Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Duyên Tôi với xứ Úc

11/07/201809:45(Xem: 10452)
Duyên Tôi với xứ Úc
6. Ht Minh Hieu
 

DUYÊN TÔI VỚI XỨ ÚC

blank
Trong Phật giáo chữ Duyên được dùng rất quen thuộc trong diễn giảng cũng như trong văn tự, như Nhân duyên,nghiệp duyên ,thiện duyên ,ác duyên ,hoá duyên ,kết duyên ,thuận duyên ,nghịch duyên ,hữu duyên ,vô duyên ,tuỳ duyên v.v Tuỳ theo ngữ cảnh kết nối chữ Duyên nói không cùng.

Trong bài viết này tôi tâm đắc nhất với chữ Tuỳ duyên trong 4 câu thơ Thiền của ngài Trần Nhân Tông mà tôi có dịp học khi ngồi ở ghế học viện :

“Cư trần lạc đạo thả tuỳ duyên

Cơ tắc xan hề khốn tắc miên

Gia trung hữu bảo hưu tầm mích

Đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền.”  ( Cư Trần Lạc Đạo )
 
Related image
 
    Chẳng biết có phải vì gần gủi tâm đắc với chữ Tuỳ duyên đó hay không mà Duyên tôi với nước Úc tuần tự trôi chảy hơn 20 năm qua nhẹ nhàng như thế đó... Xin được sơ lược đại duyên tôi đến nước Úc để chia xẻ bài thơ này, vì hơn 20 năm trước khi đặt chân đến xứ Nam bán cầu này , trong tâm tôi 1 du học sinh ở Đài Loan không có mảy may dự tính nên không có gì để dự bị.. đúng với nghĩa tuỳ duyên cho lần đầu tiên đi phi cơ xa nhất trong đời ,đến nơi mình không có dụng tâm nghĩ nhớ hay nghiên cứu trước. Dạo ấy vào năm 1996 khi đang cùng các huynh đệ làm du học sinh tại Đài Loan tôi theo học các lớp Hán văn và các huynh đệ vài vị theo học trong các Phật học viện. Tết âm lịch đến các trường đại học đều cho nghỉ cả tháng để các Sinh viên ngoại quốc có thể về quê ăn tết. Tôi và 1 vị Thầy bạn ở chung không muốn về quê hương VN, nơi hơn 40 năm qua các mùa Xuân rồi ,nên rủ nhau nộp hồ sơ xin vi sa đi thăm nước Mỹ.Do ở Hoa kỳ tôi có Sư phụ là HT Pháp Sư Giác Nhiên,có nhiều huynh đệ đồng môn và có cả chị,anh ruột cùng các cháu.Thế nhưng chữ Duyên này đã khuyết không tròn nên thành thiếu Duyên, 2 huynh đệ hồ hỡi đến sứ quán Mỹ thì bị từ chối ngay lý do đơn giản ( Hộ chiếu VN thì về lãnh sự ở VN xin visa) Trên đường về chỗ trú tôi đề nghị thôi sẵn tiện đường mình ghé sứ quán Úc xin thử, vì nghe đâu Úc châu cũng có chùa Phật giáo Vn và cộng đồng người Việt cũng đông, cho dù không quen ai nhiều mình cũng đi 1 lần cho biết xứ sở phương Tây nếu được phép. Ngờ đâu chữ Duyên đến đây lại biến thành tròn thuận , cả 2 huynh đệ đều được cấp vi sa vào thăm Úc 3 tháng ngay không có đòi hỏi gì thêm nữa.
 

   Thế là chúng tôi hồ hởi lên đường và ăn tết tha hương đầu tiên trong đời tại Melbourne mở ra 1 trang thiện duyên dài hơn 20 năm cho đến giờ đây..

Úc châu trong mắt tôi thật hoàn toàn mới lạ, xinh đẹp ,thơ mộng thanh bình và thân thiện nhanh chóng cuốn hút chúng tôi ,trong 1 tháng nhanh chóng qua mau, thời gian này chúng tôi tranh thủ đi thăm 4 tiểu bang lớn có người Việt ở đông, qua đó có cơ hội gặp lại 1 số Phật tử quen biết từ quê nhà và rất nhiều người chỉ “ Văn kỳ thinh bất kiến kỳ hình” lần này gặp gỡ nhau như nhân duyên từ nhiều kiếp hội tụ lại. Thiện Duyên cửa đạo thi nhau nảy mầm, Pháp Duyên thù thắng kết trái đơm hoa, nhiều Phật tử cùng nhau thỉnh mời tôi trở lại Úc châu để hoằng pháp, hành đạo cùng nhau xây dựng Phật pháp trên đất nước hữu Duyên đáng yêu này và tôi đã hứa khả trước khi tiễn biệt lên phi cơ quay về đảo quốc Đài Loan.
 
       Tôi chưa từng suy nghĩ đến việc ở lại hay đinh cư ở Úc châu, nhưng sau 1 tháng viếng thăm nước Úc và con người , xã hội Tây phương của Úc tôi lại được thả mình trôi theo câu thơ ( Ở đời vui Đạo hãy tuỳ duyên) và cái đại Duyên của tôi trong Phật pháp khi đến xứ sở này mở đầu cho đạo nghiệp của mình là đã được những bậc tôn túc trong Giáo Hội Phật giáo Úc châu thương yêu, gần gũi và giúp đỡ mình như những người cha đón mừng con thơ trở về quê nhà. Đây là những bậc tôn túc đã có mặt trong những tháng năm đầu thành lập Phật Giáo VN trên nước Úc . Đến Melbourne tôi hội kiến Trưởng lão HT Huyền Tôn chùa Bảo Vương ,Ngài cùng tuổi với thân sinh tôi và cùng miền trung thân yêu. Về Nam Úc tôi sung sướng hội ngộ người cha xứ Quảng Ôn Pháp hoa đã từng sống làm việc hoằng pháp nơi tôi đã sinh ra ( Phố Cổ Hội an) Chặng cuối quay về Sydney nơi mở đầu cho Tăng đoàn Minh Quang tôi lại có duyên lành hội diện ôn Pháp bảo, người đã vào đời cạnh dòng Thu Bồn, Duy Xuyên, Hai con sông Thu và sông Hoài của xứ Quảng như cùng nhau hoà về biển lớn Cửa Đại Hội An. Giờ gặp nhau ở đất khách quê người không phải là chữ DUYÊN kỳ diệu tạo nên sao? 
 

    Năm 1998, tôi khai mở TV Minh Quang ở Sydney được ôn Pháp bảo, Vạn Hạnh, cùng chư tôn Đức Tăng ni GH đến chứng minh sách tấn và chúc mừng. Năm 1999 tôi hoà nhập chung vào ngôi nhà Giáo Hội PGVNTN Hải ngoại Úc và Tân Tây lan, để được đóng góp,chia xẻ, học hỏi các bậc tôn túc nhằm xây dựng và phát triển Phật giáo VN tại Úc châu, chữ TUỲ DUYÊN của tôi nơi xứ sở này chớp mắt đã hơn 20 năm và đã được ( Đói ăn, khát uống mệt ngủ liền) những kiến thức phật pháp được nuôi dưỡng và tài bồi, những dòng suối pháp bao dung thương yêu ngọt ngào, và những giấc ngủ an bình tự tại trong các khoá tu học Phật pháp và các khoá tịnh nghiệp An cư mỗi năm cùng đồng hành với Giáo Hội. Thuận duyên của tôi và Tăng đoàn Minh quang từ 1 đến 4 cơ sở ở 4 tiểu bang khắp nước Kangaroo thân yêu, chữ Duyên của tôi đã lăn tròn theo khoá An cư đầu tiên từ tổ đình Pháp Hoa năm 2000 đến nay tròn vẹn lại lần thứ 19 của Pháp Hoa tại Nam úc, rồi lăn tròn theo chữ Duyên sinh của khoá tu học Phật pháp Úac châu lần thứ nhất từ Sydney đi khắp mọi nơi lại tròn vẹn cuối năm nay cũng lại về Nam Úc . Tôi chợt ngộ ra câu :” Gia trung hữu bảo hưu tầm mích “ trong nhà có báu vật đừng tìm kiếm đâu xa, hãy dừng lại hưởng dụng đi. Ngôi nhà Phật pháp và ngôi nhà Giáo hội mà bao năm rồi tôi đã hưởng dụng no ấm, tưới tẩm tốt tươi để trưởng thành pháp khí ..thì cần cầu tìm kiếm cái gì nữa. “ Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền” Bây giờ và ở đây, tại trường Hạ Pháp hoa này, thức tỉnh từng phút giây, an trú trong hiện tại là THIỀN rồi ..

DUYÊN với nước Úc và căn duyên trong cửa Đạo của tôi thật nói không cùng đã được sinh ra và lớn dần theo năm tháng. Nếu không tính toán suy lường,, chỉ cần đói ăn, khát uống , mệt ngủ cho đến lúc thỏng tay. Giữ được 1 lèo đi như thế tôi xin chí thành đảnh lễ sám hối muôn ngàn lần đại thiền sư Trần Nhân Tông, Sơ tổ Trúc Lâm xin đổi lại cái đề tựa cho riêng mình:

“ Cư Úc Châu Lạc Đạo

TK Thích Minh Hiếu viết ngày Bố tát 29/5/âm lịch khoá An Cư


ht thich minh hieu-9

An Cư lưu bút
 
Hạ về từng đóa sen vươn
Nâng lên gót Phật ngát hương thế trần
Chuông khuya tỉnh giấc phù vân
Lời kinh vô tự sáng ngần sương đêm.
Ai về nhặt lá bên thềm
Kết thuyền Bát Nhã xa miền phù vân
Bát cơm Hương tích tinh trong
Hả hê thiền vị ngọt dòng Tào Khê
Chưa từng đi sao lại về
Chân tâm bản thể đâu hề đổi thay..
Trần gian tìm mãi gót hài
Sắc không tự tại Như Lai mỉm cười..
Ngoài sân vàng lá vẫn rơi
Ngàn xưa huyễn cảnh chưa rời tự tâm
Bước chân từ tạ âm thầm
Thỏng tay gieo hạt pháp âm hững hờ
Cho thiền môn hóa nguồn thơ
Cho Hạ trường hóa bến bờ thanh lương
 
Trường Hạ Pháp Hoa 10/7/2018
Nguyệt Tử Khách Thích Minh Hiếu
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/06/2011(Xem: 8315)
Ngài họ Nguyễn húy là Hữu Kê, dòng họ của Đại thần Nguyễn Trãi. Nguyên quán thuộc Tông sơn Gia miêu Ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa. Ngài thọ sanh năm Nhâm Tý (1912), tại làng Nguyệt Biều, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Vốn thọ sanh trong gia đình vọng tộc, quý phái, thích lý luận Nguyễn Hữu Độ.
24/06/2011(Xem: 5368)
Ngài Mật Thể, pháp danh Tâm Nhất, pháp tự Mật Thể, tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 ở làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, thuộc dòng Thích Lý của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài qui hướng đạo Phật, cụ thân sinh và người anh ruột đều xuất gia.
23/06/2011(Xem: 5833)
Đọc Thánh Đăng Ngữ Lục, do Sa môn Tánh Quảng, Thích Điều Điều đề tựa trùng khắc, tái bản năm 1750, ta thấy đời Trần có năm nhà vua ngoài việc chăn dân, họ còn học Phật, tu tập và đạt được yếu chỉ của thiền, như vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông. Và sự chứng ngộ của các Thiền sư đời Trần thì không thấy đề cập ở sách ấy, hoặc có đề cập ở những tư liệu khác mà hiện nay ta chưa phát hiện được, hoặc phát hiện thì cũng phải tra cứu và luận chứng dài dòng rồi mới kết đoán ra được.
23/06/2011(Xem: 6806)
Đọc sử Phật giáo Việt Nam, hẳn chúng ta đều biết nước mình có một ông vua đi tu ngộ đạo, đó là vua Trần Nhân Tông. Ngài làm vua trong thời gian nước nhà đang bị quân Mông Cổ đem đại quân sang xâm lấn nước ta lần thứ ba.
22/06/2011(Xem: 7473)
Trong sáu thập niên qua, TIME đã không ngừng ghi chép lại những vinh quang cùng khổ nhọc của Á châu. Trong số đặc biệt kỷ niệm thường niên hôm nay, chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng của mình đến những nhân vật nổi bật đã góp phần vào việc hình thành nên thời đại chúng ta. Những thập niên xáo động nhất của một lục địa đông dân nhất trên trái đất này đã sản sinh ra hàng loạt những nhân vật kiệt xuất. Trong sáu mươi năm qua, kể từ khi TIME bắt đầu cho xuất bản ấn bản Á Châu, chúng tôi đã có cái đặc ân là được gặp gỡ đa số những nhân vật ngoại hạng này –theo dấu cuộc vận động hay trên chiến trường, trong phòng hội hay trong phòng thí nghiệm, tại cơ sở sản xuất hay tại phim trường.
16/06/2011(Xem: 5044)
Tôi có duyên lành gặp được ngài một lần khi ngài đến thăm Hòa thượng chùa Đông Hưng, bổn sư của tôi, cũng là y chỉ sư của Hòa thượng Quảng Thạc, một để tử xuất gia của ngài khi còn ở đất Bắc. Cung cách khiêm cung, ngài cùng Hòa thượng tôi đàm đạo về quá trình tu tập cũng như Phật học, hai ngài đã rất tâm đắc về chí nguyện giải thoát và cùng nhau kết luận một câu nói để đời : “Mục đích tu hành không phải để làm chính trị”. Cũng câu nói này, khi chia tay chư tăng miền Nam, ngài đã phát biểu với hàng pháp lữ Tăng ni đưa tiễn. Khi sưu tập tư liệu về cuộc đời của ngài, tôi may mắn gặp được các bậc tri thức cao đồ của ngài kể lại. Nay, nhân có cuộc hội thảo về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Bắc và công hạnh của ngài, tôi xin được góp thêm đôi điều.
14/06/2011(Xem: 6482)
Thiền sư PHÁP THUẬN (Bính Tý 918): Thiền sư đời Tiền Lê, thuộc dòng thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu Chi, không rõ gốc gác quê quán và tên thật, chỉ biết rằng Sư họ Đỗ, xuất gia từ thuở nhỏ ở chùa Cổ Sơn (Thanh Hóa), sau theo học đạo Thiền sư Phù Trì ở chùa Long Thọ, nổi tiếng là uyên thâm đức độ. Tương truyền rằng chính Sư đã dùng nghệ thuật phù sấm, làm cố vấn giúp vua Lê Đại Hành nắm quyền bính, dẹp yên được hỗn loạn trong triều cuối đời nhà Đinh, được vua Lê vô cùng trọng vọng. Năm 990 niên hiệu Hưng Thống thứ 2, Sư không bệnh mà viên tịch, thọ 76 tuổi, để lại cho đời các tác phẩm: “Bồ Tát sám hối văn”, “Thơ tiếp Lý Giác”, và một bài kệ.
14/06/2011(Xem: 6463)
• Thiền sư Chân Không(Bính Tuất -1046): Sư họVương, thế danh Hải Thiềm, quê quán ở làng Phù Đổng (nay là Tiên Sơn-Bắc Ninh), xuất thân trong một gia đình quý tộc. Lúc thân mẫu của ông mang thai, cha ông nằm mộng thấy một vị tăng Ấn Độ trao cho cây tích trượng, sau đó thì ông ra đời. Mồ côi cha mẹ từ thuở niên thiếu, ông siêng chăm đọc sách không màng đến những chuyện vui chơi. Năm 20 tuổi ông xuất gia, rồi đi ngao du khắp nơi để tìm nơi tu học Phật Pháp. Nhân duyên đưa đẩy cho Sư đến chùa Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu (Gia Lương-Hà Bắc), nghe Thiền sư Thảo Nhất giảng kinh Pháp Hoa mà ngộ đạo, được nhận làm đệ tử, sớm tối tham cứu thiền học, và được sư thầy truyền tâm ấn, thuộc dòng thiền Tì-ni-đa Lưu -chi, thế hệ thứ 16. Sau, Sư lên núi Phả Lại, trại Phù Lan (nay thuộc huyện Mỹ Văn-Hưng Yên) làm trụ trì chùa Chúc Thánh, ở suốt 20 năm không xuống núi để chuyên trì giới luật, tiếng thơm đồn xa đến cả tai vua.
13/06/2011(Xem: 14360)
Ôi, trong giáo pháp Phật đà của ta, việc trọng đại nhất là gì ? Con người sinh ra không từ cửa tử mà đến, chết không vào cửa tử mà đi. Thế nên người nằm non ở tổ, bỏ ngủ quên ăn, chẳng tiếc thân mạng, đều vì việc lớn sinh tử. Ở thời giáo suy pháp mạt này mà có người vì việc lớn sinh tử như Hòa thượng Liễu Quán, thật là hy hữu.
05/06/2011(Xem: 13100)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]