Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thiền Sư Thích Nhất Hạnh Người “Đã Về” và Hôm Nay “Đã Tới”

24/01/202217:02(Xem: 3380)
Thiền Sư Thích Nhất Hạnh Người “Đã Về” và Hôm Nay “Đã Tới”

Chan Dung Thien Su Thich Nhat Hanh


Thiền Sư Thích Nhất Hạnh

Người “Đã Về” và Hôm Nay “Đã Tới”

 

Bậc Đại sỹ suốt đời đã hy hiến, phụng sự không mỏi mệt, giờ thì “Đã Về” và “Đã Tới.” Người đã được thảnh thơi và yên nghỉ rồi. Đã về là về lại cội nguồn. Lá rụng về cội. Về lại chốn xưa. Ngôi chùa Tổ Từ Hiếu. Ngôi chùa được tọa lạc trên vùng đất kinh đô-Huế, ngàn năm văn vật. Một địa danh mà đã lưu xuất không biết bao nhiêu bậc Kỳ túc xuất trần của Phật Giáo miền Trung nước Việt. Cái nôi đã nuôi lớn bao nhiêu tâm nguyện cứu đời, vị tha trên dòng lịch sử Phật Giáo Việt Nam. Nơi đây, dòng sông Hương núi Ngự cũng đã nuôi lớn bao nhiêu tâm hồn thi nhân, mặc khách, văn chương, âm nhạc trử tình quê hương. Một trời thơ mộng vừa xuất thế vừa nhập thế, dựng thành tinh thần Giáo pháp Bất nhị, Vạn hạnh dung thông… cho Phật Giáo Việt Nam được trường tồn bất diệt. Trường tồn ở chổ là hồi chuông tiếng mõ không ngớt. Lời kinh tiếng kệ như thoi đưa. Chuông đại hùng, trống bát nhã luôn rền vang vượt thoát qua mọi thời đại của thế nhân thịnh suy, bỉ cực. Mặc cho đời áo mảo cân đai, người con Phật nơi xứ ấy, âm thầm tương chua, muối mặn, ngày 2 thơi công phu bái sám, vậy mà đã nuôi lớn những bậc Kỳ túc Thiền gia làm nên sự nghiệp xuất thế, vang dội khắp năm châu bốn biển. Dù cho, nói theo ngôn ngữ trần gian “công danh sự nghiệp” có thừa. “Tiếng tăm lừng lẫy” khắp trời ai cũng biết, nhưng không vì vậy mà quên đi cội nguồn, Tông phong Thầy Tổ. Quên đi lối cũ đường về, hầu Thầy làm điệu. Và cũng không phải vì vậy mà quên quê cha đất Tổ. Núm ruột của Mẹ, nuôi lớn đời con. Sống thì tha phương hoá độ, bất cứ nơi đâu, chỗ nào có duyên thì tới, hết duyên thì đi, cho đến ngày cuối đời, thì quay về nằm trong lòng đất Mẹ. Cái tình tự giống nòi. Cái ơn nghĩa quê hương nuôi lớn con dân Việt, muôn đời không quên. Thiền Sư Thích Nhất Hạnh là người con dân nước Việt.

 

Giờ “Đã Tới.” Thiền Sư Thích Nhất Hạnh dẳm mòn gót chân trên vạn nẻo đường đất nước, thì hôm nay “Đã Tới,” tới bờ bên kia - đáo bỉ ngạn. Tới nơi tỉnh lặng bình an. Bình an như từng bước chân thảnh thơi mà Thiền Sư hằng giảng dạy trong những đạo tràng tu học cho hai thế hệ già và trẻ. Thảnh thơi như từng hơi thở vào ra một cách an nhiên, thiền tập.

Từ sự bình an của từng bước chân đi. Từ sự thảnh thơi của từng hơi thở mà nuôi lớn bậc Xuất Trần Thượng Sỹ, trong đời năm trược này để trở thành:

 

1.) Bậc Thầy của nhiều thế hệ: Thiền Sư đã giảng dạy cho nhiều thế hệ người từ bầu trời Phương Đông. Nguyên Giám Học Phật Học Đường Nam Việt, đồng sáng lập viện Cao Đẳng Phật Học Sài Gòn, là tiền thân của Viện Đại Học Vạn Hạnh… chủ bút tuần San Hải Triều Âm- cơ quan ngôn luận của Viện Hoá Đạo. Lập Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội, nhà Xuất bản Lá Bối…Đến khung trời phương Tây, thành lập Đạo tràng Mai Thôn tại Pháp, và rất nhiều Tu Viện cho các Thiền sinh người Việt cũng như ngoại quốc: Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Úc, Canada... đều tham dự tu và phát nguyện xuất gia trở thành các vị Thầy làm lợi Đạo ích đời.

 

2.) Bậc đạo sỹ khéo ứng hóa thân: Thiền sư đã phương tiện chuyển hoá lời Phật dạy đi vào lòng người một cách thâm trầm, mầu nhiệm. Giảng dạy Pháp môn tu thiền chánh niệm, tỉnh giác thích ứng nhiều căn cơ- hiện tại lạc trú: Theo Gót Chân Bụt, Đường Xưa Mây Trắng. Thiền Tập Cho Người Bận Rộn. Trái Tim Của Bụt…

 

3.) Nhà văn hoá lớn cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21: Thiền Sư đã có khoảng 120 tác phẩm nhiều thể loại. Đạo Bụt Nguyên Chất. Sám Pháp Địa Xúc. Nẻo Vào Thiền Học. Nói Với Tuổi Hai Mươi… Cửa Tùng Đôi Cánh Gài. Có những tác phẩm đã được dịch ra hàng chục thứ tiếng và lưu hành trên thế giới hôm nay, trong các lãnh vực, học đường, tôn giáo, xã hội…

 

4.) Một nhà văn Trác Việt, Kiệt Xuất: Thiền Sư đã sữ dụng văn chương ngữ pháp qua hai phạm trụ đạo học cũng như thế học thật tài tình đa dạng, ý vị rạc rào, chuyểu tải ngữ ngôn cú pháp như thiên phú: Thả Một Bè Lau. Kết Một Tràng Hoa. Sen Nở Trời Phương Ngoại…Đi Như Một Dòng Sông.

 

5.) Một nhà thơ Đạo và Quê Hương: Tô đậm hồn thơ, ý thơ, vận thơ thật trong sáng, diễn tả tự tình đạo pháp và quê hương: Bông Hồng Cài Áo. Buớm Bay Vườn Cãi Hoa Vàng… một đoản văn nghe như hồn thơ lai láng, màu sắc mượt mà quê hương.

 

6.) Một nhà cách mạng bất bạo động, tranh đấu cho hòa bình, tự do: Đạo Phật là đạo từ bi, lấy tình thương xóa hận thù. Lấy sự thanh bình, thịnh vượng làm chất liệu sống mà Thiền Sư đã nổ lực, đồng hành với các nhà đấu tranh cho nhân quyền, các chính khách ở phương Tây, nói lên tiếng nói công lý đầy tình người, nhân bản, hầu xây dựng một đời sống an lành, hạnh phúc cho con người trên thế giới nói chung và các quốc gia đang là chủ chiến nói riêng qua hình ảnh và ý nghĩa của người Tăng sĩ Việt Nam.

 

7.) Một nhà bảo vệ môi sinh, bảo vệ trái đất: Thiền sư đã tha thiết kêu gọi con người hãy bảo vệ màu xanh trái đất. Vì đất là môi trường sống của tất cả, từ hửu tình đến vô tình đâu đâu cũng được đất nuôi dưởng, tác thành sự sống cho lá hoa, sỏi đá, mây trời, gió êm và nắng ấm. Xin đừng tàn phá trái đất … Hay còn gì nữa. -Một nhà giáo dục lớn. Một nhà tâm linh lớn… cho vạn đại về sau.

 

 

Chỉ có bấy nhiêu, một con người có được bấy nhiêu không phải dễ gì có được. Nếu không có bước chân thảnh thơi. Nếu không có thở nhẹ và sâu trong phút giây hiện tại- bây giờ và ở đây. Hay không có ngồi vững như non, và miệng mĩm cười thì khó có bấy nhiêu lắm. Đạo Phật giản dị nhưng như thật. Như thật là tỉnh giác. Tỉnh giác trong từng bước chân đi. Tỉnh giác trong từng hơi thở nhẹ. Thiền Sư Thích Nhất Hạnh đã tu cho mình và cho người Pháp môn ấy, để ngày hôm nay Thiền Sư có tất cả. Từ cái đơn giản nhất. Từ cái bình dị nhất, những tưởng ai cũng làm được, nào ngờ quá khó và khó vô vàn. Thiền Sư đã chánh niệm, tỉnh giác, nên thiền sư “Đã Về” và “Đã Tới” bằng thong dong từng bước chân.

 

Mây trời vẫn bay thong dong trên bầu trời Từ Hiếu. Cảnh chùa là chốn tịch mịch, thâm u, nên một tuần lễ tâm tang cũng là một tuần lễ tu tập im lặng, cho tứ chúng đệ tử Phật và giờ này các quốc gia trên thế giới hàng Tăng Ni đệ tử của Sư Ông lần lượt xách va li ra các sân bay để bay về Tổ đình Từ Hiếu phủ phục tâm tang, chí thành, chí thiết của hàng môn đồ pháp phái Đạo Tràng Mai Thôn làm rực sáng một góc trời quê hương.

 

ngày 22 tháng 01 năm 2022

Chùa Phật Đà San Diego, CA

Hậu học

Thích Nguyên Siêu

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/08/2012(Xem: 6791)
Kính bạch Sắc tứ Thập Tháp Tổ đình, Tân tịch trụ trì Thích Kế Châu, Đại lão Hòa thượng giác linh, tác đại chứng minh. Hôm nay, chúng tôi là những Pháp huynh, Pháp đệ thuộc dòng pháp Chúc Thánh, Tổ đình thứ hai Quảng Nam, và dòng pháp Thiền Tôn, Tổ đình thứ ba – Huế, tại Bình Định, và cũng là con cháu tám, chín đời dòng pháp Thập Tháp – Tổ đình thứ nhất, thuộc dòng pháp Thiên đồng Trung quốc tại Việt nam. Giờ này, tất cả chúng tôi đã vân tập đông đủ trước linh đài trang nghiêm, đau buồn này để làm lễ tiễn đưa kim quan Cố Đại lão Hòa thượng vào “BẢO THÁP MẬT TÀNG”, nghìn thu an nghỉ. Kính bạch Tân tịch Đại lão Hòa thượng giác linh! Trước hết, tại nơi đây, tất cả chúng tôi: Chí thành đến trước linh tòa, Cung kính dâng lên pháp cúng Kinh diên tán tụng,
04/08/2012(Xem: 6490)
Hòa thượng Thích Duy Lực, pháp danh Duy Lực, pháp tự Giác Khai, nối pháp thiền phái Lâm Tế. Ngài thế danh La Dũ, sinh ngày 5 tháng 5 năm Quý Hợi 1923, nhằm Trung Hoa Dân quốc thứ 12, tại làng Long Yên, huyện Phong Thuận, phủ Triều Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc; thân phụ là cụ ông La Xương, thân mẫu là cụ bà Lưu Thị. Ngài sinh trưởng trong một gia đình chuyên nghề nông trang, quy kính Tam bảo. Năm Mậu Dần 1938, Ngài được 16 tuổi, vừa học xong tiểu học thì phải lên đường theo cha sang Việt Nam sinh sống. Khi mới sang, gia đình Ngài dừng chân ở Cần Thơ lập nghiệp; trong những lúc rỗi rảnh Ngài thường tranh thủ tự học thên Hoa văn và quốc ngữ Việt Nam.
20/07/2012(Xem: 8104)
Thiền sư Bạch Ẩn Huệ Hạc (1685–1768) là vị Tổ trung hưng thiền Lâm Tế tại Nhật Bản. Xa rời phương thức đánh hét cùng các ngôn ngữ siêu tuyệt, Ngài cố công diễn tả Thiền bằng ngôn ngữ dễ hiểu để tầng lớp bình dân có thể hiểu được.
19/07/2012(Xem: 5609)
Qua hàng ngàn năm Lịch sử của Dân tộc, hơn 2000 năm có mặt trên đất nước, Phật giáo đã đóng góp cho Tổ quốc một thời gian dài trên dưới 400 năm an bình thịnh vượng, chưa nói đến những thời đại riêng lẻ ngắn ngủi.
03/07/2012(Xem: 10287)
Hòa Thượng Thích Trí Tịnh, thế danh Nguyễn Văn Bình, sinh ngày 02 tháng 09 năm Đinh Tỵ (17-10-1917), tại làng Mỹ An Hưng (Cái Tàu Thượng) huyện Châu Thành, tỉnh Sa Đéc (Đồng Tháp).
30/06/2012(Xem: 8916)
Thành Kính Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Giác Lâm (1928 - 2012)
24/06/2012(Xem: 11733)
Kính lạy tôn dung Ngài Con xin tìm lại dấu xưa 39 năm, hai thế kỷ sao vừa Nín thở, lặng yên, đọc từng con chữ
12/06/2012(Xem: 4976)
Hòa thượng họ Đỗ, huý Châu Lân, sinh năm 1927 (Đinh Mão) tại thôn Quan Quang, xã Nhơn Khánh, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Thân phụ là cụ ông Đỗ Hoạch, và thân mẫu là cụ bà Trần Thị Tú. Gia đình gồm năm người con, hai trai và ba gái; Hòa thượng Thích Đỗng Quán thứ ba, và Ngài là thứ tư. Gia đình Ngài đời đời thuần tín Tam bảo. Cha mất sớm, được mẹ chăm lo dạy dỗ. Với bẩm tánh thông minh và hiếu học, năm 11 tuổi Ngài thi đậu bằng Yếu lược. Việc này chưa xảy ra ở vùng quê của Ngài nên đích thân ông Lý trưởng đến thăm và chúc mừng. Đó là một vinh dự cho gia đình và quê hương Ngài lúc bấy giờ.
11/06/2012(Xem: 5081)
Sự nghiệp thiền sư Tăng Hội rất lớn lao. Nhờ vào những trước tác của Thầy mà ta biết được hành tướng của sự thực tập thiền tại trung tâm Luy Lâu Việt Nam và tại trung tâm Kiến Nghiệp Trung Quốc ngày xưa. Tư tưởng thiền của thầy Tăng Hội là tư tưởng thiền Đại Thừa, đi tiên phong cho cả tư tưởng Hoa Nghiêm và Duy Thức Bao giờ các chùa Việt Nam sẽ thờ tổ Khương Tăng Hội Hiện nay chúng ta đang ở thế kỷ XXI với nền văn minh rực rỡ, với nhiều thiết bị hiện đại, với mức sống rất cao, với vốn hiểu biết rất thien su khuong tang hoi.jpg
10/06/2012(Xem: 13274)
Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Chơn, thế danh Trương Xuân Bình, sinh ngày 20 tháng 11 năm 1933 (Quý Dậu) tại Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Việt Nam, là con thứ sáu trong một gia đình mười hai anh chị em. Thân sinh của Cố Trưởng Lão Hoà Thượng là cụ Trương Xuân Quảng, mất năm 1945, nguyên quán làng Kim Thành, quận Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, làm quan dưới thời Pháp thuộc, được bổ nhậm chức Kiểm Học (tương đương với Trưởng Ty Nha Học Chánh dưới thời các chính phủ quốc gia sau này) tỉnh Bình Thuận năm 1933 – 1939, và Đốc Học tỉnh Quảng Ngãi năm 1940 – 1945. Nhờ túc duyên với Phật Pháp, nên đến năm 1950, Cố Trưởng Lão Hoà Thượng đến Chù
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567