Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

5 Năm - Một Dấu Lặng Trong Cõi Thế Vô Thường

21/10/202016:17(Xem: 4370)
5 Năm - Một Dấu Lặng Trong Cõi Thế Vô Thường
 ht thich thong qua

5 Năm - Một Dấu Lặng
Trong Cõi Thế Vô Thường

 GIÁC ĐẠO - DƯƠNG KINH THÀNH

 

Thời gian 5 năm, so với tuổi thọ trung bình của con người thì chưa thể gọi là dài lâu, nhưng với từng sát na vô thường  trong chốn nhân gian thì rất đáng kể cho một  sự mất mát vô lượng.

Cố Hòa Thượng  Thích Thông Quả (1937 – 2015) viên tịch ngày 13/09 năm Ất Mùi (nhằm ngày 25/10/2015) Hạ lạp 32, Trụ thế 78.

Ngày ấy, bài viết nhanh chóng được hình thành khi hay tin Cố Hòa Thượng viên tịch “Một dấu lặng yên bình giữa từng nốt nhạc”, trong đó có câu làm ray rức cõi lòng đối với những ai có liên quan đến  văn nghệ Phật giáo: “Những nốt nhạc dù đang nhảy múa ở độ trầm bổng, lên cao hay xuống thấp ở quảng năm, quảng sáu, chỉ cần một dấu lặng ấy nằm giữa khe (La – Si), tức khắc sẽ dịu êm và đi vào hư vô, trả lại cho nhân thế những xô bồ, ồn ào phiền trược mà những nền nhạc trong vắt này vốn không bị tạp nhiễm từ lâu…”

Những lần bước vào Tu viện Phước Hoa, ánh mắt chúng tôi luôn hướng về  phía bên phải, nơi mà trước đây anh em chúng tôi  ngồi quây quần bên chiếc võng đong đưa của cố Hòa Thượng  khai sơn Phước Hoa – Phước Lạc, được nghe những lời hỏi thăm ân cần hay chuyện vãn vui cười ấm áp cả thiền thất. Bây giờ, cũng chính nơi ấy, những đệ tử thương yêu của cố Hòa Thương đã trưng bày chiếc xe đạp cũ kỹ, chiếc gậy mòn  tay hay chiếc nón lá sờn vành, như lưu dấu lại  những tháng ngày gian nan, một thân một mình, âm thầm mở lối vạch đường xây dựng từng bước nền móng cho các  thế hệ mai sau có nơi an trú và trụ vững. Hình ảnh luôn gây cho người viết nguồn cảm xúc  mạnh  là khi cố Hòa Thượng  đầu đội chiếc nón lá tơi sờn, tay cầm gậy cũ dò đường nhưng đôi mắt luôn hướng thẳng về phía trước như  muốn thể hiện một ý chí của kim cương bất hoại. Một vị xuất gia với y hậu vàng đầu đội nón là vốn là hình ảnh quen thuộc đối với  tông môn của hệ phái  Thiền Viện Trúc Lâm; với cố Hòa Thượng, hình ảnh đó  khó có thể phai mờ trong tâm trí mà có lẽ không riêng gì cảm nhận cá nhân mà còn là lời nhắn nhũ thiết tha với hàng hậu tấn  thân yêu nhất của cố Hòa Thượng.

Trộm nhớ, nếu ngày xưa lá trong rừng Sa La có rụng rơi xào xạc, Trời - người  lặng thinh trong bùi ngùi xa vắng; chim muôn buồn không ngủ và muôn thú  dừng bước ngẩn ngơ trước giờ Đức Thế Tôn đi vào cõi vô cùng, thì  trong lòng chúng ta cũng  chùng xuống, buồn tê tái mỗi khi về thắp hương đảnh lễ Giác Linh nhân kỷ niệm  ngày cố Hòa Thượng  vắng bóng  cõi nhân gian.

Có thể muôn đời sau, người ta sẽ còn hờn trách mãi hoài  Tôn giả A Nan, rằng sao cứ để giọt nước mắt  chảy dài theo thương tiếc mà không chịu định tỉnh để  nghe Đức Thế Tôn  giảng giải những điều con người còn chưa biết, chưa hiểu sau khi Ngài hỏi “Con có còn thắc mắc điều gì nữa không?” Biết sao được, chính chúng ta cũng sẽ không tránh khỏi cảm xúc như Tôn giả A Nan trước giờ phút ấy, sao có được trí tuệ minh mẩn để tận dụng những giờ phút cuối cùng đó mà nghe những lời vàng cuối cùng  của Phật. Vâng! Tiếc thì có tiếc thật, nhưng nếu vì vậy mà  hờn trách  Tôn giả A Nan thì tội lắm! Trước hết Ngài cũng là một con người, vì một nguồn thương bể ái đang ôm giữ bên mình, bỗng chốc vụt mất, mà sự vụt mất này đã được báo trước ngay trong chính nền tảng chân lý Phật dạy, thì hỏi ai  làm khác hơn được.? Chúng ta hiện vẫn đang là con người trần tục, đang sinh sống và tu học ngay trong chốn dục giới đầy rẩy nguồn ái lụy kia! Vì vậy, đem những  sự cảm hoài ấy  liên cảm với chư tăng, ni và hang đệ tử Phật tử Tu Viện Phước Hoa – Phước Lạc, trước sự vắng bóng của Cố Hòa Thượng ân sư khả kính nhất của mình, mới biết sẽ chẳng thế nào khác hơn !

Vẫn biết rằng vô thường là như thế, chợt đến rồi chợt đi, chuyện như chẳng còn gì để lưu luyến, tiếc thương. Nhưng mà, phàm chúng ta đang hiện hữu một  thể xác này ở dương trần, sống chung và ngụp lặn trong cõi dục giới bao la; bao la lắm với vô vàn nhưng thương  ghét hờn giận  thay nhau làm đảo lộn  cuộc sống này, thì một sự  tiếc thương  cho một nhân cách từng sống, cống hiến  hết dạ trọn lòng cho Phật đạo âu cũng  đáng để nhớ để thương.

Xem sử sách đó đây, Đông Tây hay kim cổ, có biết bao nhiêu hành trạng của  chư tôn đức để lại cho  đời những trang vàng óng ánh, luôn là bài học ứng giải kịp thời cho hàng hậu tấn kịp lấy đó làm bè pháp cứu sinh và giúp đời khi  sắp  buông thả hay ngả gục  bên cạm bẫy đường mật thế gian. Mới thấm thía sâu sắc làm sao câu tưởng niệm tri ân thường được thấy treo trang trọng trong các Giác Linh Đường  của các vị Tôn sư: Ơn giáo dưỡng một đời nên huệ mạng/ Nghĩa Sư Đồ muôn thuở khó đáp đền.

Thương là để biết mình đang sống có trách nhiệm, nhớ là để thấy  đạo nghĩa Tứ Ân của con nhà Phật lúc nào, ở đâu vẫn phải luôn được giữ gìn. Thương nhớ như vậy nào có sai  biệt chi đâu, hơn nữa cơm Hương Tích, Nước Tào Khê  còn phải rưng rưng đôi dòng lệ trên giác linh đài ngày xa biệt, dù không bằng hương giải thoát còn lung linh bằng cả một quá trình tiến tu, nhọc nhằn trau dồi công hạnh, tất cả đã nhường lại cho đời  bao thành tựu còn lớn lao hơn biết bao nhiêu.

“Vậy mà vui!” bổng chợt nhớ lời cố Hòa Thượng nói khi nào, giờ đem góp lại ký ức mới càng thêm ý nghĩa và nhẹ nhàng làm sao. Đúng là hương vị của giải thoát, không bị ràng buộc hay vướng mắc trần ô. Một làn gió nhẹ, hay một trận mưa rào đầu mùa có làm lá  trong Tu Viện Phước Hoa rơi nhiều  hay có làm hoa kiểng lung lay cũng là để rửa trôi bao phiền muộn để thấm sâu được nguồn ân, để trở thành  hoa trái dâng tặng cho đời lẫn cho đạo. Những  ngày ấy, mùa thu cũng  u buồn, và sau những tháng  mưa ngâu  dầm dề giờ  là để nhặt lá thu rơi, kết thành chuỗi tháng ngày của  5 năm qua luôn tiến tu  trong  ánh nhìn kim cương bất hoại của cố Hòa Thượng còn để lại. Phải rồi: “ Vậy mà vui!”.

"Nay Hòa Thượng không còn nữa, có lẽ rồi đây anh em chúng tôi sẽ phải tự ôn lấy bao lời dạy tốt đẹp của Hòa Thượng, tiếp tục sống và cống hiến trong sự tự chủ, giữ gìn lấy mình "(Trích bài viết đã dẫn “Một dấu lặng yên bình giữa từng nốt nhạc” năm 2015 )

Chiều nay mưa lại rơi, cơn mưa của trình tự thế gian bốn mùa đi và  đến, nhưng sao mà nghe  như có một chút lạnh trong tim! Muốn nắm bắt vô thường để giữ mãi những hình ảnh đáng trân giữ, để tự hào với bản thân rằng  trên đường học đòi chánh pháp, còn có gặp được Cố Hòa Thượng Thích Thông Quả ở bên kia ngõ vắng  của một nền văn nghệ Phật giáo nói hoài vẫn chưa dứt. Chính Cố Hòa thượng đã dang tay níu đỡ cho anh em chúng ta dừng lại đúng lúc, để nhìn lại mình và nhìn lại tất cả. Cố Hòa Thượng chính dấu lặng trong dòng nhạc ồn ào, là như vậy.





Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 8058)
Hòa thượng Khánh Hòa thế danh Lê Khánh Hòa, Pháp danh Như Trí, pháp hiệu Khánh Hòa, sinh năm Mậu Thân (1877) tại làng Phú Lễ, tổng Bảo Trị, quận Ba Tri, tỉnh Bến Tre.
09/04/2013(Xem: 6625)
Hòa thượng Thích Hưng Từ, thế danh Bùi Vạn Anh, sinh ngày mùng 1 tháng 8 năm Tân Hợi ( 1911 ) tại làng Bình Hòa, xã An Dân, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Ngài sinh trong một gia đình có truyền thống đạo Phật. Thân phụ là cụ Bùi Thế Vĩ, pháp danh Như chơn, thân mẫu là cụ bà Võ Thị Biểu, pháp danh là Thị Bửu. Từ nhỏ Ngài được song thân giáo dục trong tinh thần từ bi và chan chứa đức hỷ xả của Phật, nên Ngài sớm mộ cửa Thiền.
09/04/2013(Xem: 6061)
Hòa thượng Huệ Quang, thế danh Nguyễn Văn Ân sing năm 1888 tại Ô Môn, tỉnh Cần Thơ, sau theo mẹ về Trà Vinh. Năm 1902,Ngài xin xuất gia vào chùa Long Thành ở Trà Cú được Hòa thượng Thiện Trí mến thương đặt danh pháp là Thiện Hải. Ngoài giờ học Phật pháp, Ngài lại được Hòa thượng cho học thêm y học.
09/04/2013(Xem: 6290)
Hòa thượng Thích Phúc Hộ, thế danh là Huỳnh Văn Nghĩa, sinh ngày 24 tháng 7 năm Giáp Thìn (1904) đời vua Thành Thái năm thứ 16 tại làng Triều Sơn, xã Xuân Thọ, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên. Song thân của Ngài là cụ ông Huỳnh Trung và cụ bà Trần Thị Nho.
09/04/2013(Xem: 7046)
Chùa Thập Tháp là một trong số các ngôi tổ đình nổi tiếng của đất Bình Định Nếu như ở thời kỳ khởi đầu, ngôi tổ đình ấy được chú ý nhiều vì vị khai sơn là Thiền sư Nguyên Thiều - người có công lớn trong sứ mạng truyền bá Phật giáo ở Đàng Trong thời Nam Bắc phân tranh, hậu bán thế kỷ 17 ; thì vào thời hiện đại, tổ đình Thập Tháp được cả nước biết đến vì sự có mặt của Quốc sư Phước Huệ (1869-1945).
09/04/2013(Xem: 7092)
Ngài đã nêu cao tinh thần Bi, Trí, Dũng phục vụ chúng sinh, cống hiến trọn vẹn đời mình cho sự nghiệp chung của đạo pháp và dân tộc Việt Nam. Hòa thượng Thích Trừng San, pháp tự Minh Hiền, hiệu Hải Tuệ, thế danh Nguyễn San sau đổi là Trần Văn Lâu, nối pháp đời thứ 42 dòng Lâm Tế Liễu Quán. Ngài sinh năm Nhâm Tuất (1922), tại thôn Phú Khánh, xã Diên Thạnh, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Năm lên 8 tuổi, được song thân cho xuất gia học đạo với Hòa thượng Phổ Hiện, tại chùa Khánh Long, Diên Khánh. Sau khi Bổn sư viên tịch, Ngài y chỉ với Hòa thượng Chánh Ký, kế vị trụ trì chùa Khánh Long. Năm 1943 được y chỉ sư gửi đến thọ giáo với Hòa thượng Bích Không, trụ trì chùa Hải Đức (Nha Trang).
09/04/2013(Xem: 9181)
Hòa thượng Giới Nghiêm thế danh là Nguyễn Đình Trấn, sinh ngày 5 tháng 5 năm 1921, tại làng Gia Lê Thượng, xã Thủy Phương, huyện Hương Phú, tỉnh Thừa Thiên - Huế. ngài xuất thân trong một gia đình gồm ba anh em, có tinh thần yêu nước và có truyền thống đạo đức lâu đời. Ông nội là bậc xuất gia, cha là Hòa Thượng Quang Diệu, chú cũng xuất gia, bác là Hòa thượng Phước Duyên.
09/04/2013(Xem: 5829)
Hòa thượng pháp danh Thị An, pháp tự Hành Trụ, pháp hiệu Phước Bình, thuộc dòng Lâm Tế Chúc Thánh đời thứ 42. Ngài thế danh là Lê An, sinh năm 1904 trong một gia đình trung nông tại làng Phương Lưu, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên. Thân phụ là cụ Lê Uyển, thân mẫu là bà Nguyễn Thị Sử. Ông Bà có bốn người con, cả ba người con trai đều xuất gia đầu Phật.
09/04/2013(Xem: 10417)
Hòa thượng pháp hiệu Thích-Thiện-Hòa, thế danh Hứa-Khắc-Lợi sanh năm 1907 tại làng Tân-Nhựt Chợ Lớn. Ngài sinh trong gia đình trung lưu phúc hậu, thân phụ là Hứa-hắc-Tài, thân mẫu là Nguyễn-Thị-Giáp. Gia đình cả thảy bảy anh em : ba nam, bốn nữ, Ngài là người thứ bảy. Vì người thứ tám mất sớm nên Ngài được coi là con út.
09/04/2013(Xem: 5423)
Hòa thượng pháp danh Trí Độ, hiệu Hồng Chân, thế danh Lê Kim Ba, sinh ngày 15 tháng 12 năm 1894 tại thôn Phổ Trạch, xã Kỳ Sơn, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Sinh ra trong một gia đình Nho học, lúc thiếu thời Ngài học chữ Nho và năm 18 tuổi học trường Sư phạm. Vì thế mà sở học rất uyên thâm, thêm lòng mến mộ đạo Phật, Ngài đi sâu vào nghiên cứu giáo lý và trở thành một vị học Phật lỗi lạc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567