Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Union of Catholic Asian News Tưởng niệm Thiền sư Thích Nhất Hạnh

29/01/202204:27(Xem: 2282)
Union of Catholic Asian News Tưởng niệm Thiền sư Thích Nhất Hạnh



su ong lang mai 2

uca_new_logo



Union of Catholic Asian News Tưởng niệm Thiền sư Thích Nhất Hạnh

(Union of Catholic Asian News Tributes paid to Vietnam's leading Zen master)

 

Thiền Sư Thích Nhất Hạnh, vị sứ giả Hòa bình, người mang Đông Phương vào Tây Phương, vị Thiền sư Phật giáo Việt Nam, người có tầm ảnh hưởng trên thế giới được coi là chỉ đứng sau Đức Đạt Lai Lạt Ma, người phổ biến thiền chánh niệm ở phương Tây, đã phải sống lưu vong gần nửa thế kỷ sau khi bị trục xuất khỏi quê hương vì kêu gọi chấm dứt Chiến tranh Việt-Mỹ.

 

 Nhà hoạt động vì hòa bình ở Việt Nam, Thiền sư Nhất Hạnh là một trong 13 vị Đạo sư góp phần vào sự thành hình và phát triển đạo Phật trên toàn thế giới trong quá trình hơn 25 thế kỷ lịch sử Phật giáo, một vị cao tăng thạc đức Phật giáo Việt Nam, một trong những nhân vật có ảnh hưởng Tâm linh lớn nhất Thế giới đã "Thanh thản hồn nhiên trút hơi thở" viên tịch lúc 0 giờ ngày 22 tháng Giêng, 2022 (giờ Việt Nam), tại Tổ đình Từ Hiếu, cố đô Huế, Việt Nam, trụ thế 97 Xuân, Giới lạp 72 Hạ.

 

Sự từ giã trần gian của Ngài đã được tăng thân Làng Mai thông báo.

 

"Thầy (nghĩa là vị Thầy được đệ tử kính trọng xưng hô), một vị Thầy phi thường nhất, người luôn tuôn trào suối nguồn từ bi làm mát dịu sự nóng bức của thế nhân, người luôn tỏa chiếu ánh dương trí tuệ giúp xua tan bóng đêm tà kiến, đã chạm đến cuộc sống của hàng triệu người trên hành tinh. Cho dù chúng ta đã bệ kiến Thầy trong các khóa tu, tại các buổi pháp thoại công cộng, hoặc qua những cuốn sách và những bài giảng trực tuyến của Thầy - hay đơn giản là qua câu chuyện về cuộc đời đáng kinh ngạc của Thầy- chúng ta có thể thấy rằng Thầy là một vị Bồ tát thực sự, một động lực to lớn cho hòa bình và chữa lành những đau thương của thế giới".

 

Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một nhà cách mạng Phật giáo, bao giờ làm mai một mà đào sâu vào cội nguồn của đạo Phật để phát huy giá trị tinh hoa đích thực của nó.

 

"Ngài đã mở ra một con đường tuyệt đẹp cho chúng ta bởi đạo Phật Ứng dụng và khởi xướng phong trào Phật giáo Dấn thân: con đường của 5 Cách Hiệu Quả Để Luyện Tập Chánh Niệm và 10 phương pháp tu tập Chánh niệm tuyệt vời, như Ngài nói: "Bởi chúng ta đã nhìn thấy con đường, chúng ta không còn gì phải sợ hãi nữa".

 

John Powers, giáo sư nghiên cứu tôn giáo tại Đại học Deakin của Úc cho biết, Thiền sư Thích Nhất Hạnh dạy rằng: "Ngồi trên tọa cụ tu tập thiền thôi là chưa đủ . . và điều đó đã trở thành nền tảnh thực sự của rất nhiều cho hiện đại hóa đạo Phật".

 

"Thiền sư Thích Nhất Hạnh với tư cách là một Sứ giả Như Lai tuyên dương Diệu pháp Phật Tổ, vị Sứ giả Hòa bình kêu gọi chấm dứt chiến tranh ý thức hệ dẫn đến cả chính phủ hai miền Nam và Bắc Việt Nam đều từ chối quyền hồi hương và phải lưu vong sống nhờ đất khách tha hương suốt thời gian 39 năm"

 

Năm 1961, Thiền sư Thích Nhất Hạnh vân du đến Hoa Kỳ để giảng dạy chuyên khoa Tôn giáo so sánh tại Đại học Princeton. Năm sau, Ngài giảng dạy và nghiên cứu về triết học Phật giáo tại Đại học Columbia, nơi Ngài tiếp tục một sứ giả xuất sắc truyền bá thông điệp hòa bình và vận động các nhà lãnh đạo phương Tây ủng hộ phong trào phản chiến, chấm dứt chiến tranh Việt Nam.

 

Năm 1967, Mục sư Tiến sĩ Martin Luther King Jr. (1929-1968), bộ trưởng báp têm, lãnh đạo của phong trào dân quyền ở Mỹ trong những năm 1950 và 1960 đã tôn vinh Thiền sư Thích Nhất Hạnh là "Một vị Thánh Tông đồ của Hòa bình và Bất bạo động" khi đề cử Ngài cho giải Nobel Hòa bình. Tuy nhiên, không có giải thưởng nào được trao năm ấy.

 

Sau giữa thế kỷ 20, đầu thập niên 1960, Thiền sư Thích Nhất Hạnh thành lập Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội (School of Youth for Social Services - SYSS) ở Sài gòn, một tổ chức phúc lợi từ thiện xã hội xây dựng lại cac làng bị bỏ bom, xây dựng trường học và các trạm xá, giúp các gia đình trở thành vô gia cư trong Chiến tranh Việt Nam. Thầy tôi là một trong những thành viên sáng lập Đại học Vạn hạnh, một viện đại học tư thục danh tiếng tập trung các nghiên cứu về Phật giáo, văn hóa và ngôn ngữ Việt Nam và Ngài đã thành lập Nhà Xuất bản Lá Bối.

 

Ngài là thành viên sáng lập người Viện Đại học Vạn Hạnh và Nhà xuất bản Lá Bối. Viện Đại học Vạn Hạnh trở thành một viện đại học tư thục danh tiếng tập trung các nghiên cứu về Phật giáo, văn hóa và ngôn ngữ Việt Nam.

 

Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, chủ trương đào tạo nhân sự và đưa Phật giáo vào cuộc sống thường nhật được Giáo hội xúc tiến qua việc xây dựng một cơ sở giáo dục bậc đại học. Với nỗ lực đó, Viện Đại học Vạn Hạnh được thành lập với hai mục tiêu: xây dựng nhà giáo dục... làm sống dậy lòng tin cho tuổi trẻ... với châm ngôn Duy Tuệ Thị Nghiệp, tức là mọi hoạt động của cơ sở giáo dục này cốt để phát triển trí tuệ.

 

Năm 1966, Thiền sư Thích Nhất Hạnh lập ra Dòng tu Tiếp Hiện (The Order of Interbeing, L’ordre de l’inteprêtre), và thiết lập các trung tâm thực hành, các thiền viện khắp trên thế giới. Nơi cư ngụ của Ngài là Tu viện Làng Mai ở vùng Dordogne thuộc miền Nam nước Pháp. Ngài du hành khắp thế giới thuyết giảng và tổ chức các khóa tu thiền. Ngài đó đây vân du khắp nơi trên thế giới để tuyên dương Diệu pháp Như Lai và truyền bá thông điệp hòa bình, tình huynh đệ ở châu Âu và Hoa kỳ. Ngài là tác giả của 120 đầu sách về nghệ thuật chánh niệm và sống hòa bình.

 

Trong thời gian vận động hòa bình cho Việt Nam, Ngài vẫn tiếp tục công việc viết lách, giảng dạy về nghệ thuật sống chánh niệm và chế tác bình an. Đầu những năm 70, Ngài vừa nghiên cứu và giảng dạy về lịch sử Phật giáo Việt Nam tại đại học Sorbonne, Paris. Năm 1975, Người thành lập một cộng đồng tu học gần Paris có tên là Phương Vân Am. Đến năm 1982, Phương Vân Am trở nên quá nhỏ cho số người muốn đến tu học, vì vậy tăng thân đã chuyển đến một địa điểm mới ở vùng Dordogne, miền Nam nước Pháp. Nơi này về sau có tên là Làng Mai.

 

Dưới sự hướng dẫn tâm linh của Ngài, từ một nông trại nhỏ, Làng Mai nay đã trở thành một tu viện Phật giáo lớn nhất và phát triển năng động nhất ở châu Âu, với hơn 200 xuất sĩ thường trú và hơn 10 ngàn thiền sinh từ khắp nơi trên thế giới tìm đến Làng Mai mỗi năm để học “nghệ thuật sống chánh niệm”.

 

Thiền sinh – đủ mọi lứa tuổi, quốc gia, tôn giáo – khi về Làng đều được hướng dẫn cách thực tập thiền tọa, thiền hành, thiền ăn, thiền buông thư, thiền làm việc, học cách dừng lại, mỉm cười và trở về với hơi thở. Dựa trên những giáo lý căn bản của đạo Bụt, các phương pháp thực tập này đã được Ngài khai triển và làm cho dễ ứng dụng vào đời sống hàng ngày, đáp ứng được những khó khăn, thách thức của thời đại.

 

Tính đến nay, đã có hơn 100.000 người tiếp nhận và hành trì theo Năm giới quý báu mà Ngài đã làm mới lại dựa trên Năm giới truyền thống. Theo Ngài, Năm giới tân tu này là đóng góp của đạo Bụt cho một nền đạo đức toàn cầu.

 

Ngài thành lập Phong trào Wake up - Làng Mai, một phong trào dành cho các bạn thanh niên Phật tử và không Phật tử làm Thầy Làng Mai phát động vào mùa hè năm 2008. Tiếng Việt có thể dịch là Thức Thần đi! Ý tưởng xây dựng phong trào bắt nguồn từ buổi sinh hoạt giữa Ngài và tăng đoàn Làng Mai với trên 500 học sinh trung học ở thành phố Napoli trong phương pháp làm việc tại Ý mùa xuân năm 2008, trong đó bạn trẻ tham gia rất nhiều tích cực, hỏi những câu hỏi rất thực tế và rất khao khát học hỏi đúng pháp luật. Điều này đã gây cảm hứng lớn cho Ngài và Tăng thân nên trong khóa tu mùa hè 2008, Ngài khuyến khích sinh từ hơn 40 quốc gia có mặt trong khóa tu về tổ chức tại nước mình Đoàn thanh niên Phật tử (and Không Phật tử) phục vụ cho một xã hội lành mạnh và từ bi (tiếng Anh là Phật tử trẻ (và không phải Phật tử) vì một xã hội lành mạnh và từ bi).

 

Phong trào Wake up - Làng Mai đã lan tỏa khắp thế giới, thu hút hàng nghìn người trẻ tuổi được giáo dục đào tạo trong nếp sống chánh niệm này. Một chương trình học đánh thức quốc tế đã được đưa ra để giáo dục đào tạo về chánh niệm tại khắp nơi trên thế giới, châu Âu, châu Mỹ và châu Á.

 

Tài liệu của Đại sứ quán Mỹ tại Hà Nội năm 2005 ghi lại đối thoại của thiền sư Thích Nhất Hạnh và kiến nghị 7 điểm với Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

 

Điện tín từ Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Hà Nội gửi về Bộ Ngoại giao ngày 31/03/2005 ghi lại các ý chính của cuộc gặp mặt giữa thiền sư Thích Nhất Hạnh (1926-2022) và Đại sứ Michael Marine diễn ra vài hôm trước đó, theo Hồ sơ Wikileaks (xem link).

 

Sau hai tháng rưỡi được phép về thăm quê hương 'thành công', thiền sư Thích Nhất Hạnh đã hội kiến Đại sứ Michael Marine (nhiệm kỳ 2004-2007) tại Hà Nội hôm 26/03/2005.

 

Sứ quán Hoa Kỳ viết rằng "dù Thiền sư Thích Nhất Hạnh ra điều kiện trước chuyến về là phải để Ngài đi lại tự do và sách của Ngài từng bị cấm phải được xuất bản (trong nước) "... nhưng chính phủ Việt Nam vẫn lo ngại" Ngài trở thành nhân vật của công chúng (mass figure)".

 

Tại Hội nghị Tôn giáo thế giới được tổ chức tại Melbourne, Úc (năm 2009), cũng như tại Hội nghị của UNESCO tại Paris (năm 2006), Ngài đã lên tiếng kêu gọi thế giới cần có những hành động cụ thể để thay đổi tình trạng bạo động, chiến tranh và biến đổi khí hậu toàn cầu.

 

Trong chuyến hoằng pháp tại Mỹ năm 2013, Ngài đã có những buổi hướng dẫn về thực tập chánh niệm tại trụ sở của Google, Ngân hàng thế giới và Đại học Y tế Cộng đồng của Harvard.

 

Trước khi Thiền sư Thích Nhất Hạnh từ Thái Lan trở về Tổ đình Từ Hiếu nơi Ngài xuất gia tu học vào ngày 28/10/2018, Ngài về Việt Nam tổng cộng 4 lần: năm 2005, năm 2007 và 2008 và năm 2017.

 

Theo thông tin từ Làng Mai, đại diện môn đồ pháp quyến, Thượng tọa Chân Pháp Ấn cho biết, lễ nhập kim quan thiền sư Thích Nhất Hạnh sẽ diễn ra vào sáng 23/1.

 

Tang lễ sẽ kéo dài trong 7 ngày theo hình thức của một khóa tu im lặng. Trong suốt thời gian đó, ban tang lễ mong mọi người đến thăm viếng trong im lặng, trang nghiêm, thanh tịnh, tĩnh lặng và nhẹ nhàng.

 

Sau lễ Trà Tỳ, xá lợi của thiền sư sẽ được an vị tại Tổ đình Từ Hiếu và các trung tâm khác của Làng Mai khắp nơi trên thế giới mà không cần phải xây bảo tháp.

 

Ban lễ tang cũng mong mọi người không phúng điếu vòng hoa, trường liên.

 

Thích Vân Phong biên dịch

(Nguồn: Union of Catholic Asian News)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/06/2011(Xem: 5416)
Đọc sử Phật giáo Việt Nam, hẳn chúng ta đều biết nước mình có một ông vua đi tu ngộ đạo, đó là vua Trần Nhân Tông. Ngài làm vua trong thời gian nước nhà đang bị quân Mông Cổ đem đại quân sang xâm lấn nước ta lần thứ ba.
22/06/2011(Xem: 6021)
Trong sáu thập niên qua, TIME đã không ngừng ghi chép lại những vinh quang cùng khổ nhọc của Á châu. Trong số đặc biệt kỷ niệm thường niên hôm nay, chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng của mình đến những nhân vật nổi bật đã góp phần vào việc hình thành nên thời đại chúng ta. Những thập niên xáo động nhất của một lục địa đông dân nhất trên trái đất này đã sản sinh ra hàng loạt những nhân vật kiệt xuất. Trong sáu mươi năm qua, kể từ khi TIME bắt đầu cho xuất bản ấn bản Á Châu, chúng tôi đã có cái đặc ân là được gặp gỡ đa số những nhân vật ngoại hạng này –theo dấu cuộc vận động hay trên chiến trường, trong phòng hội hay trong phòng thí nghiệm, tại cơ sở sản xuất hay tại phim trường.
16/06/2011(Xem: 3638)
Tôi có duyên lành gặp được ngài một lần khi ngài đến thăm Hòa thượng chùa Đông Hưng, bổn sư của tôi, cũng là y chỉ sư của Hòa thượng Quảng Thạc, một để tử xuất gia của ngài khi còn ở đất Bắc. Cung cách khiêm cung, ngài cùng Hòa thượng tôi đàm đạo về quá trình tu tập cũng như Phật học, hai ngài đã rất tâm đắc về chí nguyện giải thoát và cùng nhau kết luận một câu nói để đời : “Mục đích tu hành không phải để làm chính trị”. Cũng câu nói này, khi chia tay chư tăng miền Nam, ngài đã phát biểu với hàng pháp lữ Tăng ni đưa tiễn. Khi sưu tập tư liệu về cuộc đời của ngài, tôi may mắn gặp được các bậc tri thức cao đồ của ngài kể lại. Nay, nhân có cuộc hội thảo về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Bắc và công hạnh của ngài, tôi xin được góp thêm đôi điều.
14/06/2011(Xem: 5086)
Thiền sư PHÁP THUẬN (Bính Tý 918): Thiền sư đời Tiền Lê, thuộc dòng thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu Chi, không rõ gốc gác quê quán và tên thật, chỉ biết rằng Sư họ Đỗ, xuất gia từ thuở nhỏ ở chùa Cổ Sơn (Thanh Hóa), sau theo học đạo Thiền sư Phù Trì ở chùa Long Thọ, nổi tiếng là uyên thâm đức độ. Tương truyền rằng chính Sư đã dùng nghệ thuật phù sấm, làm cố vấn giúp vua Lê Đại Hành nắm quyền bính, dẹp yên được hỗn loạn trong triều cuối đời nhà Đinh, được vua Lê vô cùng trọng vọng. Năm 990 niên hiệu Hưng Thống thứ 2, Sư không bệnh mà viên tịch, thọ 76 tuổi, để lại cho đời các tác phẩm: “Bồ Tát sám hối văn”, “Thơ tiếp Lý Giác”, và một bài kệ.
14/06/2011(Xem: 5186)
• Thiền sư Chân Không(Bính Tuất -1046): Sư họVương, thế danh Hải Thiềm, quê quán ở làng Phù Đổng (nay là Tiên Sơn-Bắc Ninh), xuất thân trong một gia đình quý tộc. Lúc thân mẫu của ông mang thai, cha ông nằm mộng thấy một vị tăng Ấn Độ trao cho cây tích trượng, sau đó thì ông ra đời. Mồ côi cha mẹ từ thuở niên thiếu, ông siêng chăm đọc sách không màng đến những chuyện vui chơi. Năm 20 tuổi ông xuất gia, rồi đi ngao du khắp nơi để tìm nơi tu học Phật Pháp. Nhân duyên đưa đẩy cho Sư đến chùa Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu (Gia Lương-Hà Bắc), nghe Thiền sư Thảo Nhất giảng kinh Pháp Hoa mà ngộ đạo, được nhận làm đệ tử, sớm tối tham cứu thiền học, và được sư thầy truyền tâm ấn, thuộc dòng thiền Tì-ni-đa Lưu -chi, thế hệ thứ 16. Sau, Sư lên núi Phả Lại, trại Phù Lan (nay thuộc huyện Mỹ Văn-Hưng Yên) làm trụ trì chùa Chúc Thánh, ở suốt 20 năm không xuống núi để chuyên trì giới luật, tiếng thơm đồn xa đến cả tai vua.
13/06/2011(Xem: 12752)
Ôi, trong giáo pháp Phật đà của ta, việc trọng đại nhất là gì ? Con người sinh ra không từ cửa tử mà đến, chết không vào cửa tử mà đi. Thế nên người nằm non ở tổ, bỏ ngủ quên ăn, chẳng tiếc thân mạng, đều vì việc lớn sinh tử. Ở thời giáo suy pháp mạt này mà có người vì việc lớn sinh tử như Hòa thượng Liễu Quán, thật là hy hữu.
05/06/2011(Xem: 11415)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
01/06/2011(Xem: 5417)
Cuộc đời và sự nghiệp của Khương Tăng Hội, ta hiểu biết qua hai bản tiểu sử xưa nhất, một của Tăng Hựu (446 - 511) trong Xuất tam tạng ký tập 13 ĐTK 2145 tờ 96a29-97a 17 và một của Huệ Hạo trong Cao Tăng truyện 1 ĐTK 2059 tờ 325a13-326b13. Bản của Huệ Hạo thực ra là một sao bản của bản Tăng Hựu với hai thêm thắt. Đó là việc nhét tiểu sử của Chi Khiêm ở đoạn đầu và việc ghi ảnh hưởng của Khương Tăng Hội đối với Tô Tuấn và Tôn Xước ở đoạn sau, cùng lời bình về sai sót của một số tư liệu. Việc nhét thêm tiểu sử của Chi Khiêm xuất phát từ yêu cầu phải ghi lại cuộc đời đóng góp to lớn của Khiên đối với lịch sử truyền bá Phật giáo của Trung Quốc, nhưng vì Khiêm là một cư sĩ và Cao Tăng truyện vốn chỉ ghi chép về các Cao Tăng, nên không thể dành riêng ra một mục, như Tăng Hựu đã làm trong Xuất tam tạng ký tập 13 ĐTK 2145 tờ 97b13-c18, cho Khiêm.
31/05/2011(Xem: 13712)
Quy ẩn, thế thôi ! (Viết để thương một vị Thầy, mỗi lần gặp nhau thường nói “mình có bạn rồi” dù chỉtrong một thời gian rất ngắn. Khi Thầy và tôi cách biệt, thỉnh thoảng còn gọi điệnthoại thăm nhau) Hôm nay Thầy đã đi rồi Sắc không hai nẻo xa xôi muôn ngàn Ai đem lay ánh trăng vàng Để cho bóng nguyệt nhẹ nhàng lung linh Vô thường khép mở tử sinh Rong chơi phù thế bóng hình bụi bay Bảo rằng, bản thể xưa nay Chơn như hằng viễn tỏ bày mà chi
27/05/2011(Xem: 7487)
Vào năm 247, một vài năm sau khi Chi Khiêm rời khỏi kinh đô Kiến Nghiệp, Khương Tăng Hội, một vị cao tăng gốc miền Trung Á, đã đến đây. Ngài đến từ Giao Chỉ, thủ phủ của Giao Châu ở miền cực Nam của đế quốc Trung Hoa (gần Hà nội ngày nay). Gia đình của Ngài đã sinh sống ở Ấn độ trải qua nhiều thế hệ; thân phụ của Ngài, một thương gia, đến định cư ở thành phố thương mại quan trọng này.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567