Điếu Văn kính tiễn Huynh Trưởng Tâm Nghĩa – Lê Hữu Đàng Chủ Nhật 28/1/2018
Hỡi ơi ! San Jose trăng khuyết, Dưỡng Mong non mòn. Vô thường tấn tốc, Khổ tập liên miên. Câu mê ngộ rành rành lẽ đạo, Chữ sắc không rốt ráo Tâm Kinh.
Nhớ linh xưa! Tánh tình cương trực, Hòa nhu vui vẻ. Tiếp nối tiền nhân anh đi quân ngũ, rạng Tông môn, Kế thừa dòng dõi anh vào cửa đạo, soi Phật tánh. Đông qua Hạ về, nghe tiếng khổ sớt chia người khốn đốn, Thu đến Xuân sang, quán từ bi thương xót kẻ tai nàn.
Nhớ hôm nào! Khai khóa trại anh cùng đoàn sinh, tiếng hát, trò chơi, câu chuyện kể âm vang, cùng huynh đệ sớt chia những ngọt bùi cay đắng, Kiên trì lý tưởng, tinh tấn anh thực hành Bi, Trí, Dũng. Tâm Nghĩa ngôi huynh trưởng, Anh luôn vì các em thân yêu. Lê Đàng đấng cha già, Bóng hình xưa giờ xa cách.
Ôi! Vô thường mời gọi, Cách biệt thân tình. Hoa phiền cỏ thảm, Gió tủi trăng nghiêng. Mắt ướt đầm lụy đổ thương anh, Lời khấn nguyện kiền thiền rốt ráo. Xin nhiếp tâm kính nguyện Linh nương mây tịnh thổ cao đăng cảnh Phật, Đốt nén tâm hương, hiển linh xin chứng giám.
Tỳ Kheo Ni Tiến Liên
Anh Tâm Nghĩa - ảnh Nguyên Phú
CỘI TÙNG GIỮA RỪNG LAM
Bao nhiêu năm sinh hoạt
Với Phật tử áo Lam
Vẫn miệt mài tận tụy
Vun bồi hạt giống Lam
Vẫn nhẹ nhàng thư thái.
Vẫn từ tốn thảnh thơi
Trung kiên với đạo pháp
Bốn tâm lớn để đời.
Ung dung về cõi Phật
Trong tiếng kệ câu kinh
Tình thương Ba La Mật
Quyện lời kinh Quang Minh
Anh đi Mây qua núi
Anh đi Hạc qua sông
Tâm có trước trời đất
Thân có sau đất trời
Anh về miền Vô sự
Thân tâm hoá đất trời!
Kính tiễn anh về Cõi Tây Phương Cực Lạc.
Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật
Tâm Thường Định
Vài lời gửi Anh
Nhẹ rơi một cánh sen Lam ,
Ra di, để lại , vô vàng luyến thương .
Dẫu rằng hai chữ vô thường ,
Sao nghe mặn đắng , vấn vương nỗi lòng .
Những ngày xuôi ngược Bắc, Nam
Xe chung một chuyến , nghỉ chung một phòng
Bao năm sinh hoạt bên Anh ,
Nụ cười vẫn nở , tâm lành vẫn tươi ,
Bây giờ, Anh bỏ cuộc chơi ,
Em đành kính gửi vài lời tiển Anh .
Quảng Minh
Kính Tiễn Anh
Anh Đàng thôi khoát áo lam
Về miền cực lạc ưu đàm ngát hương
Ta bà vốn cảnh vô thường!
Nhưng anh còn mãi tình thương lục hòa.
Nụ cười thỏa mái vang xa,
Nghe như câu kệ Di Đà Nam mô.
Ao sen thất bảo lộ đồ,
Nguyện đem thân giáo anh tô cuộc đời,
Bi Trí Dũng Tuệ muôn nơi,
Anh hành Bồ tát như lời Hoa Nghiêm,
“Chúng sanh tham ái đắm chìm”
“Áo lam ôm ấp con tim mê mờ”
Tâm Nghĩa như một bài thơ,
Quan Âm Thế Chí đang chờ đợi anh.
Công viên cấp Dũng tu hành,
Thiên Đàng hữu lộ vãng sanh Niết bàn.
A Di Đà Phật
Kính Tiễn Anh
Nguyễn Hồng Dũng
Anh về Cõi Tịnh Mái tóc trắng, anh trọn đời Huynh Trưởng,
'Vậy là đã 700 năm, 7 thế kỷ trôi qua từ khi Đức Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông viên tịch, thể nhập vào niết bàn an nhiên tự tại. Cả dân tộc Việt Nam đều được biết đến Ngài là một bậc quân vương anh minh của đất nước Đại Việt, mà cũng là một vị Sơ Tổ của dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử. Nói đúng hơn, Ngài là một vị “Vua Phật” của Việt Nam.
"Vì sao Thượng hoàng Trần Nhân Tông không ở lại Vũ lâm hay lựa chọn một nơi nào khác trên đất nước Đại Việt mà lại chọn Yên Tử để tu hành?" - Câu hỏi được phần nào lý giải trong tham luận của Nguyễn Trần Trương (Phó Ban Dân tộc tỉnh Quảng Ninh) trong Hội thảo tưởng niệm 700 năm ngày Đức vua
Nói đến tinh thần "Hòa quang đồng trần" tức là nói đến tinh thần nhập thế của đạo Phật, lấy ánh sáng của đức Phật để thắp sáng trần gian, “sống trong lòng thế tục, hòa ánh sáng của mình trong cuộc đời bụi bặm”, và biết cách biến sứ mệnh đạo Phật thành lý tưởng phụng sự cho đời, giải thoát khổ đau cho cá nhân và xã hội. Thời đại nhà Trần và đặc biệt vua Trần Nhân Tông (1258-1308) đã làm được điều này thành công rực rỡ, mở ra trang sử huy hoàng cho dân tộc.
Hòa thượng Thích Bích Lâm, nguyên Phó Viện trưởng Viện Hoằng đạo, Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam; nguyên Chánh Đại Diện GHPGCT Trung phần, Tổ thứ 3 Tổ đình Nghĩa Phương, Tổ Khai sơn các chùa thuộc Tông phong Tổ đình Nghĩa Phương, Tông trưởng Tông phong Tổ đình Nghĩa Phương (1921 - 1972).
Hòa Thượng Thích Đạt Hảo, Hòa thượng Thích Đạt Hảo thế danh Lê Văn Bân, pháp danh Tánh Tướng, pháp hiệu Đạt Hảo, sanh năm Đinh Tỵ (1917), tại ấp Bình Hữu, xã Đức Hòa Thượng, huyện Đức Hòa, tỉnh Gia Định (1). Sư là con út trong gia đình có 6 anh chị em, 2 người trai bốn người gái; đặc biệt cả nhà có 8 người đều lần lượt xuất gia tu hành:
-Phụ thân Lê Văn Bộn (1876- 1943), pháp danh Tánh Từ, pháp hiệu Đạt Bi.
-Mẫu thân Ngô Thị Cờ (1884-1941), pháp danh Tánh Niệm, pháp hiệu Đạt Phật.
-Chị thứ 2 Lê Thị Tình (1901-1970), pháp danh Tánh Hóa, pháp hiệu Đạt Đạo.
-Chị thứ 3 Lê Thị Ưa (1904- ?) pháp danh Tánh Viên, pháp hiệu Đạt Thông.
-Chị thứ 4: Lê Thị Luận (1907- ?), pháp danh Tánh Minh, pháp hiệu Đạt Quang.
Chị thứ 5 Lê Thị Nghị (1909- ?), pháp danh Tánh Hồng, pháp hiệu Đạt Tâm
-Anh thứ 6 Lê Văn Kỉnh (1915-1962), pháp danh Tánh Kỉnh, Pháp hiệu Đạt Xương.
-Em út là Hòa thượng Thích Đạt Hảo.
Thiền sư húy thượng NGUYÊN hạ BÀNG - ĐẠI NGUYỆN tự CHÍ NĂNG hiệu GIÁC HOÀNG , thế danh LÊ BẢN, sinh năm Canh Dần 1950, tại thôn An Ngãi, xã Nhơn An huyện An Nhơn tỉnh Bình Định. Ngài sinh trong một gia đình nhiều đời sùng kính Tam Bảo. Thân phụ: Cụ ông LÊ TRÀ, thân mẫu: Cụ Bà TRẦN THỊ TÁM. Ngài là anh cả trong gia đình gồm có năm người con.
Vua Lê Đại Hành mất vào năm 1005, các hoàng tử tranh giành ngôi vua tạo nên cảnh khổ đau tràn ngập cho Dân Tộc, bên trong bị nội loạn, bên ngoài bị ngoại xâm đe dọa. Trước những thảm trạng đen tối u ám và đầy dẫy những thống hận đó, Vạn Hạnh thiền sư xuất hiện như một thứ ánh sáng phi thường quét sạch vùng trời giông tố để đưa vận nước bước vào thời đại huy hoàng thịnh trị.
Trận chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Vương Quyền năm 939 là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử dựng nước của Việt Nam. Ngọn sóng Bạch Đằng Giang đã cuốn trôi đi nỗi đau nhục của người dân nô lệ, nhận chìm tham vọng của nòi Hán áp đặt lên đất nước ta trong suốt một ngàn năm. Từ đây Việt Nam không còn là một huyện lỵ của người Hán, từ đây một quốc gia đúng nghĩa đã xuất hiện dưới vòm trời Đông Á.
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường, nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.
May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland, Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below, may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma, the Land of Ultimate Bliss.
Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600 Website: http://www.quangduc.com
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.