn là sinh viên Đại học Columbia sau khi đọc cuốn sách của một nhà văn người Anh di cư đến Mỹ và sống ở Los Angeles cho đến cuối đời Aldous Leonard Huxley (1894-1963), trong đó, nhà văn Aldous Huxley dựa trên các truyền thống giáo lý đạo Phật, đã viết về nhu cầu của nhân loại để chấp nhận chủ nghĩa khổ hạnh và thực hành chiêm nghiệm, để vượt qua những xung động cơ bản nhất của nó.

 

Nhưng phải đến cuối những thập niên 1950, Linh mục Thomas Merton mới bắt đầu nghiên cứu các tác phẩm Phật giáo sâu hơn và trao đổi với các nhà tư tưởng Phật giáo, như Thiền sư Suzuki Daisetsu Teitarō (1870-1966). Linh mục Thomas Merton trở nên tin rằng các tu sĩ chiêm niệm Cơ đốc giáo thu thập nhiều lợi ích từ việc đối thoại với đạo Phật. Không thể phủ nhận hoặc coi thường những khác biệt thực sự tồn tạo giữa Cơ Đốc giáo và đạo Phật, Linh mục Thomas Merton tin rằng những người chiêm nghiệm Phật giáo và Cơ Đốc giáo có thể học hỏi lẫn nhau, đặc biệt là trong một thế giới dường như đang "tự mình hủy diệt" (self-destruction, 自我毀滅).

 

Vào ngày 28 tháng 5 năm 1966, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đến thăm Linh mục Thomas Merton, Tu viện của Đức Mẹ Gethsemani, Kentucky, tiểu bang thứ 15 của Hoa Kỳ. Tháp tùng với người đạo hữu, một nhà văn người Mỹ, nhà thần học giáo dân Cơ đốc chính thống, nhà giáo dục và nhà hoạt động vì hòa bình James Hendrickson Forest (1941-2022), cả hai đã trò chuyện đến khuya. Họ muốn chia sẻ cho nhau bởi các bài kinh tụng thường nhật tại tu viện, về việc công phu tu tập thiền định trong các truyền thống của nhau, về sự hình thành cơ sở tự viện và họ bàn thời sự nóng bỏng bởi Chiến tranh Việt Nam.

 

Vài năm sau, Thiền sư Thích Nhất Hạnh nhớ lại cuộc gặp gỡ của họ một cách trìu mến: "Trò chuyện với đạo hữu ấy thật dễ dàng," Ngài nói. "Đạo hữu ấy cởi mở với mọi thứ . . . Đạo hữu ấy muốn biết nhiều hơn và nhiều hơn nữa. Đạo hữu ấy đã không nói nhiều gì về bản thân. Đạo hữu ấy liên tục đặt các câu hỏi. Và sau đó Đạo hữu ấy sẽ lắng nghe." Đạo hữu ấy tiếp tục: "Tôi rất ấn tượng bởi khả năng đối thoại đầy thuyết phục của Thiền sư Thích Nhất Hạnh."

 

Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã chia sẻ với các vị tu sĩ tại Tu viện của Đức Mẹ Gethsemani một ngày sau cuộc gặp gỡ Linh mục Thomas Merton. Ông bước vào và tiếp tục nói chuyện với cộng đồng về những buổi giao lưu chia sẻ tình đạo hữu với nhau. Buổi nói chuyện đã được ghi lại và rõ ràng qua băng ghi âm rằng, Linh mục Thomas Merton đã rất ấn tượng bởi vị Thiền sư Việt Nam. Miêu tả Thiền sư Thích Nhất Hạnh là "một người sống cực kỳ giản dị, khiêm tốn", Linh mục Thomas Merton nói với huynh đệ của mình rằng Thiền sư Thích Nhất Hạnh là "một vị Thiền sư toàn hảo" mà ông cảm thấy "hoàn toàn hấp dẫn lực khi tiếp xúc".

Linh mục Thomas Merton nhấn mạnh với các tu sĩ rằng Chiến tranh Việt Nam "phải được coi là biểu hiện của một cuộc khủng hoảng tinh thần," và như vậy, ông nhấn mạnh thêm rằng việc đối thoại với các tu sĩ huynh đệ từ tình huống ngay cả khi họ đến từ một truyền thống tôn giáo khác. Thiền sư Thích Nhất Hạnh rất cởi mở về những gì đang diễn ra trên quê hương đất nước của mình. "Mọi thứ đều bị tàn phá," Linh mục Thomas Merton nhớ lại câu nói của mình khi được hỏi về Chiến tranh Việt Nam.

 

Linh mục Thomas Merton rất ấn tượng Thiền sư Thích Nhất Hạnh, đến nỗi một tháng sau chuyến thăm, ông đã viết thư cho Ủy ban Nobel Na Uy (Den norske Nobelkomité), kêu gọi rằng "Sứ giả thực sự của hòa bình và của các giá trị tinh thần" này được xem xét cho giải Nobel Hòa bình. Ngay sau khi cuộc gặp gỡ của họ, Linh mục Thomas Merton đã xuất bản một bài tiểu luận ngắn với tựa đề "Nhat Hanh is My Brother" (Nhất Hạnh là đại Sư huynh của Tôi) và đăng trên tạp chí Jubilee. Tại đây, ông đã bày tỏ sự kính yêu của mình với Thiền sư Thích Nhất Hạnh bằng những lời lẽ cũng cho thấy ông đã vỡ mộng như thế nào đối với rất nhiều người Mỹ đồng hương ủng hộ Chiến tranh Việt Nam khiến ông bối rối:

 

"Tôi đã nói với Thiền sư Thích Nhất Hạnh là đại Sư huynh của tôi và đó là sự thật. Cả hai chúng tôi đều là tu sĩ với nhau và chúng tôi đã khép mình trong giới luật, chế độ tu viện khoảng chừng đó năm. Chúng tôi đều là nhà thơ, nhà hiện sinh. Tôi có nhiều điểm giống với đại Sư huynh Thích Nhất Hạnh hơn là với nhiều người Mỹ và tôi không ngần ngại nói lên sự thật. Điều tối quan trọng là các trái phiếu đó phải được chấp nhận. Họ là những chuỗi liên kết của một tình đoàn kết mới và một tình huynh đệ mới đang bắt đầu thể hiện rõ ràng trên khắp năm châu lục và dàn trải trên tất cả các lĩnh vực chính trị, tôn giáo và văn hóa".

 

Là những người đồng cảnh ngộ trong một thế giới được đặt trưng bởi sự chia rẽ, Linh mục Thomas Merton và Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã chọn cách nhìn thấy ở nhau điều gắn kết họ với nhau, để khẳng định với nhau điều mà họ cũng nhìn thấy bên trong mình. Cả hai vị đều nhận ra rằng con đường dẫn đến hà bình chỉ có thể được tạo nên bởi đối thoại tập trung vào đó hợp nhất hơn là chia rẽ. Mặc dù Linh mục Thomas Merton không ủng hộ chủ nghĩa tương đối hoặc chủ nghĩa đồng bộ mà theo cách nói của ông "chấp nhận mọi thứ bằng cách vô tư", tuy nhiên, ông lập luận rằng điều gì mà đoàn kết chúng ta phải được khẳng định vì lợi ích hòa bình.

 

Đây là nguyên tắc đặc trưng cho cuộc đời của Linh mục Thomas Merton, cũng như cuộc đời của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Vào một ngày mùa xuân năm 1966, trong một tu viện, bang Kentuky, hai vị tu sĩ từ các truyền thống tôn giáo và quốc tịch khác nhau - một công dân của một quốc gia bị đánh bom, mìn và một là công dân của một cường quốc đang thực hiện vụ đánh bom, mìn - đã coi như như anh em cùng huyết thống.

 

Tác giả Gregory Hillis, Phó Giáo sư Thần học tại Đại học Bellarmine, 2001 Newburg Rd, Louisville, KY 40205, Hoa Kỳ.

 

Tác giả Gregory Hillis

Biên dịch Thích Vân Phong

(Nguồn: America Magazine)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/06/2011(Xem: 7158)
Ngài họ Nguyễn húy là Hữu Kê, dòng họ của Đại thần Nguyễn Trãi. Nguyên quán thuộc Tông sơn Gia miêu Ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa. Ngài thọ sanh năm Nhâm Tý (1912), tại làng Nguyệt Biều, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Vốn thọ sanh trong gia đình vọng tộc, quý phái, thích lý luận Nguyễn Hữu Độ.
24/06/2011(Xem: 4206)
Ngài Mật Thể, pháp danh Tâm Nhất, pháp tự Mật Thể, tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 ở làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, thuộc dòng Thích Lý của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài qui hướng đạo Phật, cụ thân sinh và người anh ruột đều xuất gia.
23/06/2011(Xem: 4828)
Đọc Thánh Đăng Ngữ Lục, do Sa môn Tánh Quảng, Thích Điều Điều đề tựa trùng khắc, tái bản năm 1750, ta thấy đời Trần có năm nhà vua ngoài việc chăn dân, họ còn học Phật, tu tập và đạt được yếu chỉ của thiền, như vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông. Và sự chứng ngộ của các Thiền sư đời Trần thì không thấy đề cập ở sách ấy, hoặc có đề cập ở những tư liệu khác mà hiện nay ta chưa phát hiện được, hoặc phát hiện thì cũng phải tra cứu và luận chứng dài dòng rồi mới kết đoán ra được.
23/06/2011(Xem: 5595)
Đọc sử Phật giáo Việt Nam, hẳn chúng ta đều biết nước mình có một ông vua đi tu ngộ đạo, đó là vua Trần Nhân Tông. Ngài làm vua trong thời gian nước nhà đang bị quân Mông Cổ đem đại quân sang xâm lấn nước ta lần thứ ba.
22/06/2011(Xem: 6198)
Trong sáu thập niên qua, TIME đã không ngừng ghi chép lại những vinh quang cùng khổ nhọc của Á châu. Trong số đặc biệt kỷ niệm thường niên hôm nay, chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng của mình đến những nhân vật nổi bật đã góp phần vào việc hình thành nên thời đại chúng ta. Những thập niên xáo động nhất của một lục địa đông dân nhất trên trái đất này đã sản sinh ra hàng loạt những nhân vật kiệt xuất. Trong sáu mươi năm qua, kể từ khi TIME bắt đầu cho xuất bản ấn bản Á Châu, chúng tôi đã có cái đặc ân là được gặp gỡ đa số những nhân vật ngoại hạng này –theo dấu cuộc vận động hay trên chiến trường, trong phòng hội hay trong phòng thí nghiệm, tại cơ sở sản xuất hay tại phim trường.
16/06/2011(Xem: 3821)
Tôi có duyên lành gặp được ngài một lần khi ngài đến thăm Hòa thượng chùa Đông Hưng, bổn sư của tôi, cũng là y chỉ sư của Hòa thượng Quảng Thạc, một để tử xuất gia của ngài khi còn ở đất Bắc. Cung cách khiêm cung, ngài cùng Hòa thượng tôi đàm đạo về quá trình tu tập cũng như Phật học, hai ngài đã rất tâm đắc về chí nguyện giải thoát và cùng nhau kết luận một câu nói để đời : “Mục đích tu hành không phải để làm chính trị”. Cũng câu nói này, khi chia tay chư tăng miền Nam, ngài đã phát biểu với hàng pháp lữ Tăng ni đưa tiễn. Khi sưu tập tư liệu về cuộc đời của ngài, tôi may mắn gặp được các bậc tri thức cao đồ của ngài kể lại. Nay, nhân có cuộc hội thảo về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Bắc và công hạnh của ngài, tôi xin được góp thêm đôi điều.
14/06/2011(Xem: 5247)
Thiền sư PHÁP THUẬN (Bính Tý 918): Thiền sư đời Tiền Lê, thuộc dòng thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu Chi, không rõ gốc gác quê quán và tên thật, chỉ biết rằng Sư họ Đỗ, xuất gia từ thuở nhỏ ở chùa Cổ Sơn (Thanh Hóa), sau theo học đạo Thiền sư Phù Trì ở chùa Long Thọ, nổi tiếng là uyên thâm đức độ. Tương truyền rằng chính Sư đã dùng nghệ thuật phù sấm, làm cố vấn giúp vua Lê Đại Hành nắm quyền bính, dẹp yên được hỗn loạn trong triều cuối đời nhà Đinh, được vua Lê vô cùng trọng vọng. Năm 990 niên hiệu Hưng Thống thứ 2, Sư không bệnh mà viên tịch, thọ 76 tuổi, để lại cho đời các tác phẩm: “Bồ Tát sám hối văn”, “Thơ tiếp Lý Giác”, và một bài kệ.
14/06/2011(Xem: 5325)
• Thiền sư Chân Không(Bính Tuất -1046): Sư họVương, thế danh Hải Thiềm, quê quán ở làng Phù Đổng (nay là Tiên Sơn-Bắc Ninh), xuất thân trong một gia đình quý tộc. Lúc thân mẫu của ông mang thai, cha ông nằm mộng thấy một vị tăng Ấn Độ trao cho cây tích trượng, sau đó thì ông ra đời. Mồ côi cha mẹ từ thuở niên thiếu, ông siêng chăm đọc sách không màng đến những chuyện vui chơi. Năm 20 tuổi ông xuất gia, rồi đi ngao du khắp nơi để tìm nơi tu học Phật Pháp. Nhân duyên đưa đẩy cho Sư đến chùa Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu (Gia Lương-Hà Bắc), nghe Thiền sư Thảo Nhất giảng kinh Pháp Hoa mà ngộ đạo, được nhận làm đệ tử, sớm tối tham cứu thiền học, và được sư thầy truyền tâm ấn, thuộc dòng thiền Tì-ni-đa Lưu -chi, thế hệ thứ 16. Sau, Sư lên núi Phả Lại, trại Phù Lan (nay thuộc huyện Mỹ Văn-Hưng Yên) làm trụ trì chùa Chúc Thánh, ở suốt 20 năm không xuống núi để chuyên trì giới luật, tiếng thơm đồn xa đến cả tai vua.
13/06/2011(Xem: 12962)
Ôi, trong giáo pháp Phật đà của ta, việc trọng đại nhất là gì ? Con người sinh ra không từ cửa tử mà đến, chết không vào cửa tử mà đi. Thế nên người nằm non ở tổ, bỏ ngủ quên ăn, chẳng tiếc thân mạng, đều vì việc lớn sinh tử. Ở thời giáo suy pháp mạt này mà có người vì việc lớn sinh tử như Hòa thượng Liễu Quán, thật là hy hữu.
05/06/2011(Xem: 11533)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567