Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hòa Thượng Thích Hương Sơn

10/04/201311:18(Xem: 5749)
Hòa Thượng Thích Hương Sơn

Sơ lược Tiểu Sử

Hòa Thượng THÍCH HƯƠNG SƠN

(1912-1975)

htthichtrihuu

Hòa Thượng húy Lê Thùy, pháp danh Thị Năng, tự Trí Hữu, hiệu Thích Hương Sơn, sinh năm Quí Sửu (1912) tại làng Quá Giáng, huyện Điện Bàn (Hòa Vang) tỉnh Quảng Nam trong một gia đình Nho học và tin Phật. Thân phụ: Lê Cát, Thân Mẫu: Kiều Thị Đính, có mười hai người con; Ngài là con thứ bảy trong gia đình.

Năm tám tuổi (1920), Ngài cầu Thầy học đạo với Tổ sư Như Thông (chùa Linh Ứng-Quảng Nam). Mười chín tuổi, Ngài thọ giới Sa Di. Từ năm 1935 đến 1937, Ngài theo học với quí Thiền Sư Giác Phong (chùa Phổ Thiên – Đà Nẵng), Thiền sư Phước Huệ, và Thiền Sư Trí Độ (chùa Báo Quốc - Huế). Năm hai mươi bảy tuổi (1939), ngài thọ Cụ Túc Giới do Bổn sư truyền Phương Trượng, thuộc phái Thiền Lâm Tế đời thứ bốn mươi hai. Ngài tốt nghiệp Cao đẳng Phật học vào năm ba mươi ba tuổi (1945). Sau khi xong Đại học, Ngài vân du vào Nam hóa đạo.

Năm Kỷ Sửu 1949, Ngài lập ngôi tịnh thất lấy tên là Ứng Quang tại vườn Bà Lớn, ngã ba Vườn Lài Chợ lớn để tu niệm và đồng thời mở lớp dạy chúng điệu mới xuất gia các chùa lân cận. Trong thời gian này, Ngài cộng tác viết bài thường xuyên nơi mục: Phật học Danh số trên tạp chí Từ Quang do Đạo hữu Chánh Trí – Mai Thọ Truyền chủ trương.

Năm 1950 Ngài cùng với quí Hòa Thượng Thiện Hòa, Thiện Hoa, Nhật Liên hợp nhất các Phật học đường Liên Hải, Sùng Đức thành Phật học đường Nam Việt mà cơ sở Ứng Quang do Ngài hiến tặng HT Thiện Hòa, dùng làm địa bàn kết nạp Tăng sinh. Ngài còn giữ chức Kiểm Khán kiêm giáo sư Phật học đường Nam Việt, làm giáo thọ và giảng dạy tại các Ni trường Dược Sư, Từ Nghiêm, Huệ Lâm.

Năm ba mươi chín tuổi, Ngài được đề cử giữ chức ủy viên Tổng trị sự Tổng Hội Phật giáo Việt Nam trong kỳ đại hội Phật giáo toàn quốc lần, khai mạc tại chùa Từ Đàm - Huế (1951).

Năm 1957, Ngài trở về chùa Linh Ứng nơi đầu tiên xuất gia tu học để đảm nhận chức Trú Trì vì nhu cầu Phật sự. Năm 1959, Ngài được cử đọc tham luận trước đại hội Tăng già toàn quốc lần II, khai mạc tại chùa Ấn Quang với 4 mục tiêu: 1) Chỉnh đốn nội bộ Tăng Ni về mọi mặt; 2) Thống nhất ba Giáo Hội Bắc Trung Nam; 3) Tiến tới việc thực hiện giáo quyền và thành lập Viện Tăng Thống Việt Nam; và 4) Tiếp tục theo gương cao cả của chư Tổ để lãnh đạo, truyền bá chánh pháp cho Phật giáo Việt Nam ngày càng vững mạnh.

Năm 1960, Phật học viện Phổ Đà - Đà Nẵng thành lập tại chùa Phổ Thiên, Ngài được mời làm Giám Viện cho đến ngày viên tịch năm 1975.

Năm 1961, Ngài được cung thỉnh vào Chức vụ Trị Sự Trưởng Giáo Hội Tăng Già Quảng Nam – Đà Nẵng.

Năm 1962, Ngài được cử Trú Trì chùa Tỉnh hội Đà Nẵng.

Năm 1964, Giáo Hội PGVNTN thành lập, Ngài được Viện Hóa Đạo cử làm Chánh Đại Diện miền Liễu Quán.

Ngài vận động đại trùng tu Tổ đình Linh Ứng năm 1972 được quang huy xứng đáng tòa Phật sát huy hoàng như hiện nay.

Năm 1973, Ngài được tấn phong lên hàng giáo phẩm Hòa Thượng và được thỉnh cử vào Hội Đồng giáo phẩm Viện Tăng Thống GHPGVNTN.

Công hạnh tu trì và hoằng pháp của Ngài cũng khá đặc biệt mà ít ai biết đến, bút giả được diễm phúc thân cận Ngài trong 2 năm từ 1957 đến 1959 mới tận mắt thấy rõ, nên xin được nêu lên để chư huynh đệ, pháp hữu tín chúng cùng suy nghiệm, học hỏi:

* Công hạnh tu trì: Có thể nói hạnh tu của Ngài khó ai theo kịp, chỉ nhìn vào 2 sự kiện nổi bật đủ để chứng minh cho nhận xét này:

a)Chặt 2 ngón tay út để cúng dường Phật hay do lời phát nguyện của Ngài cũng chưa ai rõ. Sự việc diễn ra năm nào cũng không thấy ai ghi lại bất cứ nơi đâu, lúc tôi vào tu (1957) đã thấy hiện trạng nơi 2 bàn tay Thầy mỗi khi Thầy chắp tay xá chào ai hoặc lễ Phật. Theo như sự suy nghĩ riêng tư, hẳn đây là một tâm nguyện trọng đại của Ngài nên giữ kín không cho người khác biết chăng. Nhìn kỹ, ngón tay út của Ngài bị lấy mất 2 lóng, chỉ còn lại 1 lóng trong cùng, cả hai bàn tay đều như vậy. Đây thật quả là một sự dũng cảm đáng tâm phục biết bao! Người thiếu ý chí, do dự không dễ dứt điểm một việc làm có tính tác động tâm lý sâu xa, lâu dài đến như vậy!

b)Việc đốt liều hương: Thay vì chỉ đốt 3 liều như phần nhiều các Tỳ Kheo khác, Ngài đốt tới 6 liều trên đầu: 3 liều ở giữa nhân trung và 3 liều song song theo đó. Việc đốt hương đúng là do phát nguyện lúc thọ cụ túc giới, các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni phát tâm cúng dường, như một phần hy sinh thân thể để dâng lên mười phương chư Phật chứng minh tấm lòng thành tha thiết của người đệ tử.

* Hoằng pháp, dịch thuật:

Ngoài vai trò Trú Trì nhị tự: Chùa Linh Ứng, chùa Tỉnh Hội, Ngài còn là Giám viện Phật học viện Phổ Đà và Giáo Thọ dạy chúng Linh Ứng, Phổ Thiên… phải nói rất bận rộn, vất vả. Thế nhưng, Ngài vẫn cố vấn chỉ đạo đôn đốc thành lập các chùa như Hòa Phước (1950), chùa Bảo Minh (1965) tại Hòa Vang, chùa Từ Quang, chùa Bích Trâm, chùa La Thọ tại Điện Bàn - Quảng Nam, Đà Nẳng.

Ngài thao thức cho tiền đồ Phật giáo nên dù bận rộn thế mấy vẫn tranh thủ thời gian phiên dịch và sáng tác như một số tác phẩm tiêu biểu:

- Kinh Viên Giác

- Lời Phật dạy (phỏng dịch)

- Duy Thức dị giản

- Kinh Phật địa, ấn hành năm 1959,

- Phật học danh số: đăng nhiều kỳ trên tạp chí Từ Quang

- Lịch sử Ngũ Hành Sơn (sáng tác)

( Kinh Phật Địa và lịch sử Ngũ Hành Sơn đã được tái bản tại Úc năm 2006 và 2002).

Hòa Thượng viên tịch năm Ất Mão vào ngày 28 tháng 11 (nhằm ngày 30 tháng 12 năm 1975) tại chùa Ấn Quang- Sài Gòn, nơi mà trước đây Ngài đã hiến tặng làm Trung Tâm hoằng pháp cho Phật giáo sau này. Sau lễ Trà Tỳ, hài cốt Ngài đuợc phân làm 2 phần: một phần thờ tại chùa Ấn Quang, và một phần đưa về thờ nơi bảo tháp tại Tổ Đình Linh Ứng, Ngũ Hành Sơn.

Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh tôn tứ thập nhị thế, khai sơn Ấn Quang tự, trùng kiến trú trì Linh Ứng Tự, thượng Thị hạ Năng, tự Trí Hữu, hiệu Hương Sơn Hòa Thượng giác linh thùy từ chứng giám.

(Tài liệu do H.T Hoằng Khai soạn lục và H.T Bảo Lạc bổ túc)

----o0o---

Trình bày: Thích Nữ Giác Anh

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 14152)
Xuất thân trong một gia đình gia giáo có thân phụ là Chánh Tổng nên Hòa Thượng đã sớm hấp thụ Nho học và Tây học từ thuở ấu niên. Vì thế, Hòa Thượng đã thông thạo cả Hán văn lẫn Pháp văn, kết hợp và dung hòa được cả hai truyền thống văn hóa Đông – Tây.
09/04/2013(Xem: 10792)
Hòa Thượng thượng Tâm hạ Thành. Thế danh là Nguyễn Ðức Huân sinh năm 1930 tại làng Trà Bắc, Phủ Xuân Trường, Tỉnh Nam Ðịnh, Miền Bắc Việt Nam. Năm 1942 khi vừa tròn 12 tuổi, Ngài ngộ lý vô thường và xuất gia học đạo với Sư Tổ Thượng Chính Hạ Ðĩnh tại chùa Yên Cư, Phủ Xuân Trường, Thuc Sơn Môn Trà Bắc. (Sơn môn Trà Bắc, Trà Trung và Trà Ðông thuc Tổng Trà Lũ, là hậu thân của Sơn môn Yên Tử). Ngài được Bổn Sư ban Pháp danh là Ngọc Tiểu Pháp hiệu Tâm Thành.
09/04/2013(Xem: 8113)
Mỗi lần đi Huế lòng tôi lại nao nao khôn tả. Huế là đạo, là thơ, là nghĩa tình ý vị, là tinh hoa văn hóa của ba miền đất Việt, nhưng cũng là mảnh đất khô cằn của đói nghèo khốn khổ “mùa đông thiếu áo mùa hè thiếu cơm” đã hứng chịu nhiều thiên tai nhân họa. Huế được phong phú về mặt văn hóa, tâm linh là nhờ hình ảnh những vị đại lão hòa thượng nơi đây đã sống, hành đạo và xả báo thân. Dù đã viên tịch, dư hương các ngài vẫn như còn phảng phất nơi các ngôi tổ đình tĩnh lặng và những rừng thông bạt ngàn.
09/04/2013(Xem: 5980)
Giờ phút Thầy an nhiên xả báo thân, thì bên này hơn nữa đêm. Một Phật tử của Thầy ở miền Đông nước Mỹ, giọng đầm đìa nước mắt, khấp báo cho tôi tin Thầy đã từ biệt, lệ tiếc thương như tràn ngập, khắp đó khấp đây. Rồi Tuệ Sỹ, một hậu tấn, kẻ đồng tâm dễ thương của Thầy, mà tôi thường ví như một hạt kim cương hiếm hoi lẫn trong đá sỏi của Phật Giáo Việt Nam ngày nay, trong nổi cô quạnh bao la vừa sau một mất mát lớn lao đã ai tín cho tôi bằng lá thư không niêm mà tôi biết mỗi chữ cũng trĩu nặng nổi lòng.
09/04/2013(Xem: 2684)
Cho phép con thành tâm kính cẩn chia buồn với quí ngài về nỗi mất mát lớn lao không sao tìm lại được. Ðối với kẻ hậu học, làm sao con không khỏi bồi hồi, luyến tiếc khi hay tin sự ra đi của cố Hoà thượng Thích Ðức Nhuận, người đã hiến trọn đời mình cho đạo pháp và dân tộc. Trong giờ phút này, nơi phương xa, một người đệ tử đã có nhân duyên muộn hầu cận, học hỏi nơi cố Hoà thượng khi còn ở Việt Nam, xin đảnh lễ chư tôn đức trong Tổ đình và xin quí ngài cho con có đôi lời bộc bạch với giác linh của cố Hoà thượng. Ngưỡng bạch giác linh Hoà thượng chứng giám.
09/04/2013(Xem: 5560)
Hòa Thượng Thích Thiện Trì thế danh Nguyễn Văn Hiến, Pháp danh Như Phụng, Pháp tự Thiện Trì, Pháp hiệu Ấn Ðạo thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ bốn mươi hai, Ngài sanh ngày 19 tháng 02 năm 1934 tại xã Nhơn Khánh, quận An Nhơn, tỉnh Bình Ðịnh. Ngài xuất thân từ một gia đình thuần túy Phật Giáo, thân phụ của Ngài là cụ ông Nguyễn Hàn, Pháp danh Như Ðà. Thân mẫu của Ngài là cụ bà Bùi Thị Thiệp, Pháp danh Như Cảnh. Ngài có tất cả 10 anh em, 5 trai và năm gái.
09/04/2013(Xem: 16770)
Để ghi lại những công –tác Hoằng-pháp và Giáo-dục trong niên-khóa vừa qua, chúng tôi đã thuyết-pháp và giảng-giải các lớp ở Ấn-Quang cho hàng Phật-Tử tại gia, cũng như tại Viện Đại Học Vạn-Hạnh cho sinh-viên Phật-khoa năm thứ IV (73-74) về môn các tác phẩm Trung-Hoa. Và cũng thể theo lời yêu cầu của đa-số Phật-tử muốn có tài-liệu để học-tập và nghiên-cứu, nên chúng tôi gom góp các bài đã biên-soạn, đúc kết thành một tập sách với nhan đề: “GƯƠNG SÁNG NGƯỜI XƯA”.
09/04/2013(Xem: 9178)
hế danh của Sư Bà cũng chính là Ðạo Hiệu hiện tại. Song Thân khó nuôi con, nên lúc 2 tuổi hai Cụ đã đem vào chùa cúng cho Sư Bà Ðàm Soạn, Trú trì chùa Cự Ðà và được Sư Cụ đặt tên là Ðàm Lựu. Phụ thân của Sư Bà là Cụ Ông Ðặng Văn Cán và Mẫu thân là Cụ Bà Nguyễn Thị Cả. Sư Bà sanh vào ngày 13 tháng 6 năm Quý Dậu, 4.811 Quốc Lịch; nhằm ngày 04 tháng 08 năm 1933 Tây lịch; tại làng Tam Xá, xã Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Ðông, Bắc Việt Nam.
09/04/2013(Xem: 4685)
Hòa Thượng Thích Như Điển, thế danh Lê Cường, Pháp tự: Giải Minh, Pháp hiệu: Trí Tâm, sinh ngày 28 tháng 6 năm 1949 tại xã Xuyên Mỹ, quận Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, Việt Nam. Học lực: Cử nhân giáo dục và Cao học Phật giáo tại Nhật Bản. Gia cảnh: Con út trong số 8 người con gồm 5 trai và 3 gái; Thân phụ: Ông Lê Quyên, pd: Thị Tế, Thân mẫu: Bà Hồ thị Khéo, pd: Thị Sắc. Người anh thứ bảy đã xuất gia đầu Phật năm 1958 tại chùa Non Nước, Đà Nẵng. Hiện là Hòa Thượng Thích Bảo Lạc, Hội Chủ Giáo Hội PGVNTN Hải Ngoại tại UĐL-TTL, Phương Trượng Tự Viện Pháp Bảo tại Sydney, Úc Đại Lợi.
09/04/2013(Xem: 8948)
Tuyển tập Nhạc Phật Giáo do Nhạc Sĩ Hằng Vang (1933-2021) sáng tác
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567