Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hai Phước Duyên tròn đầy (kính tưởng niệm Sư Bà Diệu Tâm)

30/09/202118:47(Xem: 2886)
Hai Phước Duyên tròn đầy (kính tưởng niệm Sư Bà Diệu Tâm)
su ba dieu tam
Bác sĩ Thị Minh Văn Công Trâm, Sư Bà Diệu Tâm & TT Tâm Phương (tháng 9/2018)



Hai Phước Duyên tròn đầy

 

Bài viết của: BS Thị Minh Văn Công Trâm

được đăng tải trên trang nhà Quảng Đức

Diễn đọc: Cư Sĩ Diệu Danh


 

Ai cũng nói, tôi có phước duyên lớn mới được làm bào đệ của Sư Bà Diệu Tâm.  Tôi cũng cảm thấy như thế, tuy không may mắn ít khi được sống gần Sư Bà. Thì quả đúng vậy, tuy là chị em cùng cha cùng mẹ nhưng làm sao có thể sống gần gũi với nhau trong cùng một mái nhà khi Sư Bà là tu sĩ phải sống trong chùa với ni chúng còn tôi lại là người thế tục.

Ngày Sư Bà còn ở Hội An thì tôi lại ra Huế học trường Bồ Đề Hàm Long. Khi tôi quay về Hội An đi học trường trung học Trần Quí Cáp thì lúc ấy Sư Bà đang chuẩn bị dọn đến Đà Nẵng, trước để cùng Sư phụ lập Chùa Sư Nữ Bảo Quang và sau đó trực tiếp lo chăm sóc cho hơn 200 trẻ em trong Cô Nhi Viện Diệu Định. Chỉ một năm học đệ nhất trường Phan Châu Trinh là tôi trú ở Thanh Khê vùng ngoại ô Đà Nẵng. Nhưng như vậy cũng không phải là được ở gần chùa Sư Bà. Lúc đó tôi lại phải dồn mọi nỗ lực cho một kỳ thi quyết định của một thanh niên trong hoàn cảnh chiến tranh leo thang dồn dập sau Tết Mậu thân. Sau khi thi đỗ tú tài toàn phần thì tôi lại du học sang Tây Đức ngay.

Ba má chúng tôi qua đời rất sớm, gia đình bốn chị em lưu lạc mỗi người mỗi ngã, nên từ bé chúng tôi ai cũng phải tự lập. Khi mới chỉ 10 tuổi tôi đã phải xa quê. Lúc ở Hội An có khi phải đi kèm trẻ ở nhờ nhà người để được cho ăn ở miễn phí. Sư Bà Diệu Tâm thì trước đó, từ khi 15 tuổi đã đi xuất gia và trong thời gian hành điệu không dễ gì được phép về thăm gia đình.

Trong những ngày cơ cực khó khăn ấy, mỗi khi có cơ hội gặp nhau Sư Bà vẫn thường khuyên bảo anh em chúng tôi phải biết chấp nhận kham khổ để tự vươn lên, không nhường bước cho số phận định đoạt cuộc đời mình. Sư Bà thường nhắc cho anh em chúng tôi nghe về câu chuyện lúc má chúng tôi trên giường bệnh. Bà đã không lo lắng vì bệnh tật hành hạ mà chỉ sợ hai đứa con trai còn bé quá sau này chắc sẽ bị thất học, không làm được gì lợi ích cho đời. Và như vậy chúng tôi đã níu chặt vào lời khuyên ấy của Sư Bà mà cố đứng lên sau nhiều lần vấp ngã, để đi tiếp phần còn lại của đời mình.

Ngay cả từ năm 1984, sau khi bảo lãnh Sư Bà đến định cư ở Hamburg, Đức quốc; do hoàn cảnh nghề nghiệp tôi đã phải đi làm việc ở một bệnh viện xa cách chùa Bảo Quang gần 500 cây số. Dù lúc này đang ở xứ người có nhiều phương tiện nhưng chúng tôi cũng chỉ có thể gặp nhau chừng 7, 8 lần trong một năm. Nhưng bù lại - và là một may mắn cho tôi -  thời gian cuối đời của Sư Bà tôi được cơ hội gần gũi và được chăm sóc sức khỏe Sư Bà, trong vai trò một người em trai mà cũng là cương vị của một bác sĩ. Đó là khoảng thời gian bắt đầu từ cuối năm 2013 đến khi Sư Bà viên tịch vào năm 2021, từ lúc vợ chồng chúng tôi đã hưu trí dọn hẳn về Hamburg. Đây chính là phước duyên lớn thứ hai cho tôi.

Có lần vào năm 2015, sau khi đi bác sĩ khám bệnh về, vị bác sĩ của Sư Bà có nhờ tôi tiếp tục làm một số khám nghiệm tại nhà, để khỏi phải phiên dịch qua lại mất thì giờ cả hai bên. Lúc nắm tay Sư Bà thấy tay Sư Bà run run vì đã quá ốm, tôi hơi buồn và lo. Nhận thấy nỗi lo của tôi Sư Bà mới với tay lấy cuốn kinh trên kệ sách và nhờ tôi đọc giúp, nói là vì không có chiếc kính lão ở đó (Sư Bà vẫn thường như vậy, người thường giả bộ nhờ ai đó đọc giúp cho một câu, một đoạn sách báo gì đó nhưng thật ra là để cho chính họ hiểu và tự suy ngẫm.

Đó là một câu chuyện ngày nào ở nước Xá Vệ, rừng cây Kỳ Đà.

An Nan quan sát thân Như Lại, lấy hai tay sờ chân Như Lai, rồi nói như vầy: “Thân thể của đấng Thiên Tôn vì sao thế này? Thân nhăn quá vậy! Thân Như Lai không như xưa.”

Thế Tôn bảo: “Thật vậy, A-nan, đúng như những gì ông nói. Nay thân Như Lai, da thịt đã nhăn, thân thể hiện tại không như xưa. Sở dĩ như vậy là vì, phàm có thân thể là bị bệnh thúc ép. Đáng bệnh, chúng sanh bị bệnh vây khốn; đáng chết, chúng sanh bị chết bức bách. Nay Như Lai tuổi đã suy vi, đã hơn 80.”         

A-nan nghe những lời này, buồn khóc nghẹn ngào không tự nén được  liền nói lời này: “Than ôi! Sự già đã đến đây rồi!” (…)

Ngay lúc đó tôi cũng đã thật sự có cảm nhận như vậy. Tôi mơ hồ nhận ra rằng, đã sắp đến ngày chị em chúng tôi sẽ phải chia tay nhau. Lúc đó Sư Bà mới giải thích thêm cho tôi. „Đã mang thân tứ đại này thì ai cũng bước qua ngưỡng cửa sanh già bệnh chết. Cậu là bác sĩ thấy hoài cảnh ấy mà suy nghĩ làm chi. Tôi đã sắp tám mươi rồi chứ ít gì“ (lúc đó là 2015, giống như đa số người Việt Nam mình Sư Bà cũng nói ăn gian vậy, chứ thật ra năm đó người mới 77 tuổi ta)

Y Khoa Đức đào tạo đám sinh viên chúng tôi bảy năm thành bác sĩ. Suốt bảy năm đó, từ một học sinh vừa hết bậc trung học, chưa hề có ý niệm gì về khám và chữa bệnh sinh viên phải học để trang bị đầy đủ cho mình các kiến thức để chữa trị và săn sóc bệnh nhân, như xã hội kỳ vọng ở một người thầy thuốc. Y học Tây phương đã dạy cho chúng tôi, là những bác sĩ đứng cùng phía với bệnh nhân để chiến đấu hầu đánh gục bệnh tật. Trong cuộc tranh đấu kẻ mất người còn này, chúng tôi hoặc dùng thuốc, hoặc dùng phương tiện mổ xẻ hòng đè bẹp được những căn bệnh nan y. Cuộc tranh đấu gay go ấy tôi đã làm hằng ngày suốt hơn 30 năm trường; kết quả lúc này lúc kia, tưởng chừng như bất phân thắng bại. Nhưng nghiệm cho cùng, sao có nhiều người ra đi về bên kia thế giới và dịch bệnh vẫn cứ tràn lan? Sao bệnh viện vẫn cần nhiều bác sĩ miệt mài chiến đấu với bệnh từ thế hệ này sang thế hệ khác? Ai thắng ai thua?

Nhưng ngược lại, trong bảy năm gần gũi với Sư Bà tôi đã học được cả khối việc, những việc mà trường Y không dạy cho tôi được. Phải chăng, cũng vì lý do ấy mà bác sĩ Kỳ Đà ngày xưa đã có được bao nhiêu niềm hỷ lạc khi được có cơ hội hầu hạ chúng Tăng và đức Phật. Nói lời như thế chắc cũng không ngoa!

Trong quá trình hành nghề, tôi đã tiếp xúc nhiều bệnh nhân. Thông thường khi họ quá đau đớn, khi xin thuốc giảm đau thì họ nhăn nhó, có khi bực dọc, hò hét, la chửi… Bác sĩ ở Đức với tất cả những phương tiện tân tiến trong tay, dùng thuốc không hạn chế nhưng nhiều khi cũng phải bó tay nếu bệnh nhân không cùng hợp lực để chữa trị cho mình. Việc hợp tác chữa bệnh có khi không dễ chịu, phải đau đớn, cần nhiều nghị lực. Nói vậy, có nghĩa là các bác sĩ chúng tôi thường chỉ chăm lo cái thân vật lý của con bệnh. Nói theo ngôn ngữ nhà chùa là cái thân tứ đại. Giờ thì tôi mới ngộ ra rằng, cái thân của một con người có thể rất yếu, rất bệnh; nhưng nếu tinh thần đủ mạnh, ý chí và tâm đạo vững vàng, thì họ có thể đủ sức tự vượt qua những khúc quanh ngặt nghèo, những hoạn nạn trong cuộc sống, kể cả bệnh tật. Sư Bà Diệu Tâm, dưới mắt nhìn y khoa của tôi là một trường hợp như vậy.

Hơn ai hết, tôi biết rất rõ: Sư Bà lọt lòng mẹ sớm, chỉ mới hơn 7 tháng cưu mang. Chữ thông thường giới y khoa Đức nói với nhau, tuy không ghi trong văn bản, là „Frühchen“. Thống kê y tế cho biết những đứa bé này dễ bị bệnh tật và khó có tuổi thọ như những trẻ em cưu mang đủ 9 tháng 10 ngày trong bụng mẹ. Nhưng nếu so với tuổi thọ của người Việt Nam thông thường thì đến ngày viên tịch Sư Bà đã thọ đến 83 tuổi, tức là được xếp vào hàng „thọ“ rồi.

Thời trẻ còn ở Việt Nam Sư Bà đã mang bệnh tim mạch và suyễn với triệu chứng thường phát nặng vào những mùa đông lạnh mưa bão ở miền Trung. Chính vì lý do đó trước khi xin phép vào chùa xuất gia, ba má chúng tôi rất lo lắng là không biết Sư Bà có chịu đựng nổi đời sống cơ cực nhà chùa trong thời gian hành điệu hay không. Nhưng rồi mọi việc đâu cũng vào đó. Lúc bấy giờ ni chúng chùa Sư nữ Bảo Thắng Hội An ngoài các thời công phu khuya sớm còn phải tự chăm sóc, canh tác ruộng vườn. Các điệu thường mỗi ngày luân phiên gánh rau, hoa quả lên chợ Hội An, cách chùa độ 4, 5 cây số để bán cho có thêm nguồn thu nhập. May thay khi các điệu gánh lên đến chợ thì thường đã có những Phật tử đón mua trọn cả gánh và các điệu không cần ngồi ngoài chợ bán lẻ từng bó rau, từng củ bắp… như người thường.

Nhìn vào hồ sơ bệnh lý thì có lẽ năm 2016 là năm có các triệu chứng y khoa quyết định đời sống Sư Bà:

-  Tháng 2/2016 Sư Bà bị sưng phổi nặng phải đưa vào bệnh viện điều trị 2 tuần lễ.

-  Tháng 5 sau đó bị tai nạn gãy tay phải và phải giải phẫu đặt vào một miếng kim loại và 3 con vít.

-  Tháng 11 bị đột quỵ và hầu như bị tê liệt nửa người.

-  Sau đó tuy độ nghẹt động mạch tim tăng lên, nhưng bác sĩ giải phẫu cân nhắc và khuyên không nên giải phẫu nữa mà chỉ chữa trị bằng thuốc loãng máu.

Nhìn chung tình trạng sức khỏe của Sư Bà từ cuối năm 2016 đã bước hẳn vào một giai đoạn vô cùng khó khăn. Vậy mà ai cũng ngạc nhiên, kể cả vị bác sĩ nhà, không hiểu vì lý do gì mà Sư Bà còn sống vui và an nhiên tự tại mãi đến tháng 6 năm 2021, khi mọi Phật sự đã viên mãn mới an lòng ra đi?

Theo ý kiến của tôi thì có 3 lý do:

1. Việc đầu tiên là tinh thần:

Là một người tu nên Sư Bà luôn hướng tâm về chư Phật, chư Tổ. Từ ngày còn trẻ hành điệu ở chùa Sư Bà đã luôn tâm nguyện cứu độ chúng sinh, xông xáo trong các hoạt động từ thiện xã hội của Giáo hội.

2. Thứ hai là việc dinh dưỡng:

Tuy trường trai chay tịnh đã bảy mươi năm nay, nhưng Sư Bà ăn theo lối dinh dưỡng, có đầy đủ chất cho cơ thể và rất nhiều rau quả. Sư Bà không chạy theo thời trang chỉ ăn chay một chất thôi như phong trào chỉ ăn gạo lức… Quan trọng nhất là Sư Bà luôn cố gắng không bao giờ bỏ bữa ngay cả những lúc bệnh hoạn hay rất bận rộn. Ni chúng chùa Bảo Quang ai cũng biết về việc đúng giờ giấc của Sư Bà.

Ngày nay y khoa đã xác nhận về phương pháp dinh dưỡng để chữa bệnh này. Hiện nay có một chương trình truyền hình y tế ở Đức rất được ưa chuộng là chương trình „Ernährung Docs“ nói về dinh dưỡng để chữa bệnh mà ít hay không dùng thuốc.

3. Thứ ba là việc vận động:

Ngày Sư Bà chưa bị liệt bán thân thì Sư Bà rất siêng năng lạy Phật. Khi nhập thất Sư Bà chỉ chuyên cần lạy Phật nhiều thời trong ngày. Trong sáu bảy năm cuối đời, sau khi bị đột quị thì Sư Bà luôn chấp nhận vận động tập thể dục ít nhất 3, 4 lần mỗi tuần. Tuy có khi rất đau đớn nhưng vẫn luôn cố gắng vượt qua. Nhiều lúc đau quá thì Sư Bà cũng nhăn nhó than phiền, nhưng cho đến những ngày cuối đời Sư Bà vẫn cố vượt qua mọi đau đớn cơ thể để tập luyện vận động.

 

Tóm lại, với tôi sau bảy năm gần gũi chăm sóc sức khỏe Sư Bà tôi đã học được những gì?

Bài học thứ nhất: sự vận hành của thân và tâm. Là bác sĩ Tây y chúng tôi thường rất (hay chỉ) quan tâm về thân bệnh. Đó là điều chúng tôi đã học từ trường đại học. Giờ đây tôi mới cảm nhận được và hiểu thêm rằng, chỉ dùng thuốc, phẫu thuật, phương tiên y học… thì chưa đủ. Phải săn sóc, rèn luyện phần tinh thần – tức phần tâm của con người. Khi tinh thần đủ mạnh thì bệnh tật sẽ dễ vượt qua. Chính nhờ vào sức mạnh tinh thần này mà Sư Bà đã sống thọ đến tuổi 83, cũng để trả lời cho câu hỏi nêu bên trên.

Bài học thứ hai: Thuận thế vô thường. Sau hơn 30 năm làm việc trong Khu Săn Sóc Đặc Biệt (Intensivstation) tại các bệnh viện ở Đức, nơi mà xác suất tử vong cao nhất trong mỗi bệnh viện, chúng tôi đã chứng kiến không biết bao nhiêu ca tử vong. Trong giờ phút chót từ giã cõi đời ai cũng cố đem chút sức tàn chiến đấu với tử thần. Và thông thường thì thua nhiều hơn thắng. Nhưng chưa thấy ai, lúc rời cõi trần lại ra đi một cách an lạc, ung dung và bình yên như trường hợp Sư Bà Diệu Tâm. Trong giây phút cuối cùng, lúc nghe một đệ tử hiểu ý vọng lên câu hỏi: Sư Phụ muốn đi theo Phật? Sư Bà gật nhẹ đầu rồi hai mắt từ từ bắt đầu nhắm chặt lại. Trên môi nở nụ cười tươi và hơi thở nhẹ đi rồi tắt dần giữa tiếng niệm Phật „Nam mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật“ của đại chúng liên tục vang lên. Với cung cách ấy người đã ra đi. Không một cử chỉ nhăn nhó đau đớn hay luyến tiếc.

Trong suốt thời gian tang lễ, khi nghe chư tôn đức đọc đi đọc lại tiểu sử Sư Bà với câu: Thuận thế vô thường Sư Bà đã thị tịch vào giờ, ngày, tháng, năm ấy tôi mới giật mình nghĩ lại. Thật vậy, chuyện gì suốt cả đời Sư Bà cũng đều tính toán sắp xếp chặt chẽ tình lý phân minh cả. Xưa kia là việc của Giáo hội, rồi đến việc Chùa, việc chúng. Từ năm 2012 Sư Bà đã lo ghi lại di chúc để lại. Từ năm 2013 đã giao chùa cho đệ tử trụ trì. Rồi Sư Bà đã hỗ trợ tinh thần cho môn đồ, pháp quyến các nơi kiến lập, phát triển các ngôi Già Lam, các Ni chúng tu tập như Bảo Thành, Bảo Liên, Bảo Đức, Thảo Đường, Linh Thứu... Việc gì Sư Bà cũng dạy: Phật sự thuận duyên thì làm dù khó cách mấy, dù bao nghịch cảnh vẫn không nên chùn chân bước. Chính năng lượng ấy đã hỗ trợ để Sư Cô kế vị Chùa Bảo Quang phát triển thêm cơ sở của Chùa qua việc mua ngôi nhà kế bên làm Tăng xá. Rồi lúc vô thường đến thì Sư Bà vui bước ra đi. Không biết do vô tình hay hữu ý mà người đã chọn ngay giữa hai thời điểm dịch bệnh Covid đã giảm và chính quyền các nước Âu Châu đã nới rộng các biện pháp phòng ngừa.

Do cách sống giản dị, hòa đồng ấy mà Sư Bà được tất cả chư Tôn Đức và Phật tử khắp nơi kính mến thương yêu. Hàng trăm chư Tôn Đức Tăng Già trên cả Âu Châu đã đến Bảo Quang Hamburg đưa Sư Bà về với chư Tổ chư Phật.

 

***

Bây giờ Sư Bà đã đi xa. Người không còn đó để nhờ tôi đọc Kinh sách cho người nghe nữa. Nhớ hình bóng Sư Bà với cánh tay hơi run run và cặp mắt thiếu chiếc kính lão ngày xưa, tôi đã tự tìm đoạn Kinh cũ ấy rồi tự mình đọc tiếp. Ở đoạn kế tiếp theo đó, đức Phật dạy thêm cả Hội Chúng Tỳ Kheo:

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Có bốn pháp được người thế gian ái kính. Thế nào là bốn? Tuổi trẻ tráng niên được người thế gian ái kính; không có bệnh đau được người ái kính; tuổi thọ được người ái kính; ân ái tụ hợp được người ái kính. Tỳ-kheo, đó gọi là có bốn pháp được mọi người thế gian ái kính.

“Lại nữa Tỳ-kheo, lại có bốn pháp không được người thế gian ái kính.Thế nào là bốn? Tỳ-kheo nên biết, tuổi trẻ tráng niên đến lúc già bệnh, người đời không thích; người không bệnh sau lại mắc bệnh, người đời không thích; được tuổi thọ mà sau lại mạng chung, người đời không thích; ân ái hội hợp sau lại chia lìa. Đó là những điều người đời không thích. Tỳ-kheo, đó gọi là có bốn pháp cùng đời xoay chuyển. Chư thiên, người đời cho đến Chuyển luân Thánh vương, chư Phật, Thế Tôn cùng có pháp này.

(Kinh Tăng Nhất A-hàm, Bốn pháp, phẩm 25-31, Kinh số 6. Dịch giả: Thích Đức Thắng và Thích Tuệ Sỹ).

 

Tôi ghi ý Kinh thêm ra lần nữa cho chính mình.

Bốn ái kính là: trẻ khỏe, không bệnh, tuổi thọ, gần gũi người thân. Bốn ái kinh là: già nua, bệnh tật, mạng chung, chia lìa. Phật dạy rõ ràng: ai mà chẳng sống với bốn pháp ấy, dù muốn hay không.

Nhưng nghiệm cho cùng, cái phước duyên thứ nhất, cùng là thân tộc chị em với Sư Bà là do nghiệp lực từ bao nhiêu kiếp trước nên tôi may mắn nhận được phước báu ấy. Nhưng phước duyên thứ hai được gần gũi chăm sóc sức khỏe Sư Bà quả là một món quà lớn mà Sư Bà đã từ bi ban phát riêng cho tôi. Xin đê đầu đảnh lễ và cầu chúc Sư Bà vui với cuộc ra đi về Phật quốc và sớm quay trở lại cõi Ta Bà này để cứu giúp chúng sinh như tâm nguyện của Sư Bà lúc sinh tiền.

 

Nam Mô Đại Từ Đại Bi Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát.

 

 

Thị Minh Văn Công Trâm

Nhân Lễ Chung Thất Sư Bà thượng Diệu hạ Tâm

30/08/2021



facebook-1
***
youtube
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/07/2010(Xem: 6433)
Kính bạch Sư Tổ! Chúng con đang tập tiếp xúc với Người qua hình ảnh một bậc thầy già chốn núi rừng Dương Xuân. Một túp liều tranh, một bà mẹ già và với ba người đệ tử. Đó là khoảng thời gian hạnh phúc nhất của Sư Tổ. Người có thời gian chăm sóc mẹ già và trao truyền những hoa trái tu học cho những người học trò yêu quý. Xuất thân từ làng Trung Kiên – một vùng đất Phật giáo ở Quảng Trị, Sư Tổ đã đến chùa Thiên Thọ (Báo Quốc) núi Hàm Long – Huế, để xuất gia học đạo với Thiền sư Phổ Tịnh, lúc đó Người chỉ mới lên bảy tuổi. Đến năm 30 tuổi, nhận thấy nơi Sư Tổ có chí khí của một bậc Xuất trần nên Sư Tổ được Bổn sư phú pháp truyền đăng với bài kệ: Nhất Định chiếu quang minh Hư không nguyệt mãn viên Tổ tổ truyền phú chúc Đạo Minh kế Tánh Thiên.
04/07/2010(Xem: 9518)
-Người đi tiên phong và nỗ lực không mệt mỏi cho sự nghiệp phát triển trí tuệ, từ bi và hòa bình- -Nhà lãnh đạo toàn cầu trong phong trào vì hòa bình, nhân quyền và sức khỏe cộng đồng-
14/06/2010(Xem: 4494)
Hòa Thượng Thích Bích Nguyên là một trong những bậc cao Tăng thạc đức của Phật giáo Lâm Đồng. Ngài họ Nguyễn, húy là Tùng, sinh năm 1898 tại làng Duy Hòa, xã Triệu Hòa, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Thuở nhỏ, bẩm chất thông minh, đĩnh ngộ. Thời tráng niên, lập nghiệp ở Lào, Hòa Thượng nhân đọc báo Từ Bi Âm mà ngộ đạo, thấy rõ cuộc đời vô thường, nuôi chí xuất gia. Đến năm 29 tuổi (1927), Hòa Thượng mới có đủ nhân duyên đầu sư thọ giáo với Hòa Thượng PHƯỚC HUỆ, Trú trì chùa Hải Đức, Huế và đắc giới Sa di năm 1934. Năm 1936, ngài thọ Cụ túc giới với pháp hiệu BÍCH NGUYÊN, rồi theo học ở các lớp Phật học tại các Phật học viện Hải Đức, Bảo Quốc và Ấn Quang.
15/05/2010(Xem: 4343)
Thiền sư Khánh Hòa sinh năm 1877 tại làng Phú Lễ tỉnh bến Tre, xuất gia năm 19 tuổi tại chùa Khải Tường. Chí nguyện chấn hưng Phật giáo của ông phát sinh vào khoảng năm ông được bốn mươi tuổi. Ông du hành khắp các tổ đình và Nam Kỳ để gây ý thức chấn hưng và kêu gọi sự hợp tác của các bậc tôn túc.
19/03/2010(Xem: 6360)
Một cặp kính trắng với sợi dây vòng ra sau cổ, năm ba con khỉ nhảy tung tăng trên vai, trên đầu, tóc tai rối rắm, áo quần cái dài, cái ngắn, kiểu đàn ông, đàn bà, đầy màu sắc sặc sỡ …đây là dáng người anh Bùi Giáng chúng ta thường gặp trên những nẽo đường Sài Gòn năm 1975 … Sau năm 1975 , anh Bùi Giáng về ở chung với chúng tôi trong nội xá viện Đại học Vạn Hạnh cũ (222 Trương Minh Giảng, nay là Lê Văn Sĩ). Vào thời điểm này, Đại học Vạn Hạnh không còn hoạt động, nên nội xá chỉ còn một số ít người ở lại với Hòa thượng Viện trưởng Thích Minh Châu. Chúng tôi quản lý chung, chú Chơn Thuần đi chợ và thị giả cho Hòa thượng Viện trưởng, anh Trần Châu phụ trách an ninh, anh Bùi Giáng thì nhận nhiệm vụ đi mua lương thực.
10/03/2010(Xem: 5173)
Bản thân tôi (Tín Nghĩa), rất ít có dịp thân cận với Ôn Già Lam. Điều dễ hiểu, vì tôi không xuất thân từ Phật Học Viện. Vả lại, mỗi lần Ôn về Huế (Bảo Quốc), thường vào dịp đầu xuân, thì đa phần Ôn hay đàm luận Phật sự với quý Ôn lớn như Ôn Linh Mụ, Ôn Trúc Lâm, Ôn Linh Quang, Ôn Từ Đàm và Ôn Bảo Quốc, . . . Đầu năm, Ôn thường hay nghe Đại luật (tức là dạy luật Tứ phần) cho hai chúng Tỳ kheo và Tỳ kheo ni, thì tôi đạp xe ra học rồi về lại chùa. Vả lại, bổn phận của tôi ở chúng Trúc Lâm cũng tương đối bề bộn. Tuy thế, chính tôi lại có với Ôn ba kỷ niệm khó quên.
10/03/2010(Xem: 7658)
Bây giờ là những ngày cuối năm âm lịch. Thiên hạ cùng viết về Xuân, Tết. Tôi muốn viết về Ôn Già Lam và Tu viện Quảng Hương Già Lam. Ôn Già Lam là cách gọi tôn kính của những môn đệ và phật-tử hướng về Đại lão Hòa thượng Thích Trí Thủ, vị viện chủ sáng lập tu viện. Trong tu viện, tăng chúng khi nói về ngài thì chỉ dùng chữ “Ôn” một cách gần gũi. Còn tu viện Quảng Hương Già Lam thì vẫn thường được gọi với cái tên thật ngắn: chùa Già Lam.
10/03/2010(Xem: 6060)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Đà - Đà Nẵng, Hải Đức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn. Ba tiếng nói ấy như trái tim của Mẹ ấp ủ đàn con qua suốt quãng đời dãi dầu mưa nắng. Ôn Già Lam, người đã hy sinh suốt đời mình để phụng sự cho Phật pháp, đào tạo Tăng tài qua nhiều thế hệ. Ôn đã khai phóng tinh thần thế học cho Tăng sinh các Phật Học Viện.
10/03/2010(Xem: 12780)
Sau năm 75 các Phật Học Viện đều đóng cửa. Các tăng sinh tại các Phật Học Viện đều trở về chùa cũ của Thầy Tổ để sinh sống và tu học. Thật tế, tu thì có mà học thì hầu như không. Có chăng là Thầy dạy đệ tử trong chùa. Những chùa có ruộng đất thì thầy trò tự túc canh tác để sinh sống. Sinh hoạt giáo dục và đào tạo tăng ni trẻ đã không còn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567