Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Điếu văn Tưởng Niệm

10/08/201515:56(Xem: 7691)
Điếu văn Tưởng Niệm


Le Nhap Kim Quan_HT Giac Nhien (19)
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO TĂNG GIÀ KHẤT SĨ THẾ GIỚI

VIỆN HÀNH ĐẠO – TỔ ĐÌNH MINH ĐĂNG QUANG

-----------------------------------

ĐIẾU VĂN TƯỞNG NIỆM
CỐ TRƯỞNG LÃO HÒA THƯỢNG PHÁP CHỦ THÍCH GIÁC NHIÊN



- Pháp tử Tổ Sư Minh Đăng Quang

- Pháp chủ GHPG Tăng già Khất sĩ Thế giới tại Hoa Kỳ;

- Nguyên Viện trưởng Viện Hành đạo Giáo hội Tăng già Khất sĩ Việt Nam;

- Nguyên Trưởng Giáo đoàn IV Hệ phái Khất sĩ;

- Viện chủ khai sơn Tổ đình Minh Đăng Quang, Santa Ana, California;

- Viện chủ Viện Truyền Thống Minh Đăng Quang, Westminster, California;

 - Viện chủ khai sơn Pháp viện Minh Đăng Quang, quận 2, Sài Gòn; Việt Nam.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Kính lạy chư Phật Pháp Tăng mười phương ba đời

Kính lạy Đức Tổ sư Minh Đăng Quang

Kính lạy Giác linh Trưởng lão Hoà thượng Pháp Sư Thích Giác Nhiên tân Viên tịch

Đại diện dân biểu thành phố Santa Ana, thành phố Westminster

Kính thưa Ban Tổ chức Tang lễ

Kính thưa Thiện Nam, tín nữ Phật tử

 

Ngưỡng bạch Giác linh Trưởng lão Hòa thượng,

Hỡi ôi!

Vầng nguyệt đã lặn mây!

Hoa đàm vừa rụng suối!

Đất Pháp hôm nay trãi nắng vàng,

Hoa Nghiêm cảnh vật đượm màu tang,

Thầy đà yên nghĩ nghìn thu giấc,

Ngơ ngác chúng con lạc mất đàn!

Trong giờ phút nghìn thu vĩnh biệt, trước khi cử hành Lễ cung tống kim qua Trưởng lão Hòa thượng trở về Việt Nam, chúng tôi xin được thay mặt Ban Tổ chức Tang lễ, Môn đồ Pháp quyến có đôi lời ai điếu tưởng niệm Ân sư.

Kính bạch Giác linh Thầy,

Từ vùng đất địa linh nhân kiệt, Trấn Giang – Tây Đô một thuở vang danh, vùng đất mới một thời lập nghiệp, xứ Cần Thơ một đời thọ mạng, Trưởng lão đã hiện thân hiền sĩ, giữa phàm trần không nhiễm hồng trần. Thuở ấu niên, Phật pháp một lòng, tâm cầu học đạo, chí xuất trần ươm mầm giải thoát. Năm 8 tuổi cụ Thân Sinh lìa trần thế, ngài phát nguyện quy y đầu Phật, đức tôn sư Minh Trí ban Pháp hiệu Minh Châu. Năm 16 tuổi xuân xanh tròn, thọ giáo Đại Lão Hòa Thượng Minh Phụng, ban Pháp hiệu Tánh Chơn.

 

Nước sông Mê Kông Cần Thơ thao thao dòng Phật thủy,

Rồi đến độ nhân duyên hội đủ,

Tình Thầy Trò khế hợp cơ duyên,

Trong sắc thắm Huỳnh y giải thoát,

Quyết chí xuất trần,

Thực hành phạm hạnh,

Năm một chín năm mốt (1951),

Tầm cầu học đạo,

Thọ giáo ân đức Tổ sư,

Ban Pháp danh Khất sĩ Giác Nhiên.

Căn lành thiện trí uyên nguyên,

Minh Đăng Quang khai dòng Khất sĩ,

Đạo Khất sĩ nối truyền Thích Ca Chánh Pháp,

Thật hành theo hạnh du sĩ tha phương,

Mượn Y - Bát để làm phương giáo hóa,

 

Quả thật:

“Bậc hiền nhân đã dự vào dòng sử Phật,

Như Hạc vàng cất cánh nhàn du”.

Kể từ đó, theo đức Tổ Sư đi hành đạo khắp mọi nơi. Mảnh Cà sa bình bát một thân, hành trì hạnh Du Tăng Khất sĩ, Tăng vô nhất vật, hạnh nguyện ba đời mời phương chư Phật, pháp giới là nhà, chúng sanh là quyến thuộc. Quyết chí xuất trần thượng sĩ, nêu cao gương xả kỷ và vị tha, thực hành hạnh nguyện lợi tha.  

Đạo vàng một thưở nở trăm hoa,

Kế tiếp truyền thừa,

Phụng mệnh Tổ sư truyền trì Tổ Đạo,

Làm cho Tăng đoàn hòa hợp,

Pháp Khất sĩ tăng huy,

Sài Gòn xưa, khai sáng Pháp Viện Minh Đăng Quang,

Đạo vàng xán lạng,

Tứ chúng đồng tu,

Lục hòa cộng trụ.

Cho đến khi Tôn Sư vắng bóng;

Tiếp tục dẫn đoàn du Tăng Khất Sĩ Vân du,

Đi hành đạo khắp nơi nơi xứ xứ,

Khai mở thêm 30 ngôi Tịnh xá,

Hơn một nữa miền Nam đất Việt,

Đến tận miền Mỹ, Úc, Âu châu,

Thành phố Santa Ana,

Tổ đình Minh Đăng Quang khai mở,

Giáo pháp hoằng truyền,

Chúng sanh an lạc,

Đạo thể vuông tròn,

Tâm hồn vô ngã,

Từ bi hỷ xả,

Nhiếp hóa quần sanh,

Thể nhập Chân như,

Ban rãi lòng từ,

Nhiếp Tăng độ chúng,

Lợi lạc vô cùng,

An lành trong Chánh pháp,

Giải thoát trong việc làm,

Vô vi tự tại.

Hỡi ôi!

“Gương xưa biết mấy nhiêu đàng,

Bây giờ xem lại rõ ràng là đây”.

 

Cuộc đời và đạo nghiệp của Trưởng lão đã làm cho những Tăng Ni, Phật tử hữu duyên phát khởi tín tâm, tu hành tinh tấn, vững bền đạo nghiệp, tiến bước trên đường giải thoát, làm cho cõi đời sáng lạng tăng huy. Năm 1960, trên cương vị lãnh đạo Tăng đồ Khất sĩ, được Đại Hội đề cử chức vụ Tổng Trị Sự Trưởng Giáo Hội Tăng Già Khất Sĩ Việt Nam, kiêm Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Tăng Sự, Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Hoằng Pháp và Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Xã Hội. Đến năm 1964, được Đại Hội đề cử chức vụ Viện Trưởng Viện Hành Đạo Trung Ương.

Bằng tinh thần phụng sự chúng sanh là cúng dường Chư Phật, hạnh nguyện vô ngã vị tha Trưởng lão đã để lại cho đời quả pháp vị thanh cao.

Ta-bà, chín mươi ba năm tùy duyên hạnh ngộ,

Tròn 60 năm Hoằng dương Chánh pháp,

Trưởng lão đã trùng hưng giáo pháp,

Lên ngôi vị Pháp chủ cao minh,

Giáo Âm, pháp vị xương minh,

Chốn chốn thắm nhuần cội đức.

Kính dâng Tôn sư Minh Đăng Quang,

Công nếu đắm, lụy tinh thần,

Quyết mở càng khôn, đoạt lý chân,

Đệ tử cam lìa, lìa cội Tử,

Mồ phần cũng biệt, biệt cây Phần,

Say mùi đạo lý, tiêu mùi tục,

azzssNếm vị Thiền Na, mất vị trần,

Trổi gót Ta Bà, dìu dắt chúng,

Muôn loài tán thán đấng siêu nhân.

 

Thế nhưng tưởng trên bước đường Du Tăng Khất Sĩ, thừa hành Phật tại nhân gian, Trưởng lão còn thác tích lâu hơn nữa để lợi lạc khắp quần sanh. Giờ đây nơi cõi trần mây mù giăng phủ, Ngài đi về cõi Niết bàn vô tung bất diệt; Hỡi ôi! một phút vô thường, huyễn thân tạm xả, Ta bà hóa mãn pháp thân, tịnh thổ rụng hoa Ưu đàm, tuỳ duyên ứng hiện, đến đi vô ngại, như những cánh nhạn giữa trời không, Trưởng lão đã an nhiên thâu thần thị tịch, để lại cho đời tiếc nuối ngậm ngùi. Ôi tấm gương đạo hạnh sáng ngời.

Kính bạch Giác Linh Thầy khả kính,

Đài Giác-ngộ, Thế tôn thuyết giáo,

Cõi Ta-bà, Đức Thầy giáo hóa độ nhân sanh,

Cõi an lành:

“Sắc tướng vốn không, mượn cảnh huyễn độ người như huyễn.

Tử sinh nào có, nương thuyền từ độ kẻ trong mê”.

……

Thiền tọa gốc cây hàng huệ sĩ,

Chôn mình trong đất bậc chân nhân.

Nay, chư tôn đức lãnh đạo các cấp Giáo hội và chúng con gập đầu khấp lệ ngậm ngùi bái biệt bậc Thầy hiền khả kính, Phật tử gần xa đều kính thương luyến tiếc, tiễn biệt nhục thân Trưởng lão về đất Mẹ Việt Nam, nơi khởi thủy nền Khất sĩ ngày xưa… Ôi, nghìn thu vĩnh biệt, cúi đầu đảnh lễ Giác linh Trưởng Lão thùy từ chứng giám, an trú Niết bàn, tịnh lạc thường nhiên:

Đất tiên nay nở mạch rồng,

Minh Đăng nay tỏ rạng hồng phương Nam.

…..

“Một cành mà nở trăm hoa,

Bóng y bát đẹp quê ta tự rày,

Chơn truyền Khất sĩ là đây, 

Bóng xưa với lại hình này dặm không”.  (Ánh Minh Quang)

Thành kính cầu nguyện Giác linh Trưởng lão Hoà thượng đức Pháp chủ Giáo hội Tăng Già Khất sĩ Thế giới thể nhập vô sinh, hội nhập Ta Bà, cùng với hàng Pháp lữ tiếp tục sứ mệnh hoằng dương chánh pháp, phổ độ quần sinh.

  Nam Mô Giác Linh Trưởng lão Hòa thượng Pháp chủ Giác Nhiên thùy từ chứng giám.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/06/2011(Xem: 6012)
Trận chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Vương Quyền năm 939 là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử dựng nước của Việt Nam. Ngọn sóng Bạch Đằng Giang đã cuốn trôi đi nỗi đau nhục của người dân nô lệ, nhận chìm tham vọng của nòi Hán áp đặt lên đất nước ta trong suốt một ngàn năm. Từ đây Việt Nam không còn là một huyện lỵ của người Hán, từ đây một quốc gia đúng nghĩa đã xuất hiện dưới vòm trời Đông Á.
24/06/2011(Xem: 8397)
Ngài họ Nguyễn húy là Hữu Kê, dòng họ của Đại thần Nguyễn Trãi. Nguyên quán thuộc Tông sơn Gia miêu Ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa. Ngài thọ sanh năm Nhâm Tý (1912), tại làng Nguyệt Biều, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Vốn thọ sanh trong gia đình vọng tộc, quý phái, thích lý luận Nguyễn Hữu Độ.
24/06/2011(Xem: 5446)
Ngài Mật Thể, pháp danh Tâm Nhất, pháp tự Mật Thể, tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 ở làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, thuộc dòng Thích Lý của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài qui hướng đạo Phật, cụ thân sinh và người anh ruột đều xuất gia.
23/06/2011(Xem: 5910)
Đọc Thánh Đăng Ngữ Lục, do Sa môn Tánh Quảng, Thích Điều Điều đề tựa trùng khắc, tái bản năm 1750, ta thấy đời Trần có năm nhà vua ngoài việc chăn dân, họ còn học Phật, tu tập và đạt được yếu chỉ của thiền, như vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông. Và sự chứng ngộ của các Thiền sư đời Trần thì không thấy đề cập ở sách ấy, hoặc có đề cập ở những tư liệu khác mà hiện nay ta chưa phát hiện được, hoặc phát hiện thì cũng phải tra cứu và luận chứng dài dòng rồi mới kết đoán ra được.
23/06/2011(Xem: 6880)
Đọc sử Phật giáo Việt Nam, hẳn chúng ta đều biết nước mình có một ông vua đi tu ngộ đạo, đó là vua Trần Nhân Tông. Ngài làm vua trong thời gian nước nhà đang bị quân Mông Cổ đem đại quân sang xâm lấn nước ta lần thứ ba.
22/06/2011(Xem: 7591)
Trong sáu thập niên qua, TIME đã không ngừng ghi chép lại những vinh quang cùng khổ nhọc của Á châu. Trong số đặc biệt kỷ niệm thường niên hôm nay, chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng của mình đến những nhân vật nổi bật đã góp phần vào việc hình thành nên thời đại chúng ta. Những thập niên xáo động nhất của một lục địa đông dân nhất trên trái đất này đã sản sinh ra hàng loạt những nhân vật kiệt xuất. Trong sáu mươi năm qua, kể từ khi TIME bắt đầu cho xuất bản ấn bản Á Châu, chúng tôi đã có cái đặc ân là được gặp gỡ đa số những nhân vật ngoại hạng này –theo dấu cuộc vận động hay trên chiến trường, trong phòng hội hay trong phòng thí nghiệm, tại cơ sở sản xuất hay tại phim trường.
16/06/2011(Xem: 5142)
Tôi có duyên lành gặp được ngài một lần khi ngài đến thăm Hòa thượng chùa Đông Hưng, bổn sư của tôi, cũng là y chỉ sư của Hòa thượng Quảng Thạc, một để tử xuất gia của ngài khi còn ở đất Bắc. Cung cách khiêm cung, ngài cùng Hòa thượng tôi đàm đạo về quá trình tu tập cũng như Phật học, hai ngài đã rất tâm đắc về chí nguyện giải thoát và cùng nhau kết luận một câu nói để đời : “Mục đích tu hành không phải để làm chính trị”. Cũng câu nói này, khi chia tay chư tăng miền Nam, ngài đã phát biểu với hàng pháp lữ Tăng ni đưa tiễn. Khi sưu tập tư liệu về cuộc đời của ngài, tôi may mắn gặp được các bậc tri thức cao đồ của ngài kể lại. Nay, nhân có cuộc hội thảo về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Bắc và công hạnh của ngài, tôi xin được góp thêm đôi điều.
14/06/2011(Xem: 6567)
Thiền sư PHÁP THUẬN (Bính Tý 918): Thiền sư đời Tiền Lê, thuộc dòng thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu Chi, không rõ gốc gác quê quán và tên thật, chỉ biết rằng Sư họ Đỗ, xuất gia từ thuở nhỏ ở chùa Cổ Sơn (Thanh Hóa), sau theo học đạo Thiền sư Phù Trì ở chùa Long Thọ, nổi tiếng là uyên thâm đức độ. Tương truyền rằng chính Sư đã dùng nghệ thuật phù sấm, làm cố vấn giúp vua Lê Đại Hành nắm quyền bính, dẹp yên được hỗn loạn trong triều cuối đời nhà Đinh, được vua Lê vô cùng trọng vọng. Năm 990 niên hiệu Hưng Thống thứ 2, Sư không bệnh mà viên tịch, thọ 76 tuổi, để lại cho đời các tác phẩm: “Bồ Tát sám hối văn”, “Thơ tiếp Lý Giác”, và một bài kệ.
14/06/2011(Xem: 6521)
• Thiền sư Chân Không(Bính Tuất -1046): Sư họVương, thế danh Hải Thiềm, quê quán ở làng Phù Đổng (nay là Tiên Sơn-Bắc Ninh), xuất thân trong một gia đình quý tộc. Lúc thân mẫu của ông mang thai, cha ông nằm mộng thấy một vị tăng Ấn Độ trao cho cây tích trượng, sau đó thì ông ra đời. Mồ côi cha mẹ từ thuở niên thiếu, ông siêng chăm đọc sách không màng đến những chuyện vui chơi. Năm 20 tuổi ông xuất gia, rồi đi ngao du khắp nơi để tìm nơi tu học Phật Pháp. Nhân duyên đưa đẩy cho Sư đến chùa Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu (Gia Lương-Hà Bắc), nghe Thiền sư Thảo Nhất giảng kinh Pháp Hoa mà ngộ đạo, được nhận làm đệ tử, sớm tối tham cứu thiền học, và được sư thầy truyền tâm ấn, thuộc dòng thiền Tì-ni-đa Lưu -chi, thế hệ thứ 16. Sau, Sư lên núi Phả Lại, trại Phù Lan (nay thuộc huyện Mỹ Văn-Hưng Yên) làm trụ trì chùa Chúc Thánh, ở suốt 20 năm không xuống núi để chuyên trì giới luật, tiếng thơm đồn xa đến cả tai vua.
13/06/2011(Xem: 14449)
Ôi, trong giáo pháp Phật đà của ta, việc trọng đại nhất là gì ? Con người sinh ra không từ cửa tử mà đến, chết không vào cửa tử mà đi. Thế nên người nằm non ở tổ, bỏ ngủ quên ăn, chẳng tiếc thân mạng, đều vì việc lớn sinh tử. Ở thời giáo suy pháp mạt này mà có người vì việc lớn sinh tử như Hòa thượng Liễu Quán, thật là hy hữu.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]