Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vượt lên hoài niệm vô thường…

10/02/201705:50(Xem: 5777)
Vượt lên hoài niệm vô thường…

Vượt lên hoài niệm vô thường…

Hoài niệm cuộc đời là những kỷ niệm thăng trầm biến động, để trở thành động lực hiện tại đến tương lai; nhưng cũng không hoàn toàn hướng thượng, mà lắm khi tồn đọng mặc cảm, tự ty mất đi lý sống thực tại nếu không nỗ lực vươn lên.

Hoài niệm về Đời và Đạo cũng không khác. Hoài niệm đời sống một cá nhân hay tập thể đã và đang xảy ra từ khi con người bắt đầu văn minh tiến bộ. Sự tiến bộ chính là những hoài niệm trở thành kinh nghiệm, được ghi lại, học lại từ kết quả quá khứ, để hoàn chỉnh cải tiến hiện tại. Và đạo, hoài niệm là nỗ lực gìn giữ truyền thống giải thoát mà Đức Phật đã hoằng hóa hơn hai ngàn sáu trăm năm.

Từ khi làn sóng người Việt tha hương đất khách, mang theo không biết bao nhiêu hoài niệm cuộc đời. Những cuộc đời nghiệt ngã tưởng đã chấm dứt ở quê hương khi đặt chân lên đất nước xa lạ, nào ngờ lại tiếp tục đối đầu với bao cay nghiệt của đời sống mới. Trong cuộc ly hương quá cảnh, trước khi đến quốc gia định cư, không ít người đổ lệ chia ly, buộc phải bỏ lại người thân yêu, thương mến... Đó là những ngôi mồ chôn tạm ở vùng đất xa lạ, hay sẽ thành vĩnh viễn cũng không chừng, vì tương lai hãy còn mờ mịt.

Cho đến bây giờ người Việt ly hương đã ổn định, hay vẫn còn đang vất vả an cư! Như thế tại các quốc gia người Việt định cư khắp nơi trên thế giới, hoài niệm mới, ước mong mới vẫn còn, vẫn diễn tiến trong tâm cảm, tâm thức của mọi người không ngừng nghỉ. Bởi vì sao? Vì cuộc sống là vậy! Nơi nào, không gian ở đâu, con người cũng phải tranh đấu, tranh đấu cho gia đình xã hội, tranh đấu miếng ăn, chỗ ở. Nếu may mắn thoát được sự tranh đấu lớn của chiến tranh, mà kết quả phải tha phương hôm nay, thì cuộc chiến ổn định hài hòa với nền văn hóa truyền thống mới vẫn còn là một cuộc chiến nội tâm không phải nhỏ. Và cuộc chiến nào cũng là cuộc chiến, chỉ khác ở mức độ cảm thọ mà thôi.

Với hàng Tăng sĩ đạo giải thoát, cũng vì lý tưởng và phương tiện tự hành, tự hóa đền đáp ân đức Tam Bảo nên cũng ly hương. Không phải ly hương vì cầu sống yên thân, vì miếng ăn chỗ ở. Tất nhiên ổn định hai việc ăn và ở là căn bản, giải quyết được các việc khác; nhưng nó không là tuyệt đối lý sống của người Phật tử xuất gia. Nó chỉ là một vài phần tri ân trong tứ ân, đó là ân chúng sanh, ân quốc gia thầy bạn. Nhưng ân nghĩa đó có thế nào, thì cũng phải trọn vẹn con đường giác ngộ giải thoát, như vậy mới đền đáp được ân đức Tam Bảo.

Cho nên sự ly hương là để thuận duyên hoằng hóa, làm rõ và lan rộng giáo pháp và hình ảnh Thế Tôn, hoặc vì để tránh nghịch duyên giữ gìn Chánh Pháp .

Trong vô số lời dạy của đạo giải thoát có câu “Duy tuệ thị nghiệp”, có nghĩa dành trọn đời sống của một hành giả bằng tư duy Chánh Pháp, và sự thọ nhận tri ân vạn vật hữu tình, vô tình nhiều ít ra sao, cũng không thể đánh mất đi tri kiến giác ngộ chứng đạo giải thoát.

Như thế hoài niệm của người tu sĩ Phật Giáo chỉ là vọng động từ tâm thức hướng cầu giải thoát, chứ không hoài niệm vì hình ảnh kỷ niệm, hay ân tình thầy trò, tông phái. Cho đến hoài niệm giác ngộ giải thoát phải được hiểu theo lý duyên khởi nhân duyên, chứ cũng không phải bám chấp, để sinh ra chấp pháp chấp ngã, ngược lại lời Phật dạy.

Thế thì hoài niệm nếu có của người Phật tử xuất gia, hay cư sĩ tại gia, chỉ là tri ân thuận duyên hành đạo. Hơn nữa ngày nào còn là phàm tục, chưa chứng Thánh quả, việc tri ân hoài niệm vẫn là điều hay đẹp, đạo đức thế gian, sẽ giúp được nhiều người noi theo, mà chính bản thân hành giả không rơi vào phân biệt khi hành pháp.

Chúng tôi có đôi lời phân giải như trên, đó cũng chính là hoài niệm và tri ân những bậc tiền bối, những vị tăng sĩ tiền nhân của nhiều thời đại trước và cũng ngay trong thời đại này. Hơn ba thập niên qua, hàng tu sĩ xuất gia rời khỏi quê hương, mang hình ảnh Tăng Già, mang sắc thái văn hóa Phật Giáo Việt Nam đã có mặt nhiều nơi trên thế giới. Từ Châu Mỹ, Châu Âu đến Châu Úc. Và cho đến nay gần một thập niên trở lại, một số chư vị đã lần lượt ra đi theo luật vô thường. Bản thân chúng tôi hàng Tăng Sĩ trẻ xuất gia hải ngoại hơn hai thập niên qua, cũng chứng kiến và ghi niệm xót xa sự vắng bóng nhiều vị tôn túc.


HT Nhu Hue
Tác giả cùng quý Sư Cô, Phật tử Chùa Pháp Bảo về thăm Hòa Thượng
trước 3 tuần Ngài viên tịch (tháng 6-2016)



Nay đến Hòa Thượng Thích Như Huệ, Ngài là cố Hội Chủ GHPGVNTN Hải Ngoại tại Úc Đại Lợi – Tân Tây Lan, chính thức ra đi đã gần một năm. Hòa Thượng là một trong những tăng sĩ đến Úc sớm nhất trong đầu thập niên 80. Ngài không chỉ gần gũi gắn bó tình huynh đệ với Thầy Bổn Sư Chúng tôi, mà đối với đạo tràng tu học chùa Pháp Bảo thì năm nào Thầy cũng có mặt. Ngài tham dự không phải để chứng minh, mà còn hướng dẫn tu học; khi sức khỏe không còn tốt nữa thì Thầy chỉ còn dự khai mạc, hoặc bế mạc; và vài năm trước khi mất Hòa Thượng tỏ ra buồn tiếc vì thân bệnh già yếu không còn tham dự thăm viếng đạo tràng khóa tu Gieo Duyên nữa.

Nhớ lại khi nghe tin Ngài sắp mất vì bệnh nan y, chỉ còn khoảng 1 tháng nữa; Tăng Ni Chúng Phật tử cư sĩ Tự viện Pháp Bảo có đến lễ thăm Hòa Thượng. Khi chúng tôi bước vào Trai Đường nhìn thấy Thầy, đang nhờ người giúp mặt áo tràng vào để tiếp khách; với chúng tôi tuổi đời và đạo chỉ là hàng con cháu, mà Ngài cũng trịnh trọng nghi cách, khiến tôi cảm thấy cảm động. Nhất là sắc diện của Thầy hoàn toàn đổi khác, hiện báo cho biết ngũ uẩn sắp suy tàn. Và cảm động hơn nữa là Thầy vẫn không hề biết cơn bệnh Thầy sẽ không qua khỏi ít tháng nữa. Tuy nhiên Thầy vẫn sáng suốt thăm hỏi sinh hoạt chùa viện. Hầu chuyện trà nước với Thầy không lâu, chúng tôi xin thỉnh Thầy vào phòng Tổ trước lễ lạy, sau lưu lại hình ảnh cuối của Thầy!



Hôm nay cận ngày Tiểu Tường của Hòa Thượng, chúng con xin dâng lên vài lời thô thiển để hoài niệm tri ân Ngài, đã để lại một ít tình thâm với Đạo Tràng Pháp Bảo, và một hình dáng vị tu sĩ cao niên, cho hàng hậu học thâm hiểu giáo nghĩa vô thường của chân lý Khổ Tập Diệt Đạo. Cầu nguyện, thế gian dù sinh diệt, nhưng người thực hành Chánh Pháp vẫn mãi mãi xuất hiện ở thế gian. Cầu nguyện Hòa Thượng sẽ tùy duyên hội nhập Ta Bà thuận duyên hoằng hóa.

Thiền Lâm Pháp Bảo, đầu Xuân Đinh Dậu 2017

Kính bái Giác Linh Hòa Thượng.

Đệ tử Thích Phổ Huân.

 

Xem bài cùng 1 tác giả:

n4-lopb-tphohuan-3

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/08/2012(Xem: 6792)
Kính bạch Sắc tứ Thập Tháp Tổ đình, Tân tịch trụ trì Thích Kế Châu, Đại lão Hòa thượng giác linh, tác đại chứng minh. Hôm nay, chúng tôi là những Pháp huynh, Pháp đệ thuộc dòng pháp Chúc Thánh, Tổ đình thứ hai Quảng Nam, và dòng pháp Thiền Tôn, Tổ đình thứ ba – Huế, tại Bình Định, và cũng là con cháu tám, chín đời dòng pháp Thập Tháp – Tổ đình thứ nhất, thuộc dòng pháp Thiên đồng Trung quốc tại Việt nam. Giờ này, tất cả chúng tôi đã vân tập đông đủ trước linh đài trang nghiêm, đau buồn này để làm lễ tiễn đưa kim quan Cố Đại lão Hòa thượng vào “BẢO THÁP MẬT TÀNG”, nghìn thu an nghỉ. Kính bạch Tân tịch Đại lão Hòa thượng giác linh! Trước hết, tại nơi đây, tất cả chúng tôi: Chí thành đến trước linh tòa, Cung kính dâng lên pháp cúng Kinh diên tán tụng,
04/08/2012(Xem: 6492)
Hòa thượng Thích Duy Lực, pháp danh Duy Lực, pháp tự Giác Khai, nối pháp thiền phái Lâm Tế. Ngài thế danh La Dũ, sinh ngày 5 tháng 5 năm Quý Hợi 1923, nhằm Trung Hoa Dân quốc thứ 12, tại làng Long Yên, huyện Phong Thuận, phủ Triều Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc; thân phụ là cụ ông La Xương, thân mẫu là cụ bà Lưu Thị. Ngài sinh trưởng trong một gia đình chuyên nghề nông trang, quy kính Tam bảo. Năm Mậu Dần 1938, Ngài được 16 tuổi, vừa học xong tiểu học thì phải lên đường theo cha sang Việt Nam sinh sống. Khi mới sang, gia đình Ngài dừng chân ở Cần Thơ lập nghiệp; trong những lúc rỗi rảnh Ngài thường tranh thủ tự học thên Hoa văn và quốc ngữ Việt Nam.
20/07/2012(Xem: 8105)
Thiền sư Bạch Ẩn Huệ Hạc (1685–1768) là vị Tổ trung hưng thiền Lâm Tế tại Nhật Bản. Xa rời phương thức đánh hét cùng các ngôn ngữ siêu tuyệt, Ngài cố công diễn tả Thiền bằng ngôn ngữ dễ hiểu để tầng lớp bình dân có thể hiểu được.
19/07/2012(Xem: 5611)
Qua hàng ngàn năm Lịch sử của Dân tộc, hơn 2000 năm có mặt trên đất nước, Phật giáo đã đóng góp cho Tổ quốc một thời gian dài trên dưới 400 năm an bình thịnh vượng, chưa nói đến những thời đại riêng lẻ ngắn ngủi.
03/07/2012(Xem: 10293)
Hòa Thượng Thích Trí Tịnh, thế danh Nguyễn Văn Bình, sinh ngày 02 tháng 09 năm Đinh Tỵ (17-10-1917), tại làng Mỹ An Hưng (Cái Tàu Thượng) huyện Châu Thành, tỉnh Sa Đéc (Đồng Tháp).
30/06/2012(Xem: 8917)
Thành Kính Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Giác Lâm (1928 - 2012)
24/06/2012(Xem: 11740)
Kính lạy tôn dung Ngài Con xin tìm lại dấu xưa 39 năm, hai thế kỷ sao vừa Nín thở, lặng yên, đọc từng con chữ
12/06/2012(Xem: 4981)
Hòa thượng họ Đỗ, huý Châu Lân, sinh năm 1927 (Đinh Mão) tại thôn Quan Quang, xã Nhơn Khánh, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Thân phụ là cụ ông Đỗ Hoạch, và thân mẫu là cụ bà Trần Thị Tú. Gia đình gồm năm người con, hai trai và ba gái; Hòa thượng Thích Đỗng Quán thứ ba, và Ngài là thứ tư. Gia đình Ngài đời đời thuần tín Tam bảo. Cha mất sớm, được mẹ chăm lo dạy dỗ. Với bẩm tánh thông minh và hiếu học, năm 11 tuổi Ngài thi đậu bằng Yếu lược. Việc này chưa xảy ra ở vùng quê của Ngài nên đích thân ông Lý trưởng đến thăm và chúc mừng. Đó là một vinh dự cho gia đình và quê hương Ngài lúc bấy giờ.
11/06/2012(Xem: 5085)
Sự nghiệp thiền sư Tăng Hội rất lớn lao. Nhờ vào những trước tác của Thầy mà ta biết được hành tướng của sự thực tập thiền tại trung tâm Luy Lâu Việt Nam và tại trung tâm Kiến Nghiệp Trung Quốc ngày xưa. Tư tưởng thiền của thầy Tăng Hội là tư tưởng thiền Đại Thừa, đi tiên phong cho cả tư tưởng Hoa Nghiêm và Duy Thức Bao giờ các chùa Việt Nam sẽ thờ tổ Khương Tăng Hội Hiện nay chúng ta đang ở thế kỷ XXI với nền văn minh rực rỡ, với nhiều thiết bị hiện đại, với mức sống rất cao, với vốn hiểu biết rất thien su khuong tang hoi.jpg
10/06/2012(Xem: 13279)
Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Chơn, thế danh Trương Xuân Bình, sinh ngày 20 tháng 11 năm 1933 (Quý Dậu) tại Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Việt Nam, là con thứ sáu trong một gia đình mười hai anh chị em. Thân sinh của Cố Trưởng Lão Hoà Thượng là cụ Trương Xuân Quảng, mất năm 1945, nguyên quán làng Kim Thành, quận Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, làm quan dưới thời Pháp thuộc, được bổ nhậm chức Kiểm Học (tương đương với Trưởng Ty Nha Học Chánh dưới thời các chính phủ quốc gia sau này) tỉnh Bình Thuận năm 1933 – 1939, và Đốc Học tỉnh Quảng Ngãi năm 1940 – 1945. Nhờ túc duyên với Phật Pháp, nên đến năm 1950, Cố Trưởng Lão Hoà Thượng đến Chù
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567