Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Câu chuyện trái quýt

20/10/202121:42(Xem: 3022)
Câu chuyện trái quýt

 

TT-Thich-Hanh-Tan

Câu chuyện trái quýt
Bài viết của TT. Thích Hạnh Tấn do Cư Sĩ Diệu Danh diễn đọc


 

     Nhận được gợi ý của chú Phù Vân tôi muốn gửi đến quý vị một mẩu chuyện nhỏ nhưng đối với cá nhân chúng tôi là một bài học tuyệt vời đồng thời cũng là một kinh nghiệm quý báu.

 

     Trong những năm tháng khi mới vào chùa làm Sa Di tôi thường theo Thầy tôi đi đến những Chi Hội Phật Tử trên nước Đức để học hỏi, khi Thầy làm lễ và hướng dẫn cư sĩ Phật tử tu học trong các kỳ thọ Bát Quan Trai. Lúc bấy giờ chùa còn có xe “Đại Thừa” chín chỗ hiệu Mitsubishi màu đỏ sậm của Nha sĩ Hòa ở Norddeich cúng dường, nên đôi khi đi rất nhiều vị trong xe. Lần đó do bác Thị Tâm Ngô Văn Phát lái xe, Thầy tôi ngồi bên ghế phụ, phía sau có Sư Bà Diệu Tâm, vài vị trong chùa và tôi. Đi cũng được hơn một tiếng đồng hồ và trời trưa mùa hè với xe không có máy lạnh nên trong xe rất hong nóng. Phía sau đưa lên trái quít để dâng lên Thầy, tôi mau mắn vươn người ra trước định chuyền tiếp. Nhưng tay vươn chưa thẳng thì Sư Bà Diệu Tâm đã kéo tôi lại và kể cho nghe một mẩu chuyện, Sư Bà nói: “chú Thiện Phước (đệ tử đầu tiên của Thầy tôi đến từ Phần Lan, chú là người Việt gốc Quảng Đông, khi tôi vào chùa được hơn hai năm thì chú xin về lại Phần Lan) thì không được tỉ mỉ, chẳng cẩn thận cũng như chú vậy! Cứ để nguyên trái mà đưa lên trước! Chú Thiện Thành (người đệ tử sau đó của Thầy tôi, nhưng chú đi học bên ngoài không thường ở chùa) thì rất chu đáo, mỗi lần chú đều lột quýt cẩn thận, lấy cả những chỉ quýt rồi để lên giấy ăn mới dâng lên Thầy, nhưng Tôi thấy cũng không ổn. Chú cứ liệu mà làm!” Khi nghe Sư Bà nói vậy tôi rất phân vân, đối với một chú “tiểu” mới hai mươi ba tuổi không sành chuyện đời, không thạo chuyện cửa thiền thì câu chuyện xuất hiện như là một “công án” vậy. Suy tới nghĩ lui, tôi chọn trung đạo thế là cũng lột ra, nhưng để nguyên phần trái quýt bên trong ở trong vỏ và dâng lên cho Thầy. Sư Bà không cản lại nữa.

 

     Đến hôm nay tôi cũng không biết là lúc đó Sư Bà có đồng ý với việc làm của tôi không? Tôi cũng không biết là tôi làm như vậy là đúng đắn? Nhưng tôi đã học được một điều quý giá từ sự kiện đó là phàm làm gì cũng nên học hỏi từ những người đi trước, cân nhắc, suy xét rồi đưa ra giải pháp cho riêng mình.

 

     Khi tôi vào chùa, Sư Bà thân thiện như một người mẹ, Sư Bà mặc dầu có Phật sự riêng ở Hamburg những mỗi khi về Hannover đều quan tâm đến những chú Sa Di trẻ chúng tôi. Khi biết chúng tôi (lúc bấy giờ là chú Thiện Phước, chú Thiện Sơn – ở chùa trong 3 tháng hè, chú Thiện Thành và tôi) ngủ dưới hầm vừa ẩm, vừa lạnh vừa tối, Sư Bà liền kiến nghị với Thầy tôi phải chú ý điểm này! Vừa may ngôi nhà nhỏ dùng làm cửa hàng bán len vừa đóng cửa, Thầy tôi đã thuê lại nơi ấy để sửa lại làm phòng ở cho chúng tôi. Đúng lúc có thêm một chú người Đức – Thiện Nam vừa đến xin tu tập.

 

     Những kỷ niệm về Sư Bà rất nhiều mẩu vụn vặt, dường như không quan trọng, nhưng ráp lại thì thành một bức tranh vô cùng sống động đầy thương yêu và khéo léo. Mỗi khi nghĩ về Sư Bà là mẩu chuyện “Trái Quýt” đều sống lại trong đầu và nhắc nhở tôi về bước chân đầu tiên trên con đường giải thoát của mình gắn liền với sự học hỏi và tư duy.

     Hôm nay giã biệt Sư Bà, nhưng chắc chắn nhân duyên giữa Sư Bà và tôi vẫn còn kết nối.

 

Nam Mô thượng Nguyên hạ Từ, hiệu Diệu Tâm Ni Trưởng chi Giác Linh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/07/2010(Xem: 6432)
Kính bạch Sư Tổ! Chúng con đang tập tiếp xúc với Người qua hình ảnh một bậc thầy già chốn núi rừng Dương Xuân. Một túp liều tranh, một bà mẹ già và với ba người đệ tử. Đó là khoảng thời gian hạnh phúc nhất của Sư Tổ. Người có thời gian chăm sóc mẹ già và trao truyền những hoa trái tu học cho những người học trò yêu quý. Xuất thân từ làng Trung Kiên – một vùng đất Phật giáo ở Quảng Trị, Sư Tổ đã đến chùa Thiên Thọ (Báo Quốc) núi Hàm Long – Huế, để xuất gia học đạo với Thiền sư Phổ Tịnh, lúc đó Người chỉ mới lên bảy tuổi. Đến năm 30 tuổi, nhận thấy nơi Sư Tổ có chí khí của một bậc Xuất trần nên Sư Tổ được Bổn sư phú pháp truyền đăng với bài kệ: Nhất Định chiếu quang minh Hư không nguyệt mãn viên Tổ tổ truyền phú chúc Đạo Minh kế Tánh Thiên.
04/07/2010(Xem: 9513)
-Người đi tiên phong và nỗ lực không mệt mỏi cho sự nghiệp phát triển trí tuệ, từ bi và hòa bình- -Nhà lãnh đạo toàn cầu trong phong trào vì hòa bình, nhân quyền và sức khỏe cộng đồng-
14/06/2010(Xem: 4493)
Hòa Thượng Thích Bích Nguyên là một trong những bậc cao Tăng thạc đức của Phật giáo Lâm Đồng. Ngài họ Nguyễn, húy là Tùng, sinh năm 1898 tại làng Duy Hòa, xã Triệu Hòa, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Thuở nhỏ, bẩm chất thông minh, đĩnh ngộ. Thời tráng niên, lập nghiệp ở Lào, Hòa Thượng nhân đọc báo Từ Bi Âm mà ngộ đạo, thấy rõ cuộc đời vô thường, nuôi chí xuất gia. Đến năm 29 tuổi (1927), Hòa Thượng mới có đủ nhân duyên đầu sư thọ giáo với Hòa Thượng PHƯỚC HUỆ, Trú trì chùa Hải Đức, Huế và đắc giới Sa di năm 1934. Năm 1936, ngài thọ Cụ túc giới với pháp hiệu BÍCH NGUYÊN, rồi theo học ở các lớp Phật học tại các Phật học viện Hải Đức, Bảo Quốc và Ấn Quang.
15/05/2010(Xem: 4335)
Thiền sư Khánh Hòa sinh năm 1877 tại làng Phú Lễ tỉnh bến Tre, xuất gia năm 19 tuổi tại chùa Khải Tường. Chí nguyện chấn hưng Phật giáo của ông phát sinh vào khoảng năm ông được bốn mươi tuổi. Ông du hành khắp các tổ đình và Nam Kỳ để gây ý thức chấn hưng và kêu gọi sự hợp tác của các bậc tôn túc.
19/03/2010(Xem: 6358)
Một cặp kính trắng với sợi dây vòng ra sau cổ, năm ba con khỉ nhảy tung tăng trên vai, trên đầu, tóc tai rối rắm, áo quần cái dài, cái ngắn, kiểu đàn ông, đàn bà, đầy màu sắc sặc sỡ …đây là dáng người anh Bùi Giáng chúng ta thường gặp trên những nẽo đường Sài Gòn năm 1975 … Sau năm 1975 , anh Bùi Giáng về ở chung với chúng tôi trong nội xá viện Đại học Vạn Hạnh cũ (222 Trương Minh Giảng, nay là Lê Văn Sĩ). Vào thời điểm này, Đại học Vạn Hạnh không còn hoạt động, nên nội xá chỉ còn một số ít người ở lại với Hòa thượng Viện trưởng Thích Minh Châu. Chúng tôi quản lý chung, chú Chơn Thuần đi chợ và thị giả cho Hòa thượng Viện trưởng, anh Trần Châu phụ trách an ninh, anh Bùi Giáng thì nhận nhiệm vụ đi mua lương thực.
10/03/2010(Xem: 5170)
Bản thân tôi (Tín Nghĩa), rất ít có dịp thân cận với Ôn Già Lam. Điều dễ hiểu, vì tôi không xuất thân từ Phật Học Viện. Vả lại, mỗi lần Ôn về Huế (Bảo Quốc), thường vào dịp đầu xuân, thì đa phần Ôn hay đàm luận Phật sự với quý Ôn lớn như Ôn Linh Mụ, Ôn Trúc Lâm, Ôn Linh Quang, Ôn Từ Đàm và Ôn Bảo Quốc, . . . Đầu năm, Ôn thường hay nghe Đại luật (tức là dạy luật Tứ phần) cho hai chúng Tỳ kheo và Tỳ kheo ni, thì tôi đạp xe ra học rồi về lại chùa. Vả lại, bổn phận của tôi ở chúng Trúc Lâm cũng tương đối bề bộn. Tuy thế, chính tôi lại có với Ôn ba kỷ niệm khó quên.
10/03/2010(Xem: 7657)
Bây giờ là những ngày cuối năm âm lịch. Thiên hạ cùng viết về Xuân, Tết. Tôi muốn viết về Ôn Già Lam và Tu viện Quảng Hương Già Lam. Ôn Già Lam là cách gọi tôn kính của những môn đệ và phật-tử hướng về Đại lão Hòa thượng Thích Trí Thủ, vị viện chủ sáng lập tu viện. Trong tu viện, tăng chúng khi nói về ngài thì chỉ dùng chữ “Ôn” một cách gần gũi. Còn tu viện Quảng Hương Già Lam thì vẫn thường được gọi với cái tên thật ngắn: chùa Già Lam.
10/03/2010(Xem: 6058)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Đà - Đà Nẵng, Hải Đức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn. Ba tiếng nói ấy như trái tim của Mẹ ấp ủ đàn con qua suốt quãng đời dãi dầu mưa nắng. Ôn Già Lam, người đã hy sinh suốt đời mình để phụng sự cho Phật pháp, đào tạo Tăng tài qua nhiều thế hệ. Ôn đã khai phóng tinh thần thế học cho Tăng sinh các Phật Học Viện.
10/03/2010(Xem: 12779)
Sau năm 75 các Phật Học Viện đều đóng cửa. Các tăng sinh tại các Phật Học Viện đều trở về chùa cũ của Thầy Tổ để sinh sống và tu học. Thật tế, tu thì có mà học thì hầu như không. Có chăng là Thầy dạy đệ tử trong chùa. Những chùa có ruộng đất thì thầy trò tự túc canh tác để sinh sống. Sinh hoạt giáo dục và đào tạo tăng ni trẻ đã không còn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567