Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ôn Trí Quang

22/02/202019:52(Xem: 4934)
Ôn Trí Quang

ht tri quang 1923-2019

Ôn Trí Quang

Kính Bạch Giác Linh Đại Lão Hòa Thượng,

Cho phép con tôn xưng Cố Đại Lão Hòa Thượng thượng Trí hạ Quang là Ôn, vừa tôn kính, đạo vị, vừa gần gũi thiền môn xứ Huế. Cũng xin tôn xưng Ôn là Ân Sư vì được thọ hưởng ân đức giáo huấn qua Kinh, sách và thân giáo của Ôn cho Đời, cho Đạo Pháp và Dân Tộc. “Nhất tự vi Sư, bán tự vi Sư”, huống chi Kinh, sách, Sám Pháp, Giới Luật do Ôn phiên dịch, chú giải và trước tác lớn lao như núi và rộng sâu như biển, không những soi sáng cho đời này mà còn đóng góp công đức cùng đông tây kim cổ lịch đại Pháp Sư.

Con là cựu Sĩ Quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH). Theo thăng trầm vận nước, con vào tù “cải tạo” 5 năm rưỡi, rồi trở về làm “phó” thường dân cuối năm 1981. Ban ngày làm đủ nghề kiếm sống cho bản thân và ba mẹ già yếu: làm ruộng, bán lá nón, bán vị tâm xì dầu, đạp xe thồ v.v…, ban đêm ngồi đọc Kinh, sách dưới ngọn đèn dầu. Trong những ngày gian khổ cùng cực ấy, tác phẩm “Ngài La Thập” của Ôn đã soi sáng và giúp con lướt qua nghịch cảnh, nhất là ý nghĩa nghịch hành Pháp Hoa qua phẩm Đề Bà Đạt Đa. Con đã thành tâm chép tay Kinh Dược Sư, Từ Bi Thủy Sám Pháp và cùng quý đạo hữu lễ lạy Lương Hoàng Sám Pháp do Ôn dịch.

Nhớ năm 1963, con lên dự lễ Phật Đản tại chùa Từ Đàm Rằm tháng Tư âm lịch. Như thường lệ, từ sáng sớm, Chư Tôn Thiền Đức Tăng Ni cùng rất đông đạo hữu, Gia Đình Phật Tử rước Phật Sơ Sinh từ chùa Diệu Đế, qua thành phố Huế hướng về Từ Đàm. Chùa Từ Đàm vừa là trụ sở Tỉnh Hội, vừa là văn phòng Tổng Hội Phật Giáo Miền Trung. Buổi lễ trang nghiêm thanh tịnh vừa hoàn tất thì đột nhiên, hàng chục biểu ngữ và cờ Phật giáo giương cao giữa rừng người đông nghẹt cả sân chùa và các con đường quanh chùa trong im lặng tuyệt đối! Với tư cách Hội Trưởng Tổng Trị Sự Hội Phật Giáo Miền Trung, Ôn đứng trên khán đài, thông báo rằng chiều hôm qua, nhiều chùa, tự viện, tư gia trong thành phố Huế, quyền môn bị giựt sập, nhiều cờ, đèn bị xé, bị đạp, và lệnh cấm treo cờ Phật Giáo trong ngày đại lễ Phật đản đã được chính quyền ban hành. Thay mặt toàn thể Phật tử, Ôn đọc lên từng câu biểu ngữ với lời giải thích rõ ràng, trong đó con nhớ nhất là câu: cờ Phật Giáo Quốc Tế không bao giờ bị triệt hạ. Rồi Ôn thông báo là nội dung buổi lễ Phật Đản sáng nay sẽ được truyền thanh lại tại đài phát thanh Huế như mọi năm và khuyên mọi người bình tỉnh ra về.

Tối hôm đó, nhiều Phật tử kéo đến đài phát thanh nghe phát bản tin, nhưng đài phát thanh Huế có lệnh không được phát thanh chương trình Phật đản như đã phổ biến, và rồi xảy ra đàn áp đẩm máu do Thiếu Tá Đặng Sĩ chỉ huy làm tám thiếu niên nam nữ tử nạn, về sau được tôn xưng là Thánh Tử Đạo Phật Giáo Việt Nam. Trong số tám em tử nạn oan khuất nầy, có người cháu gọi con bằng chú là Trần Thị Yến, nhưng ba cháu tử trận sớm, mẹ tái giá với người họ Nguyễn nên đổi tên cháu là Nguyễn Thị Yến.

Trong bút ký “Sáu Tháng Pháp Nạn 1963”, Cựu Bộ Trưởng Ngoại Giao Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) Vũ Văn Mẫu đã đưa ra chứng từ của ông Trần Hữu Thế, nguyên Bộ Trưởng Giáo Dục VNCH, về trách nhiệm của Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục như sau: “Chính tối hôm Phật đản cũng đã có một bữa tiệc tại nhà Ngô Đình Cẩn với sự hiện diện của Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục, một số bộ trưởng và nhiều nhân vật cao cấp trong chính phủ. Đang giữa bữa ăn thì Tỉnh Trưởng Nguyễn Văn Đẳng và Phó Tỉnh Trưởng Đặng Sĩ hốt hoảng xin vào trình bày tình hình rất căng thẳng vì mấy ngàn Phật tử đang tụ họp trước Đài phát thanh. Vì phụ trách các vấn đề an ninh, Thiếu Tá Đặng Sĩ xin chỉ thị để đối phó. Ngô Đình Cẩn ngồi yên không nói gì, hay không muốn nói có lẽ vì đã đoán trước được ý kiến của ông anh Ngô Đình Thục thế nào cũng chống đối thái độ hòa hoãn của ông ta trong vụ này. Sau báo cáo của Đặng Sĩ, Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục đang ăn bổng ngưng lại, giơ tay ra hiệu cho Thiếu Tá Đặng Sĩ “Dẹp…!”. Tỉnh Trưởng và Phó Tỉnh Trưởng lãnh chỉ thị lui ra. Sau đó thì các sự việc xảy ra như Bác Sĩ Erich Wulff đã tường thuật rõ ràng các điều mắt thấy tai nghe tại chỗ” (tr.215-216). Kính mời đọc trang web https://thuvienhoasen.org/p60a16562/17-gioi-thieu-sach-sau-thang-phap-nan-1963-cua-minh-khong-vu-van-mau-minh-nguyen

Hồi ký “Lễ Phật Đản 8/5/1963 Tại Huế” của Bác Sĩ Erich Wulff dạy tại Đại Học Y Khoa Huế 1961-1967 trong khuôn khổ viện trợ giáo dục của Tây Đức kể (Minh Nguyện dịch): “Trong khuôn viên của Đài phát thanh Huế, một đám đông quần chúng khoảng 6000 người đã tụ tập chờ nghe phát thanh lại buổi lễ Phật Đản sáng hôm nay tại chùa Từ Đàm. Sau đó có một tin đồn miệng nói rằng buổi phát thanh đã bị cấm vào phút chót và quý Thầy đang thương lượng. Thình lình có một đoàn xe chạy lại. ‘Chúng ta cám ơn vị Tỉnh Trưởng đã đến với chúng ta, yêu cầu đồng bào nhường chỗ’, đó là giọng nói Thầy Thích Trí Quang truyền qua loa phóng thanh. Dưới tràng pháo tay, Ông Tỉnh Trưởng tìm một lối đi giữa đám đông với vị Sư vào trong tòa nhà.

Vài phút sau đó có năm xe thiết giáp xuất hiện. Một chiếc tìm cách đi thẳng vào trong khuôn viên Đài phát thanh. Tôi và người thông dịch là Tý tìm cách vượt qua hàng rào của Đài ra ngoài. Hàng trăm người cũng cảm thấy tình hình trở nên đáng lo ngại nên tìm cách chạy ra khỏi cổng. Một xe chữa lửa đang xịt nước lên đám đông đang thưa dần. Và rồi những phát đạn đầu tiên được bắn ra từ nòng súng ca nông của xe thiết giáp; có khoảng 10 phát súng nổ kêu vang và khô khan. Tôi nhìn thấy rõ ràng đầu ngọn lửa phát ra từ họng súng của hai chiếc xe án ngự nơi đầu cầu Trường Tiền. Sau tiếng súng là một chập yên lặng. Rồi một loạt súng trường bắt đầu nhả đạn. Một chiếc xe thiết giáp bắt đầu tìm cách phân tán những đám nhỏ người trên sân.

Chúng tôi tìm cách trốn đi, rồi đến bệnh viện Trung Ương Huế. Tại nhà xác, chúng tôi thấy có bảy thân người đầy máu me được đặt trên ba bàn khám nghiệm bằng đá. Từ chân đến ngực thân thể họ còn nguyên vẹn. Nhưng năm cái xác - tất cả là trẻ em - thì không còn đầu. Nơi một người phụ nữ thì có những vết đạn bắn vào cánh tay, vai và cổ. Các xe thiết giáp đã bắn nát đầu các em thiếu nhi. Cha mẹ của những người tử nạn thút thít khóc.

Khi về đến cư xá giáo sư đại học, tôi vội đến căn phòng của gia đình Giáo Sư Krainick. Tình cờ lúc đó bà Krainick đang đọc vào máy ghi âm bức thư gia đình hỏi thăm các người con. Trong khi hốt hoảng lúc bà và ông chồng nghe tôi kể lại những biến cố vừa xảy ra, bà đã quên tắt máy. Do đó có được lời tường thuật đầu tiên ghi lại chỉ không đầy một giờ đồng hồ sau các biến cố trên. Cuộn băng nhựa ghi âm này đã được dùng làm bằng cớ vào tháng 9/1963 trước Ủy Ban Việt Nam của Liên Hiệp Quốc, kèm theo với lời khai danh dự chứng thật nguyên bản của Giáo Sư Krainick. https://thuvienhoasen.org/a5252/le-phat-dan-8-5-1963-tai-hue

Ôn trở thành người đứng mũi chịu sào trong Pháp nạn Phật Giáo 1963. Thật sự, Ôn chỉ là người đại diện cho Chư Tôn Hòa Thượng, Chư Thượng Tọa, Đại Đức Tăng Ni và toàn thể Phật Giáo đồ cùng nhất tề đứng lên tranh đấu cho tự do và bình đẳng tôn giáo. Nếu một Thầy nào khác đứng vào cương vị của Ôn cũng hành động như vậy thôi. Công điện bất công của Chính phủ cấm treo cờ Phật giáo vào đại lễ Phật Đản và sự kiện thảm khốc tại đài phát thanh Huế chỉ là giọt nước làm tràn ly nước đã đầy.

Trong đêm dài tăm tối của lịch sử Việt Nam dưới sự đô hộ của thực dân Pháp, nhiều ngôi chùa bị chiếm đoạt làm nhà thờ Thiên Chúa giáo, Tăng Ni, Phật tử bị đàn áp, bức hại. Như chùa Lá Vằng tỉnh Quảng Trị, nơi Bồ Tát Quán Thế Âm nhiều lần thị hiện cứu người bệnh nặng. Chùa Lá Vằng xây dựng bên cạnh cây đa có từ thời vua Minh Mạng, vậy mà các con chiên Thiên Chúa giáo đã chiếm cứ và biến ngôi chùa thành nhà thờ Đức Mẹ La Vang ngày nay! https://sachhiem.net/TONGIAO/TOAKHAM/ThichChonTe.php

Nền đạo lý cổ truyền của dân tộc, qua hơn 2000 năm đồng lao cộng khổ với quê hương đất nước, đã góp phần xứng đáng vào công cuộc đánh thắng giặc Tàu Hán, Tống, Nguyên, Minh, Thanh, bảo vệ non sông gấm vóc cũng như xây dựng nền văn hóa Đại Việt hùng mạnh qua các triều đại Hùng Vương, Trưng Vương, nhà Lý, Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn. Nền đạo lý cổ truyền đó chính là Phật giáo Việt Nam nhưng bị thực dân Pháp ép Vua Bảo Đại ban hành Đạo Dụ số 10, đặt pháp lý Phật giáo ngang hàng với các hội đá banh, hội đua ngựa, trong khi Thiên Chúa giáo thì ưu tiên ngoại lệ!

Theo luận án Tiến Sĩ Quốc Gia tại Pháp “Giáo Sĩ Thừa Sai và Chính Sách Thuộc Địa Pháp Tại Việt Nam” của  Giáo Sư Cao Huy Thuần (Nguyên Thuận dịch), trước sức chống trả mãnh liệt và bền bỉ của quân dân Việt Nam đã gây cho Pháp nhiều tổn thất nặng nề về nhân mạng và quân phí, Vua Napoléon III và triều thần đã định từ bỏ tham vọng xâm chiếm Việt Nam. Thế nhưng, nhiều Linh Mục lợi dụng việc truyền đạo để thu lượm tin tức tình báo gởi về Pháp khẩn nài Napoléon III đem quân sang đánh nước ta. Ví dụ văn thư của Linh Mục Huc trình bày ba mối lợi mà việc chiếm Việt Nam có thể mang lại cho Pháp:

- “Lợi về chiến lược: Đà Nẵng nằm trong tay người Pháp sẽ là một hải cảng không ai tấn công nổi và là cứ điểm quan trọng nhất để chế ngự Bắc Á.

- Lợi về kinh tế và thương mại: Lãnh thổ mầu mỡ có thể sánh được với các vùng nhiệt đới giàu có nhất. Các sản phẩm chính hiện có là đường, gạo, gỗ xây dựng, ngà voi; sau hết là vàng và bạc mà các mỏ rất phong phú đã được khai thác từ lâu.

Lợi về tôn giáo: Dân chúng hiền hòa, cần mẫn, rất dễ dãi đối với việc truyền bá đức tin Gia Tô. Chỉ cần một ít thời gian là có thể cải hóa toàn bộ thành tín đồ Gia Tô và con dân trung thành với Pháp. Mặt khác, việc chiếm đóng xứ này là việc dễ nhất trên đời, không tốn kém gì cả cho nước Pháp” (Trang 26)!

 

Linh Mục Legrand de la Liraye tiết lộ bí mật quân sự nước ta“Quân đội thiếu tổ chức và khí giới, họ không biết dùng đại bác và súng, chỉ có một số rất hiếm là có khả năng sử dụng. Quân đội đó có khoảng 60.000 hay 70.000 người cho toàn xứ, không thể tập hợp tại một địa điểm quá số 10.000 hay 15.000 tinh binh, mà theo ý tôi, kỹ thuật chiến đấu và lòng can đảm không thể chống nổi một trung đoàn Pháp. Sau hết: Thành lũy bị hư nát, chỉ còn các lũy tre bao bọc thành phố và làng mạc là còn đáng ngại đôi chút, nhưng với các chất liệu dễ cháy đó, không có gì khó khăn cho việc chiến thắng. Kết luận: trái đã quá chín rồi, không thể không rụng; lạy Chúa đừng để nó rơi vào tay người Anh! Mọi người, tôi nói là vua quan, dân chúng, con chiên sốt ruột, mong đợi từng ngày được thấy tàu chiến của chúng ta đến dùng súng đại bác đòi hỏi những quyền lợi mà hiệp ước 1787 đã dành cho Pháp” (trang 30). https://sachvui.com/sachvui-686868666888/ebooks/2018/pdf/Sachvui.Com-giao-si-thua-sai-va-chinh-sach-thuoc-dia-cua-phap-tai-viet-nam-1857-1914--cao-huy-thuan.pdf

Than ôi, nếu không có những tên chỉ điểm đội lốt Linh Mục như vậy thì biết đâu Pháp đã không xâm chiếm nước ta, và nội chiến Quốc Cộng đã không có cơ hội bùng nổ, và hằng triệu con dân Việt Nam khỏi phải chết oan uổng, và Việt Nam đã trở thành một con rồng Đông Nam Á từ lâu!!!

Sau khi được Hồng Y Spellman vận động với Mỹ (đang thay thế vai trò của Pháp tại Việt Nam), Ông Ngô Đình Diệm được bổ nhiệm Thủ Tướng dưới quyền Quốc Trưởng Bảo Đại. Một năm sau, Ông Diệm tổ chức trưng cầu dân ý với lời hướng dẫn “xanh bỏ giỏ, đỏ bỏ bì”, truất phế Bảo Đại để Ông Diệm lên làm Tổng Thống. Dưới áp lực của người anh là Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục nuôi tham vọng làm Hồng Y, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã áp đặt nền thống trị của Thiên Chúa giáo ngay từ trong Hiến Pháp VNCH.

Trong bài “Sự Thiên Vị Thiên Chúa Giáo Về Phương Diện Pháp Lý”, Ông Vũ Văn Mẫu nhận xét: Lời Nói Đầu Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa đã minh định ‘hoàn thành sứ mạng của đấng Tạo Hóa’. Đoạn văn nầy đã tạo cho Thiên Chúa giáo một địa vị ưu đãi đặc biệt tại Việt Nam vì Hiến Pháp 1956 nói rõ là nhằm mục đích hoàn thành sứ mạng trước Chúa tức là Đấng Tạo Hóa đã tạo dựng ra trời đất và vạn vật theo như Thánh Kinh  của Thiên Chúa giáo đã chép” (trang 122).

Tuy Hiến Pháp 1956 ghi là bình đẳng tôn giáo nhưng ngược lại, Đạo Dụ số 10 vẫn được áp dụng là ưu tiên cho Thiên Chúa giáo! Đau đớn nhất là hằng ngàn vụ hành hung, đàn áp Phật Tử và hàng trăm người bị đánh chết dã man tại các khu dinh điền do các con chiên gây ra; ngày giờ, địa điểm, người gây tội, người bị hại đều có hồ sơ cụ thể và đã được Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam gởi đến Liên Hiệp Quốc năm 1963.

Cuốn sách Phật Giáo Tranh Đấu best seller tại Việt Nam của nhà báo Quốc Oai (Thanh Thương Hoàng, Tổng Thư Ký nhật báo Chính Luận) dẫn chứng: “Ngày 12/12/1961, Hội Đồng xã Sơn Trung, tỉnh Quảng Ngãi, tổ chức lớp học về thuyết Duy Linh trong 4 ngày tại thôn Hà Nhai. Sau khóa học tập chính quyền địa phương đã bắt buộc các Phật tử phải bỏ Phật giáo và ký giấy theo Thiên Chúa giáo. Đơn thưa của Ban Trị Sự Khuôn Hội Phật Giáo Hòa Vĩnh, tỉnh Phú Yên, ngày 27/11/1961 v/v chính quyền địa phương đã bắt cóc thủ tiêu, bắt giam trái phép, thu thẻ kiểm tra ép buộc theo Thiên Chúa giáo 8 hội viên, trong đó bà Hà Thị Voi bị cán bộ tư pháp xã là Võ Xuân Chính vu cho là Việt Cộng và bắt ép theo Thiên Chúa giáo mới toàn mạng sống v.v… Trên đây là hồ sơ đại cương của 21 vụ trong số 50 vụ của 3 tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên từ năm 1960-1961, còn những năm về sau chưa kể tới”. https://thuvienhoasen.org/a12808/cuon-sach-bi-bo-quen-phat-giao-tranh-dau-dao-van-binh

Trước thảm cảnh đau thương như vậy nhưng mục đích cuộc tranh đấu của Phật Giáo năm1963 chỉ là đòi bình đẳng tôn giáo, bất bạo động, và, chỉ giới hạn trong 5 nguyện vọng:

1. Yêu cầu Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa thu hồi vĩnh viễn công điện triệt hạ giáo kỳ của Phật giáo.

2. Yêu cầu Phật giáo được hưởng một chế độ đặc biệt như các Hội Truyền giáo Thiên Chúa

3. Yêu cầu Chính Phủ chấm dứt tình trạng bắt bớ, khủng bố tín đồ Phật giáo.

5. Yêu cầu Chính Phủ đền bồi một cách xứng đáng cho những kẻ bị giết oan vô tội, và kẻ chủ mưu giết hại phải bị xét xử đúng mức.

 

Chiều 21/5/1963 quý Đại Lão Hòa Thượng chùa Tây Thiên, Thiền Tôn, Từ Hiếu, Vạn Phước, Tường Vân, Châu Lâm, Trúc Lâm cùng chư Tôn Thiền Đức Tăng Ni và Phật tử tại Huế đã đi bộ từ chùa Từ Đàm đến tòa hành chánh tỉnh để trao kiến nghị 5 điểm trên đây đến Ông Tỉnh Trưởng, nhờ đệ trình lên Tổng Thống.

 

 

Cuộc vận động cho 5 nguyện vọng trên đây của Phật giáo đã được đồng bào các giới, giáo sư, sinh viên, học sinh ủng hộ và lan rộng nhanh chóng đến Sài Gòn và các tỉnh, thành phố, mặc cho dùi cui, dây kẽm gai, lựu đạn cay, súng bắn đạn thật, và đàn áp khốc liệt của cảnh sát và quân đội. Tại Sài Gòn, Ủy Ban Liên Phái Phật Giáo được thành lập do Ôn Tâm Châu làm Chủ Tịch, Ôn Thiện Hoa là Phó Chủ Tịch, Cụ Mai Thọ Truyền làm Tổng Thư Ký, Ôn Đức Nghiệp là Phát Ngôn Viên.

Ngày 11/6/1963, Hòa Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu ngay tại Thủ Đô Sài Gòn. Trước khi tự thiêu, Hòa Thượng để lại di bút rất nhẹ nhàng:

                                         Lời Nguyện Tâm Huyết
Con là Tỳ Kheo Thích Quảng Đức, trụ trì chùa Quan Thế Âm, Phú Nhuận, Gia Định. Nhận thấy Phật giáo nước nhà đang lúc nghiêng ngửa, con là một tu sĩ mệnh danh là Trưởng tử của Như Lai không lẽ cứ ngồi điềm nhiên toạ thị để cho Phật giáo tiêu vong, nên con vui lòng phát nguyện thiêu thân giả tạm này cúng dường chư Phật để hồi hướng công đức bảo tồn Phật giáo. Mong ơn mười phương chư Phật, chư Đại Đức, Tăng Ni chứng minh cho con đạt thành ý nguyện sau đây:

  1. Mong ơn Phật Tổ gia hộ cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm sáng suốt chấp nhận năm nguyện vọng tối thiểu của Phật giáo Việt Nam ghi trong bản tuyên cáo.
  2. Nhờ ơn Phật từ bi gia hộ cho Phật giáo Việt Nam được trường tồn bất diệt.
  3. Mong nhờ hồng ân đức Phật gia hộ cho chư Đại Đức, Tăng Ni, Phật tử Việt Nam tránh khỏi nạn khủng bố, bắt bớ, giam cầm của kẻ ác.
  4. Cầu nguyện cho đất nước thanh bình, quốc dân an lạc.


Trước khi nhắm mắt về cảnh Phật, con trân trọng kính gởi lời cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm nên lấy lòng bác ái từ bi đối với Quốc dân và thi hành chính sách bình đẳng tôn giáo để giữ vững nước nhà muôn thuở. Con thiết tha kêu gọi chư Đại Đức, Tăng Ni, Phật tử nên đoàn kết nhất trí hy sinh để bảo tồn Phật Pháp.
Nam Mô A Di Đà Phật.

 

Làm tại chùa Ấn Quang ngày bốn tháng sáu năm một ngàn chín trăm sáu mươi ba.

Tỳ Kheo Thích Quảng Đức

 

Hình ảnh tự thiêu của Hòa Thượng Quảng Đức nhanh chóng truyền khắp thế giới và gây xúc động lớn. Không những thế còn có sáu Tăng Ni khác cũng lần lượt tự thiêu cúng dường Phật Pháp là quý Thầy Tiêu Diêu, Thiện Mỹ, Nguyên Hương, Thanh Tuệ, Quảng Hương, Ni Cô Diệu Quang, trong đó Thầy Quảng Hương bị chính quyền cướp mất xác.

Trước phong trào đòi tự do và bình đẳng tôn giáo vang dội khắp thế giới đó, Tổng Thống Diệm lại theo mưu kế của Ngô Đình Nhu làm một việc hoàn toàn thất nhân tâm là tổng tấn công tất cả chùa chiền toàn miền Nam vào đêm 20/8/1963. Quân đội, vốn để đánh giặc và hộ quốc an dân, lại được huy động để chĩa lưỡi lê và mũi súng vào ngực Chư Tôn Hòa Thượng, Chư Thượng Tọa, Đại Đức Tăng Ni, bắt đưa hai tay lên trời đầu hàng rồi áp tải ra xe bịt bùng chở đi, không biết đi đâu. Một khi chính quyền đã xem toàn thể Chư Tôn Thiền Đức Tăng Ni là kẻ thù thì còn ai nữa để làm giềng mối đạo đức cho dân tộc? Không lẽ 10% dân số Thiên Chúa giáo có thể đè đầu cưỡi cổ mãi được 80% dân số Phật giáo sao?

Linh Mục Cao Văn Luận, Viện Trưởng Viện Đại Học Huế, nói với Tổng Thống Diệm: “Trước khi Cụ về, số giáo dân chỉ vài trăm ngàn, nhờ phong trào di cư, có thêm một triệu giáo dân từ Bắc vào. Tỷ lệ Công giáo trong toàn quốc vẫn là thiểu số, mà nay Tổng Thống và các chức vụ lớn trong chính quyền đều do người Công giáo đảm trách. Mặt khác, ai cũng thấy từ khi Cụ cầm quyền, thì nhà thờ mọc lên khắp nơi, các nhà thờ bị phá hủy trong chiến tranh đã được tái thiết gần hết, cả những nơi không có giáo dân bao nhiêu cũng có nhà thờ đồ sộ. Số người theo đạo mới cũng tăng lên nhanh chóng’’ (Bên Giòng Lịch Sử, trang 318, Nhà xuất bản Trí Dũng, Sài Gòn, 1972).

Tác phẩm “Thập Giá và Lưỡi Gươm” Chương III, Mục 1 của Linh Mục Trần Tam Tỉnh ghi nhận: “Từ năm 1955 đến 1963 là thời vàng son của chủ nghĩa cha chú. 90% công chúng lại bị kìm hãm dưới một thứ ‘chính phủ Công giáo’. Ở thành thị cũng như nông thôn, chiếc áo chùng thâm là biểu tượng của quyền thế. Tại các vùng di cư, cha xứ là toàn quyền, là những ông vua tuyệt đối. Giám Mục Ngô Đình Thục cũng phải thừa nhận những chuyện hà lạm của các nhà độc tài áo đen. Ông viết trong một lá thư gởi cho bạn: ‘Người ta có cả trăm hồ sơ tố cáo các Linh Mục ăn cắp tiền của di cư bằng những danh sách ma, bằng cách tẩy xóa sổ sách, bằng cách thu xếp để chiếm đoạt tiền bạc của chương trình cải cách ruộng đất, hoặc bán hàng viện trợ Mỹ, hay là giữ tiêu riêng các khoản tiền họ nhận để xây dựng nhà ở cho bà con di cư’.

Các Linh Mục, Giám Mục lợi dụng hằng chục triệu dollars viện trợ của Hoa Kỳ giúp các trung tâm di cư, dinh điền để lôi kéo sinh viên, học sinh, cô nhi, bệnh nhân, người nghèo cải đạo theo ngạn ngôn đã có từ thời Pháp: ‘theo đạo lấy gạo mà ăn’. Phong trào theo đạo đó chấm dứt với năm 1963, ngay khi Tổng Thống Diệm bị lật đổ.

Tòa Tổng Giám Mục, nơi Ngô Đình Thục ngự trị, trở thành một loại phòng ngoài của dinh Tổng Thống. Bộ Trưởng, Dân Biểu, Tỉnh Trưởng, Tướng Tá lũ lượt sắp hàng vào hầu đức Cha. Trong một miền Nam chỉ có 10% là Công giáo, mà tại Quốc Hội có tới 30% dân biểu Công giáo, với 3 vị Chủ Tịch Quốc Hội liên tiếp là Công giáo. Trong bộ máy hành chánh, có 23 trên 32 Tỉnh Trưởng là Công giáo. Trong chính phủ thì 4 trong số 12 Bộ Trưởng là Công giáo và trong quân đội 3 trong số 16 Tướng lãnh là Công giáo! http://hoangnamgiao.blogspot.com/2016/11/lm-tran-tam-tinh-phe-phan-che-o-ngo-inh.html

Thiếu Tá Ph cư ngụ tại Sacramento, California, thường kể: Lúc Ông làm Trung Úy Đại Đội Trưởng mà quyền hành không bằng viên Thượng Sĩ Thường Vụ Đại Đội vì viên Thượng Sĩ là Cần Lao Nhân Vị! Anh ruột con là Trung Sĩ Tý, Trưởng Ban Quân Xa thiết đoàn 17 đóng tại Quảng Trị. Cấp số Trưởng Ban là một Sĩ Quan, và Thiết Đoàn Trưởng đã nhiều lần đề nghị cũng như bằng cấp chuyên môn anh Tý đều có thừa, nhưng vẫn không thăng lên được Trung Sĩ Nhất suốt 9 năm trời “vì mang tội”: vận động xây dựng Niệm Phật Đường cho quân nhân Phật tử tại cây số 17!

Trong tác phẩm “Nhận Xét Về Hiến Pháp Đệ Nhất Cộng Hòa”, Giáo Sư Nguyễn Văn Bông, Viện Trưởng Viện Quốc Gia Hành Chánh viết: “Một sự tập trung quá mức quyền hành cùng sự thủ tiêu đối lập và sự hiện diện của một chính đảng duy nhất (đảng Cần Lao) đã đưa chế độ Ngô Đình Diệm lần lần đi đến một chế độ quyền hành cá nhân áp dụng những phương tiện chuyên chế mà tiếng súng ngày 1/11/1963 đã đưa vào dĩ vãng”. https://thuvienhoasen.org/a16502/1-nhan-xet-ve-hien-phap-de-nhat-cong-hoa-nguyen-van-bong

Cựu Bộ Trưởng Ngoại Giao VNCH Vũ Văn Mẫu đã cạo đầu và từ chức Bộ Trưởng phản đối cuộc tấn công chùa chiền đêm 20/8/1963, đã tổng kết trong “Sáu Tháng Pháp Nạn 1963: “Ba nhân tố chính yếu đã đưa chế độ đến sự suy tàn:

1. Ngô Đình Diệm đã quá nhu nhược trước các hành động thao túng của gia đình, từ Ngô Đình Thục đến vợ chồng Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Cẩn, dung túng gia đình lạm dụng quyền thế, bóc lột tài nguyên quốc gia, đàn áp tàn bạo những phần tử yêu nước phản đối các hành vi bất chính.

2. Ngô Đình Thục quá thiết tha với tham vọng làm Hồng Y giáo chủ và mang ảo vọng muốn biến Việt Nam thành một nước hoàn toàn theo Thiên Chúa giáo.

3. Vợ chồng Ngô Đình Nhu nung nấu tham vọng kế vị Ngô Đình Diệm và không sờn lòng lùi bước trước bất cứ hành vi và mưu kế tàn bạo nào để thực hiện cho được mưu đồ ấy”.

 

Sau cách mạng 1/11/1963, 10 tập đoàn Tăng Sĩ và cư sĩ Phật giáo mới có thể ngồi lại với nhau để thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN). Ôn Trí Quang chấp bút viết Lời Mở Đầu dự thảo Hiến Chương Giáo Hội: “Công bố lý tưởng hòa bình, Phật giáo không đặt sự tồn tại của mình ngoài sự tồn tại của dân tộc”. GHPGVNTN được cầm đầu bởi chức vụ Tăng Thống, tước hiệu có từ thời đại Đinh, Lê, tương đương tước hiệu Tăng Cang từ đời vua Minh Mạng. Giáo Hội có hai viện: Tăng Thống và Hóa Đạo, lãnh đạo tất cả Tăng Ni và tín đồ Phật giáo Việt Nam. Ôn giữ chức vụ Chánh Thư Ký viện Tăng Thống là thật sự muốn ẩn mình để tiếp tục dịch giải Kinh sách vốn là tâm chí đích thực của Ôn. Khi Hiến Chương GHPGVNTN gởi đến bộ Nội Vụ phê chuẩn lại bị từ chối vì Đạo Dụ số 10! Lúc ấy Quốc Trưởng Dương Văn Minh phải ký Sắc Lệnh hủy bỏ Đạo Dụ số 10, từ ấy pháp lý của Phật giáo cũng như các tôn giáo khác mới được cởi trói.

Trong “Trí Quang Tự Truyện”, Ôn viết: “Nhưng tôi chữa lửa mà bị cho là đốt nhà. Bao nhiêu chuyện xảy ra ở Huế cũng như ở Sài Gòn, do các ông Tướng ai cũng thấy mình có thể làm nên chuyện. Quần chúng Phật giáo bị cuốn hút là vì ‘giữa đường thấy chuyện bất bình mà tha’, nên bị lợi dụng có khi thật phiền” (trang 199).

“Bằng cuộc vận động cho Quốc Hội Lập Hiến năm 1966, tôi mong quần chúng có cơ cấu sinh hoạt chính trị, Phật giáo có thể rút mình ra. Trong khuôn khổ của sự ‘dẹp loạn’, có một màn có thể nói là khó nói: Một đoàn chiến xa và thiết giáp khá hùng hậu, được điều động từ Quảng Trị vào Huế. Khi sắp qua cầu An Hòa, viên sĩ quan ra lệnh ngừng lại để anh đi thám sát đã. Anh đến chùa của khuôn hội Phật giáo Phú Thạnh, miệng hét, tay làm, hối thúc Phật tử khuôn hội, có anh phụ lực, khiêng bàn Phật ra đặt giữa đường, lại thúc hối tư gia Phật tử làm theo. Viên sĩ quan quay lại, báo cáo đường bị cản trở. Rồi đợi lịnh. Nhưng bàn Phật được đưa ra càng nhiều. Khuôn hội Phú Thạnh đã chạy vào Diệu Đế thông báo cho tôi và hỏi ý kiến. Tôi hỏi Ôn Thiện Siêu đang có mặt. Ôn nói, ‘thụ động chứ biết làm sao’. Thực tế tôi cũng không thể bảo ngưng được nữa. Bàn Phật đã có sâu trong thành phố rồi. Chưa bao giờ, mà bây giờ, tôi phải xúc phạm sự tôn nghiêm đến mức này!

Thế nhưng chưa hết. Đêm đó, trung tâm thành phố Huế sáng lên, lung linh, huy hoàng, với quá nhiều bàn thờ Phật. Đêm sau càng là như vậy. Trung tâm thành phố bãi công 100%. Trong khung cảnh này, tôi được cấp báo có một Phật tử tự thiêu tên là Nguyễn Thị Vân, Pháp danh Không Gian, 18 tuổi, đệ tử ngài Tăng Cang Quy Thiện, thuộc thiền phái Long Trì. Việc tự thiêu hoàn toàn do Vân lặng lẽ tự sắp đặt, thực hiện tại chùa Thành Nội, lúc 4 giờ sáng. Nỗi ân hận về bàn thờ Phật, cùng nỗi thán phục Vân, cho đến nay, không nguôi trong tôi” (Sách đã dẫn, trang 201).

Ôn chia sẻ kinh nghiệm tuyệt thực 100 ngày với lời nguyện: “Chúng con nguyện đem xương máu để trang trải cho Phật Pháp và nếu chết là chết như cái chết của Chân Lý trước bạo lực, chứ không phải bạo lực này chết vì kém bạo lực khác”.

Tôi bị bắt từ Huế đem vào Sài Gòn, giam tại 1 bệnh viện tư. Tại đây, tôi tự ý tuyệt thực 100 ngày, tiếp theo thì gian đã làm 2 ngày ở Huế. Tôi tuyệt thực rất nghiêm túc. Trước hết tâm tư thanh thản và thanh lương, xả bỏ tất cả. Kế đến chỉ uống nước trong. Viết được 2 tiểu phẩm: (1) Bình luận Tây Du theo Duy Thức học; (2) Khái luận về Khởi Tín Luận, dầu lúc đó đâu có tài liệu, nhưng ký ức tôi lại sắc hơn lên. Tôi vẫn trì niệm hồng danh đức bổn tôn A Di Đà. Có lúc ngẫm nghĩ về việc Thánh Cam Địa áp dụng phương pháp tuyệt thực và bất bạo động. Đến ngày 70 thì thị lực kém sút khá nặng, 10 ngày sau đó nữa thì phải ngưng hẳn nghĩ và viết. Gần đủ 100 trăm ngày thì nhức mỏi, nhất là 2 cổ tay. Cả ngày 98 ấy tôi mệt kỳ lạ, rã rời nhưng cảm thấy vui tuyệt diệu nếu đi khỏi cuộc đời trong cái vui nầy. Thế nhưng ngày 99, rồi ngày 100, đột nhiên khỏe khoắn. Và tôi chấm dứt vào 0 giờ ngày 101, mừng vì thiện nguyện thành tựu” (Sđd, trang 207).

Trong chiến tranh Việt Nam, hằng triệu dân lành vô tội phải bỏ ruộng vườn chạy giặc, hằng trăm ngàn thanh niên trai trẻ chiến đấu gian khổ trên chiến trường, 310,000 chiến sĩ VNCH đã tử trận hoặc mất tích, và 5 Vị Tướng Lãnh đã tuẫn tiết vào ngày 30/4/1975; ngay cả em trai con là Trung Sĩ Quên, 19 tuổi, tử trận ngày 23 tháng Chạp năm Giáp Dần (1975) mà Cha Mẹ vẫn không nhận được 1 đồng tiền tử tuất để thắp nén nhang trên nấm mộ tử sĩ, mặc dù hậu cứ Tiểu Đoàn 119 Địa Phương Quân chỉ cách Tiểu Khu Quảng Trị vài bước chân mà con rùa hành chánh bò gần 2 tháng vẫn không đến được! Ngược lại, nhiều người lại xem chiến tranh như một cơ hội làm ăn lớn, cơ hội mua quan bán chức, làm giàu vùn vụt, bất kể sống chết mặc ai! https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%95n_th%E1%BA%A5t_nh%C3%A2n_m%E1%BA%A1ng_trong_Chi%E1%BA%BFn_tranh_Vi%E1%BB%87t_Nam#Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a

Những thành phần mất chức, mất quyền, mất cơ hội làm ăn béo bở trong cả hai thời đệ nhất và đệ nhị Cộng Hòa không tự biết xấu hổ mà chỉ luôn luôn chạy tội bằng cách đổ lỗi Phật giáo biểu tình gây rối loạn làm mất nước vào năm 1975!? Nhưng từ năm 1967, Phật giáo không còn tổ chức một cuộc biểu tình nào nữa. Ngược lại, chính Phong Trào Chống Tham Nhũng của Linh Mục Trần Hữu Thanh những năm 1973-1975 mới là những cú đấm tàn khốc vào nền đệ nhị Cộng Hòa.

Các nguyệt san Đối Diện, Trình Bày của Linh Mục Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan và nhiều chức sắc Thiên Chúa giáo khác, đăng liên tục hồ sơ mật của Chính Phủ Hoa Kỳ về Việt Nam đã được bạch hóa làm mất niềm tin nơi sinh viên, học sinh, giới trí thức, văn nghệ sĩ, kể cả quân nhân và công chức chính phủ, đặc biệt là làm lợi vô cùng cho sự tuyên truyền của Cộng Sản! Lạ một điều là các tờ báo đó vẫn được phép xuất bản nhiều năm liền?!

Ngay cả sự kiện hai gián điệp Cộng Sản (1) Vũ Ngọc Nhạ ở ngay bên cạnh Tổng Thống Thiệu, và (2) Huỳnh Văn Trọng bên cạnh Tổng Thống Thiệu đã nắm hết tất cả bí mật quốc gia về chiến lược quân sự, chính trị, ngoại giao, kinh tế v.v… để cung cấp cho Việt Cộng. Ai là người bảo chứng Nhạ và Trọng làm Cố Vấn cho nhị vị Tổng Thống?  – Chính là Linh Mục Hoàng Quỳnh. Cả hai đời Tổng Thống Thiên Chúa giáo chỉ tin vào các Linh Mục nên phải chuốc lấy thất bại.

Theo hồi ký “Biến Loạn Miền Trung” của Thiếu Tá Cảnh Sát Đặc Biệt Lê Xuân Nhuận, Giám Đốc Đặc Cảnh Vùng I, “Phong Trào Chống Tham Nhũng do Linh Mục Trần Hữu Thanh cầm đầu, các Linh Mục  Đinh Bình Định và Nguyễn Học Hiệu cùng Bác Sĩ Nguyễn Thị Thanh phụ lực, qua một bản ‘Tuyên Ngôn’ được sự bảo trợ của 301 Linh Mục khác, kể cả ‘Tuyên Úy Công Giáo’, ra mắt tại Giáo Xứ Tân Việt, Sài Gòn, từ năm 1973, là một tập hợp tương đối lớn, có nhiều tín đồ nhất, và tại nhiều địa phương nhất.

Cuối năm 1974, nhất là đầu năm 1975, những cuộc biểu tình chống chính phủ của nhóm Linh Mục Trần Hữu Thanh, có sự tham gia của một số chính khách, lãnh tụ đảng phái, cộng với việc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam phổ biến ‘Thư Chung’, kêu gọi các Nhà Thờ toàn quốc ‘chống tham nhũng’, thúc đẩy giáo dân xuống đường rầm rộ, liên tục, có khi có hàng chục ngàn người tham dự tại Huế, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang, Cam Ranh, Sài Gòn, Mỹ Tho, Cần Thơ v.v... đã khiến cho các binh sĩ ngoài tiền tuyến chán nản, mất tinh thần, và ảnh hưởng tai hại đến sự sống còn của đất nước, đặc biệt là chính phủ Hoa Kỳ không còn tin tưởng vào Tổng Thống Thiệu nên đã cắt giảm viện trợ quân sự. Đầu tháng 2/1975, Phong Trào Chống Tham Nhũng phổ biến tiếp bản ‘Cáo Trạng số 2’ hô hào lật đổ Tổng Thống Thiệu bằng vũ lực. 

Ngoài ra còn có các Nhóm Linh Mục tay sai Cộng Sản và thân Cộng, là các Linh Mục Trương Bá Cần, Thanh Lãng, Huỳnh Công Minh, Vương Đình Bích, Hồ Thành Biên, Nguyễn Thành Trinh; Nhóm ‘Đối Diện’ của 11 Linh Mục phản chiến Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, Phan Khắc Từ, Nguyễn Hữu Khai, v.v... trong mấy tháng cuối cùng của VNCH đã lợi dụng các buổi thuyết giảng tại các Nhà Thờ để công khai tuyên truyền cho ‘người anh em bên kia’.

Trong khi Tổng Thống Thiệu đến Tòa Thánh Vatican nhưng không được Giáo Hoàng tiếp kiến mà lại tiếp kiến cặp Nguyễn Thị Bình và Xuân Thủy, Trưởng Phái Đoàn Cộng Sản tại Hòa Hội Paris. Vào tháng 6/1971, đang lúc tên gián điệp Cộng Sản Vũ Ngọc Nhạ bị VNCH cầm tù ở Côn Đảo, mà Tòa Thánh và Giáo Hoàng Phaolô VI lại tặng Bằng Khen và Huy Chương ‘Vì Hòa Bình” cho y. Tức là Giáo Hoàng đã biến Vatican và nhiều Giáo Hội địa phương thành một guồng máy chính trị, ngoại giao, tình báo, tuyên truyền khổng lồ để giúp Hà Nội tiến chiếm Miền Nam. 

Như thế thì: Cả một khối lớn, gồm có: (1) Giáo Hoàng Phao Lồ Đệ Lục, (2) Tòa Thánh Vatican, (3) 100% Giáo Hội Ky Tô Giáo Hoàn Vũ, (4) 20 nước Ky Tô Giáo  Quốc Tế, (5) 100% Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, và (6) Phong Trào Chống Tham Nhũngđã tạo biến loạn vào chính những năm 1974-1975, muốn sử dụng vũ lực lật đổ tức thời Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, tức là chống cả chính thể VNCH, mà không có tội đối với Quốc Dân, lại đi gán hết trách nhiệm cho: một Thượng Tọa Thích Trí Quang, vốn đã chấm dứt tranh đấu sau khi đã có Hiến Pháp từ 1967”http://lexuannhuan.tripod.com/BienLoan.html

Tác giả “Biến Loạn Miền Trung” kết luận: Thủ phạm quấy rối an ninh trật tự công cộng nhất, lũng đoạn tình hình chính trị quốc gia nhất, gây cho tinh thần dân chúng hoang mang nhất, khiến cho ý chí chống Cộng của chiến sĩ giao động nhất, vào mấy năm cuối cùng của Chiến Tranh Việt Nam -- tức là đâm một nhát dao chí tử vào Việt Nam Cộng Hòa khi đang hấp hối -- thì số người đó rõ ràng, không thể chối cãi được, phải là thành phần cực đoan trong Nhóm ‘Giáo Dân Tranh Đấu’ -- các Linh Mục Cộng Sản nằm vùng, tay sai và thân Cộng, cùng với Ban Lãnh Đạo của ‘Phong Trào Chống Tham Nhũng’ -- dù là một bộ phận nhỏ -- của giới tín đồ Ky Tô giáo Miền Nam Việt Nam” (Sđd, bìa sau).

Dư luận thắc mắc tại sao Ôn không nói gì, không hành động gì từ sau khi miền Nam sụp đổ? Nhưng nói với ai, nói làm gì khi chính quyền Cộng Sản không thực tâm đảm bảo các quyền tự do căn bản của con người mà Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền đã minh định: tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do biểu tình, tự do tôn giáo v.v…

* Phản đối ư? – 12 Tăng Ni đã tự thiêu năm 1975 tại thiền viện Dược Sư, ấp Tân Long A, xã Tân Bình, huyện Phụng Hiệp, Cần Thơ, và, hai Thầy Tuệ Sỹ, Thầy Mạnh Thát cùng nhiều Phật tử đã bị kết án tử hình; Cô Trí Hải và nhiều Phật tử đã bị tống vào ngục chưa đủ sao?

* Công khai phát biểu lập trường Phật giáo trước thời cuộc ư? - Đã có Ôn Đôn Hậu, Ôn Huyền Quang, Ôn Quảng Độ.

* Chống lại việc xen vào nội bộ Phật Giáo? - Đã có Ôn Thiện Minh, bộ óc chiến lược của Phật giáo, đã bị bắt và tra tấn đến chết trong tù.

* Ngay đến quần chúng phản đối Trung Cộng xâm chiếm lãnh hải Việt Nam, chống cho Trung Cộng thuê đất 99 năm tại 3 đặc khu Vân Đồn, Vân Phong, Phú Quốc mà còn bị ngăn cấm, bắt giam, đàn áp dã man thì còn công lý gì nữa mà nói!  Nói phải đi đôi với làm; nói mà không làm được thì im lặng còn hơn. https://m.facebook.com/DUYENGIACNGO/posts/1223511754519319

Vả lại, từ năm 1967, Ôn không còn giữ chức vụ gì trong Giáo Hội thì phát biểu với tư cách gì? Trong Pháp nạn Phật giáo 1963, Ôn là Hội Trưởng Tổng Trị Sự Hội Phật Giáo Miền Trung, trên Ôn là Chư Đại Lão Hòa Thượng tuổi cả thế kỷ chứng minh, bên cạnh Ôn là Bi Trí Dũng kiệt xuất của các Ôn Đôn Hậu, Thiện Minh, Tâm Châu, Thiện Hoa, Trí Thủ, Mật Nguyện, Thiện Siêu và hàng hàng lớp lớp Tăng Ni, Phật tử, quần chúng ủng hộ, cho nên tiếng nói và hành hoạt của Ôn là của tất cả mọi người, mới có tác dụng làm ma quân khiếp sợ. Chứ sau năm 1975, Ôn bị giam lỏng tại chùa Ấn Quang hơn 10 năm, rồi tại chùa Già Lam hơn 25 năm vì công an chìm theo dõi suốt ngày đêm, ngăn chận Phật tử thăm viếng, chỉ chờ Ôn phản ứng bất lợi là bắt ngay! Thật ra, im lặng cũng là một thái độ chính trị, bất hợp tác cũng là một cách chống đối bất bạo động như thánh Ghandi đã thực hành. Nhà cầm quyền cũng biết tỏng như thế nhưng cũng không dám đụng vào Ôn.

Do nhân duyên lành, Ôn có người Mẹ thật là bậc đại từ mẫu, nuôi dưỡng và sách tấn Ôn tu học thành bậc Cao Tăng. Ôn viết về Mẹ: “Khi bờ cõi mất thống nhất, Mẹ tôi, cũng một mình, bảo tôi, ‘con đi mà trả nghĩa cho Phật’. Đi cho thẳng, đừng đè bụi đè bờ mà châm vô! Mẹ cắn răng, ngậm nước mắt, giục tôi đi đi. Tôi đi trong nước mắt, và, cho đến nay, 89 tuổi rồi, vẫn không đủ can đảm về nhìn mộ của Mẹ” (Sđd, trang 51).

Không ngờ ngày ra đi đó lại là ngày Ôn ra khỏi cuộc đời của Mẹ. Tại tỉnh Quảng Bình, một năm sau, 1956, “Thời điểm này đau đớn nhất cho đời tôi, cho suốt đời tôi. Thời điểm mà người Mẹ khốn khổ của tôi bị đấu tố. Tôi không đủ can đảm, nhớ lại cho hết, ghi lại cho đủ, chỉ đánh vài dấu than mà thôi” (Sđd, trang 91)!

Hằng năm, Ôn thường đảnh lễ cúng dường Chư Tôn Thiền Đức Cầu Siêu cho song thân. Ôn dịch Lương Hoàng Sám Pháp, đúc đại hồng chung cúng dường chùa Kim Sơn tại Huế, và nhiều Phật sự khác cũng hồi hướng đến Mẹ, nạn nhân Cải Cách Ruộng Đất 1956 của Cộng Sản! Mãi đến năm 2013, 91 tuổi, Ôn mới trở về quê nhà ở làng Diêm Điền, Long Đại, Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình để thăm mộ Mẹ. “Một bí mật mà nay nên nói ra. Làng tôi liên hệ khá chặt chẽ với phong trào Văn Thân của chí sĩ Phan Đình Phùng. Vùng núi phía tây của làng có hai quân thứ của phong trào. Bác họ tôi là một chỉ huy cấp trung, ông ngoại tôi là một đội viên của một trong hai quân thứ. Cha tôi là ‘người của vua Minh’, tiếng gọi kín vua Hàm Nghi” (Sđd, trang 11).

Nhìn lại một chút gốc gác như thế thì biết Ôn chẳng dính kẹt vào một bên nào cả, và cũng chẳng cần phải minh oan, dù phía Quốc Gia vu cáo Ôn là thân Cộng, phía Cộng Sản vu cáo Ôn là CIA, báo chí Mỹ vu cáo Ôn có tham vọng chính trị! Trước sau Ôn vẫn chỉ là một Ông Thầy Tu. Giữa tình cảnh nguy khốn, đơn độc, bị lưới nghi phong tỏa, Ôn vẫn chuyên tâm dịch Kinh, chuyển hóa bất an thành cơ hội cho việc hạ thủ công phu tu hành. Phẩm Phổ Môn đã dẫn chứng 32 ứng thân của Bồ Tát Quán Thế Âm khi dấn thân vào đời. Các bậc Đại Sư cũng tùy cơ mà đối ứng, khi cần dũng mãnh thì vào hỏa ngục vẫn không từ nan, khi cần nhẫn nại thì dùng ái ngữ mà khuyên bảo, khi cần im lặng thì lặng yên như đại định, đâu có bị sai sử vì lời khen tiếng chê. Đem tâm dính mắc vào các ý niệm sinh diệt, sân hận, si mê thì làm sao cảm ứng được tánh đức tự tại của các bậc Đại Sĩ vào đời độ sanh?!

Nói cho đúng, người xuất gia nào mà không mong có nơi yên tịnh để định tâm cho tỏa sáng vị Phật tiềm ẩn nơi bản thân mình? Như thập niên 1968, Hòa Thượng Thiền Tâm xin thôi Giám Đốc Phật Học Viện Huệ Nghiêm về ẩn tu tại Vạn Ninh, Lâm Đồng. Kết quả, Hòa Thượng đã đạt được cảnh giới cao thâm của thiền, tịnh, mật, cảm hóa rất nhiều rắn thần tại Vạn Ninh! Hòa Thượng Thanh Từ cũng xin thôi Giám Đốc Phật Học Viện Huệ Nghiêm để nhập thất tu thiền tại Vũng Tàu. Nhờ vậy mà Hòa Thượng ngộ được thiền cơ, tái lập dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử tươi sáng khắp đất nước Việt Nam và nhiều nơi trên thế giới.

Con hoàn toàn tin tưởng rằng Ôn đã thường xuyên nhập vào cảnh giới “Một niệm không sanh, muôn pháp đều dừng” (Nhất tâm bất sanh, vạn pháp câu tức) như lời Ôn dịch Quy Sơn Cảnh Sách. Con cũng hoàn toàn tin tưởng rằng Chư Phật quá khứ, đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, 1250 Thánh Tăng, ngài A Nan và các vị chứng quả A La Hán sau khi đức Thế Tôn nhập Vô Dư Niết Bàn, vẫn đang hiện diện giữa cuộc đời nầy qua vô lượng thân tướng để hóa độ chúng sanh. Trong Kinh Kim Cang đức Phật dạy rằng Ngài, cũng như các bậc Giác Ngộ khác, “không từ đâu đến mà cũng không đi về đâu” (Vô sở tùng lai diệc vô sở khứ cố danh Như Lai).

Định luật bảo toàn năng lượng của khoa học cũng phát biểu tương tựTrong toàn thể vũ trụ, “Năng lượng không thêm vào cũng không bớt đi mà chỉ thay đổi từ dạng này sang dạng khác”. (Energy can neither be created nor destroyed; rather, it transforms from one form to another). Ở bình diện tục đế thì cuộc đời này luôn sanh, trụ, dị, diệt, vô thường, khổ đau trong từng giây phút; nhưng ở bình diện chân đế thì ngay nơi cuộc đời này là Niết Bàn, thường, lạc, ngã, tịnh, không hệ lụy thời gian và không gian. Như sóng âm thanh, sóng truyền hình không ai cảm xúc được, nhưng mở radio hay TV thì bắt được âm thanh hay hình ảnh ngay.

Từ nơi đất khách quê người, con nghe tin Ôn viên tịch với những lời di huấn thật tự tại: Sau giờ chết rồi độ 6 giờ là liệm; Liệm rồi các Pháp tử lạy 3 lạy rồi đưa ra xe tang; Không bàn thờ, bát nhang, báo tang, thành phục, đưa đám, phúng điếu; Chuyển đến lò thiêu, thiêu rồi đem về làm tuần; Mỗi lễ đều không thông báo và mời ai dự cả. Như vậy trọn vẹn di huấn của Ôn đều là Tam Pháp ấn: không, vô tướng, vô tác. Nhưng từ chân không khởi lên diệu hữu: Ôn để lại “xá lợi đầu trắng tinh” sau lễ hỏa táng!

Vậy là trong vòng 56 năm, Phật Giáo Việt Nam có đến hai vị Thánh Tăng lưu xá lợi rất có ý nghĩa. Năm 1963, Hòa Thượng Quảng Đức lưu xá lợi TIM, tượng trưng cho từ bi; năm 2019, Hòa Thượng Trí Quang lưu xá lợi ĐẦU, tượng trưng cho trí tuệ. Từ bi và trí tuệ chính là nền tảng của lời Phật dạy.

Ôn viên tịch ngày 8/11/2019 tại chùa Từ Đàm, Huế, thọ 97 tuổi, tuổi đạo đến 73 năm! Ngần ấy tuổi thọ và tuổi đạo cũng đã xứng đáng để những người hiền lương cung kính đảnh lễ cúng dường. Ngày 26/12/2019, Lễ Chung Thất của Ôn được tổ chức trang nghiêm tại chùa Tâm Từ, San Jose. Chư Tăng Ni cùng Phật tử thành tâm tụng Kinh Di Giáo do Ôn dịch. Hòa Thượng Minh Đạt đã tán dương Ôn là bậc Nhục Thân Bồ Tát, là Nghịch Hạnh Bồ Tát, là bậc Thánh Tăng. Nhất tâm cầu nguyện Giác Linh Ôn Mau Trở Lại Cuộc Đời để tiếp tục hóa độ chúng sanh.

Nam Mô Lâm Tế Chánh Tôn Tứ Thập Nhất Thế Thượng Trí Hạ Quang Đại Lão Hòa Thượng Giác Linh.




Cúng Dường 100 Ngày Ôn Viên Tịch 15/2/2020
Nguyên Thành






 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 7887)
Mỗi lần đi Huế lòng tôi lại nao nao khôn tả. Huế là đạo, là thơ, là nghĩa tình ý vị, là tinh hoa văn hóa của ba miền đất Việt, nhưng cũng là mảnh đất khô cằn của đói nghèo khốn khổ “mùa đông thiếu áo mùa hè thiếu cơm” đã hứng chịu nhiều thiên tai nhân họa. Huế được phong phú về mặt văn hóa, tâm linh là nhờ hình ảnh những vị đại lão hòa thượng nơi đây đã sống, hành đạo và xả báo thân. Dù đã viên tịch, dư hương các ngài vẫn như còn phảng phất nơi các ngôi tổ đình tĩnh lặng và những rừng thông bạt ngàn.
09/04/2013(Xem: 5873)
Giờ phút Thầy an nhiên xả báo thân, thì bên này hơn nữa đêm. Một Phật tử của Thầy ở miền Đông nước Mỹ, giọng đầm đìa nước mắt, khấp báo cho tôi tin Thầy đã từ biệt, lệ tiếc thương như tràn ngập, khắp đó khấp đây. Rồi Tuệ Sỹ, một hậu tấn, kẻ đồng tâm dễ thương của Thầy, mà tôi thường ví như một hạt kim cương hiếm hoi lẫn trong đá sỏi của Phật Giáo Việt Nam ngày nay, trong nổi cô quạnh bao la vừa sau một mất mát lớn lao đã ai tín cho tôi bằng lá thư không niêm mà tôi biết mỗi chữ cũng trĩu nặng nổi lòng.
09/04/2013(Xem: 2388)
Cho phép con thành tâm kính cẩn chia buồn với quí ngài về nỗi mất mát lớn lao không sao tìm lại được. Ðối với kẻ hậu học, làm sao con không khỏi bồi hồi, luyến tiếc khi hay tin sự ra đi của cố Hoà thượng Thích Ðức Nhuận, người đã hiến trọn đời mình cho đạo pháp và dân tộc. Trong giờ phút này, nơi phương xa, một người đệ tử đã có nhân duyên muộn hầu cận, học hỏi nơi cố Hoà thượng khi còn ở Việt Nam, xin đảnh lễ chư tôn đức trong Tổ đình và xin quí ngài cho con có đôi lời bộc bạch với giác linh của cố Hoà thượng. Ngưỡng bạch giác linh Hoà thượng chứng giám.
09/04/2013(Xem: 5387)
Hòa Thượng Thích Thiện Trì thế danh Nguyễn Văn Hiến, Pháp danh Như Phụng, Pháp tự Thiện Trì, Pháp hiệu Ấn Ðạo thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ bốn mươi hai, Ngài sanh ngày 19 tháng 02 năm 1934 tại xã Nhơn Khánh, quận An Nhơn, tỉnh Bình Ðịnh. Ngài xuất thân từ một gia đình thuần túy Phật Giáo, thân phụ của Ngài là cụ ông Nguyễn Hàn, Pháp danh Như Ðà. Thân mẫu của Ngài là cụ bà Bùi Thị Thiệp, Pháp danh Như Cảnh. Ngài có tất cả 10 anh em, 5 trai và năm gái.
09/04/2013(Xem: 16474)
Để ghi lại những công –tác Hoằng-pháp và Giáo-dục trong niên-khóa vừa qua, chúng tôi đã thuyết-pháp và giảng-giải các lớp ở Ấn-Quang cho hàng Phật-Tử tại gia, cũng như tại Viện Đại Học Vạn-Hạnh cho sinh-viên Phật-khoa năm thứ IV (73-74) về môn các tác phẩm Trung-Hoa. Và cũng thể theo lời yêu cầu của đa-số Phật-tử muốn có tài-liệu để học-tập và nghiên-cứu, nên chúng tôi gom góp các bài đã biên-soạn, đúc kết thành một tập sách với nhan đề: “GƯƠNG SÁNG NGƯỜI XƯA”.
09/04/2013(Xem: 8962)
hế danh của Sư Bà cũng chính là Ðạo Hiệu hiện tại. Song Thân khó nuôi con, nên lúc 2 tuổi hai Cụ đã đem vào chùa cúng cho Sư Bà Ðàm Soạn, Trú trì chùa Cự Ðà và được Sư Cụ đặt tên là Ðàm Lựu. Phụ thân của Sư Bà là Cụ Ông Ðặng Văn Cán và Mẫu thân là Cụ Bà Nguyễn Thị Cả. Sư Bà sanh vào ngày 13 tháng 6 năm Quý Dậu, 4.811 Quốc Lịch; nhằm ngày 04 tháng 08 năm 1933 Tây lịch; tại làng Tam Xá, xã Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Ðông, Bắc Việt Nam.
09/04/2013(Xem: 4600)
Hòa Thượng Thích Như Điển, thế danh Lê Cường, Pháp tự: Giải Minh, Pháp hiệu: Trí Tâm, sinh ngày 28 tháng 6 năm 1949 tại xã Xuyên Mỹ, quận Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, Việt Nam. Học lực: Cử nhân giáo dục và Cao học Phật giáo tại Nhật Bản. Gia cảnh: Con út trong số 8 người con gồm 5 trai và 3 gái; Thân phụ: Ông Lê Quyên, pd: Thị Tế, Thân mẫu: Bà Hồ thị Khéo, pd: Thị Sắc. Người anh thứ bảy đã xuất gia đầu Phật năm 1958 tại chùa Non Nước, Đà Nẵng. Hiện là Hòa Thượng Thích Bảo Lạc, Hội Chủ Giáo Hội PGVNTN Hải Ngoại tại UĐL-TTL, Phương Trượng Tự Viện Pháp Bảo tại Sydney, Úc Đại Lợi.
09/04/2013(Xem: 8703)
Tuyển tập Nhạc Phật Giáo do Nhạc Sĩ Hằng Vang (1933-2021) sáng tác
09/04/2013(Xem: 7405)
Nhìn tổng quát công trình nghiên tầm, khảo cứu các văn kiện, tài liệu cổ để tập thành các tác phẩm qua các bộ môn: Lịch Sử, Văn Hóa, Văn Học, Âm Nhạc, Triết học, Thiền học... của Tiến sỹ Sử gia Lê Mạnh Thát là một thành quả to lớn được kết tinh bởi một trí tuệ siêu tuyệt, một khả năng hy hữu, một thời gian liên lũy, lâu dài, qua nhiều thập niên. Đó là những yếu tố mà ít người có được, để lưu lại cho hậu thế những thành quả văn học đồ sộ và chuẩn xác trên dòng sử mệnh quê hương.
09/04/2013(Xem: 13539)
Vua Trần Nhân Tông là một vị anh hùng dân tộc, có những đóng góp to lớn, nhiều mặt cho đất nước, cho lịch sử. Vua đã trực tiếp lãnh đạo quân và dân nước ta, tập hợp được những nhà quân sự tài giỏi, huy động được tiềm lực của toàn dân, đánh thắng đội quân hung hãn, thiện chiến nhất thời bấy giờ, làm nên những chiến công oanh liệt Hàm Tử, Chương Dương, Bạch Đằng, Tây Kết lẫy lừng, đưa dân tộc ta lên đỉnh cao của thời đại. Không những thế, vua đã mở rộng biên cương của tổ quốc, đặt nền móng vững chắc cho sự nghiệp nam tiến hoành tráng của dân tộc, mà con cháu hôm nay và mai sau mãi mãi ghi nhớ và biết ơn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567