Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bóng Hạc Về Tây (Thành kính tưởng niệm HT Thích Đồng Chơn)

14/04/202019:28(Xem: 2978)
Bóng Hạc Về Tây (Thành kính tưởng niệm HT Thích Đồng Chơn)

Giòng sinh diệt miên viễn mãi tuôn về biển cả chân thường, nghiệp thức bốc hơi, làm mây vô định, duyên đủ đầy hiện tướng nhân sinh!.

Giáo sử Phật giáo Việt Nam hàng ngàn năm qua xuất hiện bao nhiêu nhân tài thạch trụ cho ngôi nhà chánh pháp; lưu lại trên sử sách, tồn đọng qua nhân cách hằn sâu trong tâm tư của môn đồ pháp lữ. Những gót chân của các bậc chân đức khai mở Phật pháp phương Nam. Vâng, từ thuở ấy, Trung tâm Luy Lâu nở hoa, ngàn vạn gót sen rải khắp, mở đầu Trúc Lâm chánh giáo; Lâm Tế ẩn mình trong rừng Thiền tâm chứng, qua bao đời Thạch trụ sơn môn “dĩ tâm truyền tâm”, làm giềng mối duy trì Tông pháp. Thạnh suy là áng mây trôi, tán tụ là dòng sinh diệt. Những thời khắc biến tướng, Lâm Tế tông lại mang lông vũ niệm Phật, có đôi lúc biến thành “Ứng phú đạo tràng” để dung nhiếp đối cơ hạ liệt. Thủ thuật la hét đánh đập một thời thịnh vượng, dụng các phương tiện đánh hét của vị khai tổ Lâm Tế Nghĩa Huyền. để sau biến tướng công án thoại đầu. Đến thế kỷ XII, Thiền sư Đại Huệ Tông Cảo – vị Thiền sư xuất sắc nhất thời kỳ này, đã hình thành và phát triển lối tu tập Thiền công án. Thời kỳ nhà Tống ra đời tập công án nổi danh Vô Môn Quan, cũng như tập Bích Nham Lục của Viên Ngộ Khắc Cần và Bức Thập Mục Ngưu Đồ của Khuếch Am Sư Viễn.

Thoại đầu biến thành cương lĩnh của Thiền viện Thiền tông, cứ thế, mỗi giai đoạn, hành giả mỗi biến tấu pháp hành tương thích tự tánh, Lâm Tế chỉ còn là chiếc vỏ truyền thừa của dòng sinh mệnh tông môn. Thiền sư đôi khi là Tịnh độ sư, Tịnh độ sư nâng nghi tình “ai là người niệm Phật” lên thành công án! Nhật Bản cũng thế, Lâm Tế tông chia nhánh cho thích ứng căn cơ đương đại, dẫu sao vẫn còn giữ nguyên chất Lâm Tế khi mà Trung quốc, Việt Nam bị pha loãng giữa dòng liên lũy trùng  phùng. Qua Hàn Quốc  có danh xưng Tào Khê thấp thoáng dáng dấp của “Công án” và “Tịnh độ”, nhưng chưa đánh mất hương vị Thiền chất uyên nguyên để kiến tánh.

Từ thuở tông Lâm Tế được vào Việt Nam truyền giới đàn của các chúa Nguyễn. người truyền bá tư tưởng triết lý Tông Lâm Tế sâu rộng nhất là Thiền sư Minh Hoằng Tử Dung đã sản sinh ra Thiền sư Liễu Quán là một vị Thiền sư xuất sắc và ngộ đạo thông qua việc Tham công án – một hình thức tu tập đặc trưng và cốt lõi của Thiền phái Lâm Tế. Ngoài ra cũng có Thiền sư Thạch Liêm thuộc Tông Tào Động cũng truyền bá và giới thiệu phương pháp Thiền Thoại Đầu, công án.

 Qua bao thế hệ đổi dạng thay hình, dưới mái Thiền môn Phật Việt cũng không còn thuần chất Lâm Tế nguyên thủy, nhưng không vì thế mà sen và súng dị biệt.

                                                 ***

Phật giáo bén rễ sâu vào mãnh đất từ Thuận Hóa vào Nam; Khánh Hòa, Phú Yên, Bình Định, Quảng Nam, Thừa Thiên…mang hình thái đặc thù trong chốn Già Lam, tuyệt nhiên Tông phong Lâm Tế chỉ còn trên danh nghĩa truyền thừa mà môn sinh không còn “kiến tánh” được ấn chứng.

Ấy thế, ai bảo các trưởng tử Như Lai không có nội lực hành trì? Các bậc chân tu, nếu không là cao Tăng thạc đức thì cũng là ánh nhiên đăng tiếp Tăng độ chúng với thân giáo và tâm hành. Bình Định là vùng đất không màu mỡ về kinh tế, nhưng thấm đẫm đức tin tâm linh qua bao đời trầm lắng thịnh suy quốc mệnh. Huế  nổi danh một Báo Quốc, Khánh Hòa có Hải Đức thì Bình Định cũng là nơi cung ứng cho Phật giáo bao Tăng tài uy đức xuất thân từ Nguyên Thiều.

Bình Định từng có một quốc sư Thích Phước Huệ, Hòa thượng Thích Giác Tánh, thì hiện đại thấp thoáng bóng chân sư nghiêm trì luật nghi tỏa uy đức bảo tồn pháp mạch, thị hiện 74 năm hành hóa tiếp dẫn hậu lai, Tăng tài đào tạo; từng là giáo thọ sư  qua bao lớp học Tăng học Ni đương đại. Hậu học tôn kính Hòa thượng thượng Đồng hạ Chơn như một minh sư khả ái. Tên tuổi ngài gắn liền không những vùng trời Bình Định, còn rạng danh vào hàng thạch trụ Phật giáo.


ht dong chon 2

Duyên bồi đắp giáo pháp qua các minh sư, tiếp học lý pháp qua các trường Phật học; chương trình Trung Đẳng Chuyên Khoa Phật Học của Phật Học Đường Phước Huệ tổ chức tại Tổ Đình Thập Tháp Bình Định ngài từng tham cầu; từng vào Nam bồi dưỡng thế học.

Hòa thượng nhận được văn bằng tốt nghiệp Trung Đẳng Chuyên Khoa Phật Học và được trúng tuyển vào Cao Đẳng Phật Học Viện Trung Phần, Hải Đức – Nha Trang tỉnh Khánh Hòa năm 1974. Ngài không ngại xa xôi, tự đạp xe trên 10km đến chùa Long Khánh, Quy Nhơn để cầu kiến những bộ kinh Đại thừa Lăng Nghiêm Trực Chỉ, Lăng Già Tâm Ấn…từ các cao Tăng  bác lãm.

Suốt một đời chuyên tâm tu học và hành trì, Ngài luôn  tâm niệm  lời dạy của cố HT Đổng Minh – người xuất gia khi tuổi còn trẻ, phải dành tất cả cho việc học, lúc tuổi cao hơn, nên để tâm hành trì. Có học và có tu mới hoàn thành con đường xuất gia được, vì thế, bổn phận của người xuất gia là Học cho đến cùng và Tu cho đến chốn.

Qua bao thời khắc thạnh suy của thời cuộc, qua bao gian khó trong ngôi nhà Pháp bảo, ngài không bao giờ bê trễ việc hành trì; thân giáo luôn đồng hành khẩu giáo là gương sáng cho đàn hậu học; hạnh khiêm cung, kính trên nhường dưới phải chăng là hạnh của một cao Tăng! Ngài được truyền trao tinh yếu từ các bậc Cao Tăng Thạc Đức, trong đó có Hòa thượng Huyền Ấn và Hòa thượng Bình Chánh nên Ngài luôn tạo duyên trao truyền Luật Học cho thế hệ Tăng Ni trẻ.

Bản thân đã là thế, nhưng nào quên trọng trách tiếp dẫn hậu lai khi mà cuộc sống còn vây quanh bao “nhiêu khê” bế tắt; dẫn dắt đồ chúng áp dụng nông thiền của Tổ Bá Trượng song hành việc học gia giáo; Thầy Thị Quả và Thầy Đồng Văn là học Tăng đầu tiên của lớp gia giáo, nay hình thành Tăng sai nhận nhiệm vụ trong và ngoài nước. Đây là lúc Ngài tiếp nhận ngôi chùa Bình An sau 1975 đầy gian khó.

Với hạnh nguyện: “Tiếp dẫn hậu lai báo Phật ân đức”, năm 1982, Hòa Thượng nhận hai vị đệ tử xuất gia đầu tiên, ban cho Pháp tự: Giác Hiệp và Giác Quảng. TT. Thích Giác Hiệp đã tốt nghiệp khóa III Trường Cao Cấp Phật Học Việt Nam cơ sở II tại TP. Hồ Chi Minh, Tiến sĩ Phật học tại Đại Học Delhi, Ân Độ năm 2004, hiện đang là Ủy viên HĐTS GHPGVN, Phó trưởng Ban Phật giáo Quốc tế Trung ương, Phó Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Lào Cai, giảng viên Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Thủ đô Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, khai sơn và trụ trì chùa Hiệp Giác TP. Hồ Chí Minh. TT. Thích Giác Quảng hiện là Ủy viên Ban Nghi lễ BTS GHPGVN tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, trụ trì chùa Kim Long, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Có hơn 30 vị đệ tử xuất gia khác của Hòa thượng, như: TT. Thích Giác Khánh, TT. Thích Giác Hiển, ĐĐ. Thích Vạn Hương, ĐĐ. Thích Vạn Nhẫn,  v.v…ngoài ra, rất nhiều đệ tử y chỉ của Hòa thượng đã trưởng thành và hành Đạo khắp nơi trên thế giới, như:  Thượng tọa Thích Vạn Đức – Cộng Hòa Liên Bang Đức, Thượng tọa Thích Giác Tín – Úc Châu, TT. Thích Đồng Phước – Hoa Kỳ, v.v…

Dĩ nhiên, ngoài những đệ tử chân truyền, còn nhiều học Tăng học Ni thành danh cũng từ sự đào tạo tại Nguyên Thiều do Ngài xây dựng trên căn bản luật học. Với Thân Khẩu Ý giáo tròn đầy, đức hạnh thanh cao, Ngài nhiều lần được Giáo Hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Bình Định cung thỉnh vào hàng Thập sư Tôn chứng cho nhiều giới đàn từ năm 2000 đến 2010 tại Bình Định, đặc biệt lên ngôi vị Giáo Thọ A-xà-lê tại Đại Giới Đàn Kế Châu (2013) và Tâm Hoàn (2017), v.v…

                                                              ***

Hạt giống nẩy nở hoa thơm trên mảnh đất khô cằn thế sự. HT Thích Đồng Chơn là một trong vài ánh sao đêm trên nền trời Trung Việt. Chồi hoa cố vươn ra trong những kẽ đất, tuy mỏng manh nhưng dẫu sao cũng góp thêm sắc màu cuộc sống, xác định cho dù thịnh suy, Phật pháp vẫn luôn có sức sống từ những chồi non thầm lặng. Dù dòng Thiền Lâm Tế Nguyên Thiều. Chúc Thánh, Liễu Quán, Gia Phổ, Thiên Thai, Tào Động…pháp mạch có gián đoạn, nhưng tông phong vẫn duy trì truyền thừa nguồn cội. Đạo lực chí nguyện có cao vời cũng không qua khỏi luật vô thường; bản mệnh thân lưu ly như Đức Bổn sư, cũng xuôi theo dòng sinh diệt nhân quả. Hòa thượng cho dù là ánh sáng giữa bầu trời đêm, hàng hậu học cũng phải chịu tâm tang qua những dòng thơ văn tưởng niệm. Lời than ai oán, ái biệt ly khổ vẫn là tiếng dế miên trường của kiếp nhân sinh, khi mà 22 tháng 3 năm 2020 là giờ khắc quyết định kết thúc một kiếp người, nhưng là niềm tin khởi đầu tốt đẹp cho một nhân lành cả đời người chuyên sâu hành trì tác duyên pháp sự của một cao Tăng. Tuy trụ thế 74 năm, hạ lạp 52 mùa Hạ, nhưng dòng sinh diệt miên viễn không thể hạn giới tâm nguyện của một bậc thánh thiện vô ngần. Tuy ngài truyền thừa tông môn Lâm Tế, nhưng thủ đắc luật học đặc thù.

Phật giáo Việt Nam nói chung, môn đồ pháp quyến nói riêng đã mất đi một bậc thạch trụ tòng lâm. Ánh quang trí tuệ của Hòa thượng vẫn được tiếp nối bất tận.

Cư sĩ MINH MẪN

14/4/2020

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 5387)
Hòa thượng pháp danh Trí Độ, hiệu Hồng Chân, thế danh Lê Kim Ba, sinh ngày 15 tháng 12 năm 1894 tại thôn Phổ Trạch, xã Kỳ Sơn, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Sinh ra trong một gia đình Nho học, lúc thiếu thời Ngài học chữ Nho và năm 18 tuổi học trường Sư phạm. Vì thế mà sở học rất uyên thâm, thêm lòng mến mộ đạo Phật, Ngài đi sâu vào nghiên cứu giáo lý và trở thành một vị học Phật lỗi lạc.
09/04/2013(Xem: 5833)
Hòa Thượng pháp danh Thích Tâm Thi, đạo hiệu Tuệ Tạng, thế danh Trần Thanh Thuyên, sinh năm Canh Dần (1889) tại làng Quần Phương Trung, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Thân phụ Ngài là ông Trần Tín tự Phúc Châu, thân mẫu là bà Vũ Thị Tú hiệu Diệu Hòa.
09/04/2013(Xem: 6805)
Hòa thượng Hộ Tông (1893-1981), Maha Thera Vansarakkhita, có thế danh là Lê Văn Giảng, sinhngày 15 tháng 10 năm 1893, tại làng Tân An, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc. Ngài xuất thân trongmột gia đình trung lưu trí thức, thân phụ là ông Lê Văn Như, thân mẫu là bà Đinh Thị Giêng.
09/04/2013(Xem: 5847)
Hòa Thượng họ Nguyễn, Húy Văn Kính, pháp danh Tâm Như, tự Đạo Giám, pháp hiệu Thích Trí Thủ. Ngày sinh ngày 19 tháng 9 năm Kỷ Dậu, tức ngày 01-11-1909 trong một gia đình nho phong thanh bạch, tại làng Trung Kiên, tổng Bích Xa, phủ Triệu Phong (nay là xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong) tỉnh Quảng Trị. Thân phụ là cụ Nguyễn Hưng Nghĩa, thân mẫu là cụ Lê Thị Chiếu. Hai cụ là người rất kính tín Tam Bảo. Vì vậy, dù là con trai độc nhất trong gia đình, lúc 14 tuổi Ngài đã được song thân cho vào học kinh kệ ở chùa Hải Đức Huế.
09/04/2013(Xem: 10225)
Hòa thượng Thích Tâm Giác, thế danh là Trần Văn Mỹ, sinh năm 1917 tại tỉnh Nam Định, thân phụ là cụ ông Trần Văn Quý, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Suôi. Ngài là con trai thứ hai trong gia đình gồm hai trai một gái.
09/04/2013(Xem: 8256)
Hòa thượng húy Trần Thiện Hoa, pháp danh Thiện Hoa, hiệu Hoàn Tuyên, sanh ngày 7-8 năm Mậu Ngọ (1918), tại làng Tân Quy (sau đổi tên là An Phú Tân), quận Cầu Kè, tỉnh Cần Thơ (nay là tỉnh Trà Vinh). Hòa thượng là con út (thứ chín) trong gia đình. Thân phụ Hòa thượng huý Trần Văn Thê, pháp danh Thiện Huệ, thân mẫu húy Nguyễn Thị Sáu, pháp danh Diệu Tịnh. Toàn thể gia đình Hòa thượng đều quy y với tổ Chí Thiền chùa Phi Lai núi Voi, Châu Đốc. Pháp danh Thiện Hoa do Tổ đặt cho Hòa thượng.
09/04/2013(Xem: 13352)
Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang thế danh là Lê Đình Nhàn, sinh năm Canh Thân, ngày 19-9-1920 (tức ngày mồng 8 tháng 8 năm Canh Thân), quê thôn Háo Đức, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Thân phụ là cụ ông Lê Vỵ pháp danh Như Hương, thân mẫu là cụ bà Ngô Thị Tư pháp danh Như Tâm cùng ở làng Háo Đức.
09/04/2013(Xem: 5575)
Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đơøi Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai. Nguyên Hòa Thượng sanh năm 1914 (Giáp dần), tại thôn Tịnh Bình, xã Nhơn Hạnh, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Ðịnh, trong gia đình Lê gia thế phiệt, vốn dòng môn phong Nho giáo, đời đời thâm tín Tam Bảo, tôn sùng Ðạo Phật. Thân phụ là cụ ông LÊ PHÚNG, pháp danh NHƯ KINH, thân mẫu cụ bà TỪ THỊ HỮU, pháp danh NHƯ BẰNG, đức mẫu là cụ bà NGUYỄN THỊ CƠ, pháp danh NHƯ DUYÊN.
09/04/2013(Xem: 13349)
HT Thích Giác Trí, húy Nguyên Quán, phương trượng chùa Long Hoa, quận Phù Cát - Bình Định, tuổi Mậu Thìn 1928, năm nay 80 tuổi. Năm 13 tuổi Ngài xuất gia với Đại sư Huyền Giác, là Trụ trì tổ đình Tịnh Lâm Phù Cát. HT Mật Hiển 1907-1992 chùa Trúc Lâm, Huế, thọ giới Tỳ kheo tại đây năm 1935, giới đàn do HT Huyền Giác thành lập, thỉnh Tổ quốc sư Phước Huệ làm Đàn Đầu Hòa Thượng.
09/04/2013(Xem: 6352)
Bác Phạm Đăng Siêu sinh ngày 4 tháng 7 năm Nhâm tý (1912) tại Phú Hòa, kinh đô Phú Xuân, thành phố Huế. Nguyên quán thôn Tân Niên Đông, huyện Tân Hòa, phủ Tân Định, tỉnh Gò Công. Song thân Bác là cụ ông Phạm Đăng Nghiệp và cụ bà Tôn Nữ Thị Uyên, thuộc gia đình quý tộc giàu có.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567