Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 445: Phẩm Thuyền Đẳng Dụ 02, Phẩm Sơ Nghiệp 01

21/07/201511:07(Xem: 14204)
Quyển 445: Phẩm Thuyền Đẳng Dụ 02, Phẩm Sơ Nghiệp 01

Tập 09

 Quyển 445

 Phẩm Thuyền Đẳng Dụ 02
Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm
Diễn đọc: Cư Sĩ Chánh Trí


 

 

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các thiện nam, thiện nữ… trụ Bồ-tát thừa, vì sao không có phương tiện thiện xảo tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa mà lại để rơi vào Thanh văn hoặc Độc giác địa, không chứng quả vị giác ngộ cao tột?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Có các thiện nam, thiện nữ… trụ Bồ-tát thừa, từ sơ phát tâm không có phương tiện thiện xảo, nên khi tu bố thí, suy nghĩ như vầy: Ta thường hành bố thí, ta bố thí vật này, người kia nhận vật thí của ta. Khi tu tịnh giới, suy nghĩ như vầy: Ta thường trì giới, ta trì giới này, ta trọn giới này. Khi tu an nhẫn, suy nghĩ như vầy: Ta thường tu nhẫn, ta nhẫn với người kia, ta trọn nhẫn này. Khi tu tinh tấn, suy nghĩ như vầy: Ta thường tinh tấn, ta vì đây tinh tấn, ta trọn tinh tấn này. Khi tu tịnh lự, suy nghĩ như vầy: Ta thường tu định, ta vì đây tu định, ta trọn định này. Khi tu Bát-nhã, suy nghĩ như vầy: Ta thường tu tuệ, ta vì đây tu tuệ, ta trọn tuệ này.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các thiện nam, thiện nữ… trụ Bồ-tát thừa, khi tu bố thí chấp có bố thí này, chấp do bố thí này, chấp bố thí là ngã sở nên sanh kiêu mạn. Khi tu tịnh giới chấp có tịnh giới này, chấp do tịnh giới này, chấp tịnh giới là ngã sở nên sanh kiêu mạn. Khi tu an nhẫn chấp có an nhẫn này, chấp do an nhẫn này, chấp an nhẫn là ngã sở nên sanh kiêu mạn. Khi tu tinh tấn chấp có tinh tấn này, chấp do tinh tấn này, chấp tinh tấn là ngã sở nên sanh kiêu mạn. Khi tu tịnh lự chấp có tịnh lự này, chấp do tịnh lự này, chấp tịnh lự là ngã sở nên sanh kiêu mạn. Khi tu Bát-nhã chấp có Bát-nhã này, chấp do Bát-nhã này, chấp Bát-nhã là ngã sở nên sanh kiêu mạn. Các thiện nam, thiện nữ… trụ Bồ-tát thừa này, chấp chặt ngã, ngã sở, nên khi tu bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa chỉ tăng trưởng sanh tử không thể giải thoát các khổ về sanh v.v... Vì sao? Vì trong bố thí Ba-la-mật-đa không phân biệt như thế, cũng không như kia đã phân biệt. Vì sao? Vì không phải đến bờ bên này, bên kia là tướng bố thí Ba-la-mật-đa. Cho đến trong Bát-nhã ba-la-mật-đa không phân biệt như thế, cũng không như kia đã phân biệt. Vì sao? Vì không phải đến bờ bên này, bên kia là tướng Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện nên biết: Các thiện nam, thiện nữ… trụ Bồ-tát thừa này không biết tướng bờ bên này, bờ bên kia nên không thể nhiếp thọ bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa. Như vậy cho đến không thể nhiếp thọ trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Do đó, nên các thiện nam, thiện nữ… trụ Bồ-tát thừa này rơi vào Thanh văn địa hoặc Độc giác địa, không chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Thiện Hiện! Các thiện nam, thiện nữ… trụ Bồ-tát thừa, không dùng phương tiện thiện xảo như thế, tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa nên rơi vào Thanh văn địa hoặc Độc giác địa không chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là các thiện nam, thiện nữ… trụ Bồ-tát thừa, do có phương tiện thiện xảo của Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa hộ trì nên đủ các công đức, không rơi vào Thanh văn và Độc giác địa, mau chứng quả vị giác ngộ cao tột?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Có các thiện nam, thiện nữ… trụ Bồ-tát thừa, từ sơ phát tâm, lìa chấp ngã, ngã sở tu hành bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa. Các thiện nam, thiện nữ… này khi tu bố thí không suy nghĩ: Ta thường hành bố thí, ta bố thí vật này, người kia thọ vật thí của ta. Khi tu tịnh giới không suy nghĩ: Ta thường trì giới, ta trì giới này, ta đủ giới này. Khi tu an nhẫn không suy nghĩ: Ta thường tu nhẫn, ta nhẫn với kia, ta đủ nhẫn này. Khi tu tinh tấn không suy nghĩ: Ta thường tinh tấn, ta vì đây tinh tấn, ta đủ tinh tấn này. Khi tu tịnh lự không suy nghĩ: Ta thường tu định, ta vì đây tu định, ta đủ định này. Khi tu Bát-nhã không suy nghĩ: Ta thường tu tuệ, ta vì đây tu tuệ, ta đủ tuệ này.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các thiện nam, thiện nữ… này, khi tu bố thí không chấp có bố thí, không chấp do bố thí này, không chấp bố thí là ngã sở. Khi tu tịnh giới không chấp có tịnh giới, không chấp do tịnh giới này, không chấp tịnh giới là ngã sở. Khi tu an nhẫn không chấp có an nhẫn, không chấp do an nhẫn này, không chấp an nhẫn là ngã sở. Khi tu tinh tấn không chấp có tinh tấn, không chấp do tinh tấn này, không chấp tinh tấn là ngã sở. Khi tu tịnh lự không chấp có tịnh lự, không chấp do tịnh lự này, không chấp tịnh lự là ngã sở. Khi tu Bát-nhã không chấp có Bát-nhã, không chấp do Bát-nhã này, không chấp Bát-nhã là ngã sở. Các thiện nam, thiện nữ… này không theo chấp ngã, ngã sở nên việc làm bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa suy giảm sanh tử, mau được giải thoát các khổ về sanh v.v... Vì sao? Vì trong bố thí Ba-la-mật-đa không phân biệt như thế nên không thể khởi chấp này, cho đến trong Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng không phân biệt như thế không thể khởi chấp này. Vì sao? Vì xa lìa bờ bên này, bên kia là tướng bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến là tướng Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện nên biết: Các thiện nam, thiện nữ… trụ Bồ-tát thừa này khéo biết tướng bờ bên này, bờ bên kia, nên thường nhiếp thọ bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa. Như vậy cho đến thường nhiếp thọ trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Do đó nên các thiện nam, thiện nữ… trụ Bồ-tát thừa này, không rơi vào Thanh văn và Độc giác địa, mau chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các thiện nam, thiện nữ… trụ Bồ-tát thừa, làm thế nào để có phương tiện thiện xảo tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa nên không rơi vào Thanh văn và Độc giác địa, mau chứng quả vị giác ngộ cao tột?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Có các thiện nam, thiện nữ… trụ Bồ-tát thừa, từ sơ phát tâm đã có phương tiện thiện xảo, khi tu bố thí không suy nghĩ: Ta thường hành bố thí, ta bố thí vật này, người kia nhận vật ta bố thí. Khi tu tịnh giới không suy nghĩ: Ta thường trì giới, ta trì giới này, ta thành tựu giới này. Khi tu an nhẫn không suy nghĩ: Ta thường tu nhẫn, ta nhẫn với kia, ta thành tựu nhẫn này. Khi tu tinh tấn không suy nghĩ: Ta thường tinh tấn, ta vì đây tinh tấn, ta thành tựu tinh tấn này. Khi tu tịnh lự không suy nghĩ: Ta thường tu định, ta vì đây tu định, ta thành tựu định này. Khi tu Bát-nhã không suy nghĩ: Ta thường tu tuệ, ta vì đây tu tuệ, ta thành tựu tuệ đây.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các thiện nam, thiện nữ… trụ Bồ-tát thừa này khi tu bố thí không chấp có bố thí, không chấp do bố thí này, không chấp bố thí là ngã sở, cũng không kiêu mạn. Khi tu tịnh giới không chấp có tịnh giới, không chấp do tịnh giới này, không chấp tịnh giới là ngã sở, cũng không kiêu mạn. Khi tu an nhẫn không chấp có an nhẫn, không chấp do an nhẫn này, không chấp an nhẫn là ngã sở, cũng không kiêu mạn. Khi tu tinh tấn không chấp có tinh tấn, không chấp do tinh tấn này, không chấp tinh tấn là ngã sở, cũng không kiêu mạn. Khi tu tịnh lự không chấp có tịnh lự, không chấp do tịnh lự này, không chấp tịnh lự là ngã sở, cũng không kiêu mạn. Khi tu Bát-nhã không chấp có Bát-nhã, không chấp do Bát-nhã này, không chấp Bát-nhã là ngã sở, cũng không kiêu mạn. Các thiện nam, thiện nữ… trụ Bồ-tát thừa này không theo chấp ngã, ngã sở, nên việc tu bố thí cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa làm suy giảm sanh tử, mau được giải thoát các khổ về sanh v.v... Vì sao? Vì trong tướng bố thí Ba-la-mật-đa không phân biệt như thế, cũng không như tướng kia đã phân biệt. Vì sao? Vì không phải đến bờ bên này, bờ bên kia là tướng bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến trong tướng Bát-nhã ba-la-mật-đa không phân biệt như thế, cũng không như kia đã phân biệt. Vì sao? Vì không phải đến bờ bên này, bờ bên kia là tướng Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện nên biết: Các thiện nam, thiện nữ… trụ Bồ-tát thừa này khéo biết tướng bờ bên này, bờ bên kia, nên thường nhiếp thọ bố thí, tinh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa; cho đến thường nhiếp thọ trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Do đó nên các thiện nam, thiện nữ… trụ Bồ-tát thừa này không rơi vào Thanh văn và Độc giác địa, mau chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Thiện Hiện! Các thiện nam, thiện nữ… trụ Bồ-tát như thế, có phương tiện thiện xảo tu hành sáu pháp Ba-la-mật-đa, nên không rơi vào Thanh văn và Độc giác địa, mau chứng quả vị giác ngộ cao tột.

 

Tập 09

 Quyển 445

 Phẩm Sơ Nghiệp 01

 

 

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát sơ phát tâm làm thế nào học Bát-nhã, tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Đại Bồ-tát sơ phát tâm, nếu muốn tu học Bát-nhã, tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa, trước nên thân cận thừa sự, cúng dường chơn thiện tri thức giỏi tuyên nói Bát-nhã, tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa. Nghĩa là khi thuyết, dạy bảo, truyền trao kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, Đại Bồ-tát sơ phát tâm nói: Thiện nam tử đến đây, ông hãy siêng tu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa. Khi ông siêng tu, nên dùng vô sở đắc làm phương tiện đối xử với tất cả hữu tình một cách bình đẳng, cùng nhau hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột. Ông chớ lấy sắc mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột; cũng chớ lấy thọ, tưởng, hành, thức mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột. Ông chớ lấy nhãn xứ mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột; cũng chớ lấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột. Ông chớ lấy sắc xứ mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột; cũng chớ lấy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột. Ông chớ lấy nhãn giới mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột; cũng chớ lấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột. Ông chớ lấy sắc giới mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột; cũng chớ lấy thanh, hương, vị, xúc, pháp giới mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột. Ông chớ lấy nhãn thức giới mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột; cũng chớ lấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột. Ông chớ lấy nhãn xúc mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột; cũng chớ lấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột. Ông chớ lấy các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột; cũng chớ lấy các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột. Ông chớ lấy bố thí Ba-la-mật-đa mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột; cũng chớ lấy tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa giới mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột. Ông chớ lấy pháp nội Không (Không của các pháp nội tại) mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột; cũng chớ lấy pháp ngoại Không (Không của các pháp ngoại tại), nội ngoại Không (Không của các pháp nội ngoại tại), Không Không (Không của Không), đại Không (Không lớn), thắng nghĩa Không (Không của chân lý cứu cánh), hữu vi Không (Không của các pháp hữu vi), vô vi Không (Không của các pháp vô vi), tất cánh Không (Không tối hậu ‘rốt ráo’), vô tế Không (Không không biên tế), tán vô tán Không (Không của sự không phân tán), bản tính Không (Không của bản tính ‘tự nhiên tính’), tự cộng tướng Không (Không của tự cộng tướng), nhất thiết pháp Không (Không của vạn hữu), bất khả đắc Không (Không của cái bất khả đắc), vô tính Không (Không của vô thể ‘cái không tồn tại’), tự tính Không (Không của tự tính), vô tính tự tính Không (Không của vô thể của tự tính ‘tự tính của cái không tồn tại’) mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột. Ông chớ lấy chơn như mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột; cũng chớ lấy pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột. Ông chớ lấy Thánh đế khổ mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột; cũng chớ lấy Thánh đế tập, diệt, đạo mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột. Ông chớ lấy bốn tịnh lự mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột; cũng chớ lấy bốn vô lượng, bốn định vô sắc mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột. Ông chớ lấy tám giải thoát mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột; cũng chớ lấy tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột. Ông chớ lấy bốn niệm trụ mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột; cũng chớ lấy bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột. Ông chớ lấy pháp môn giải thoát không mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột; cũng chớ lấy pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột. Ông chớ lấy năm loại mắt mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột; cũng chớ lấy sáu phép thần thông mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột. Ông chớ lấy mười lực Phật mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột; cũng chớ lấy bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột. Ông chớ lấy ba mươi hai tướng Đại sĩ mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột; cũng chớ lấy tám mươi vẻ đẹp mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột. Ông chớ lấy pháp không quên mất mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột; cũng chớ lấy tánh luôn luôn xả mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột. Ông chớ lấy pháp môn Đà-la-ni mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột; cũng chớ lấy pháp môn Tam-ma-địa mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột. Ông chớ lấy trí nhất thiết mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột; cũng chớ lấy trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mà chấp là quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Nếu không lấy sắc thì được quả vị giác ngộ cao tột; không lấy thọ, tưởng, hành, thức thì được quả vị giác ngộ cao tột. Như vậy, cho đến nếu không lấy trí nhất thiết thì được quả vị giác ngộ cao tột; không lấy trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng thì được quả vị giác ngộ cao tột.

Này thiện nam tử! Khi ông tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa sâu xa, chớ đối với sắc sanh tham ái; chớ đối với thọ, tưởng, hành, thức sanh tham ái. Vì sao? Vì sắc cho đến thức không thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh tất cả pháp là không. Chớ đối với nhãn xứ sanh tham ái; chớ đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ sanh tham ái. Vì sao? Vì nhãn xứ cho đến ý xứ không thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh tất cả pháp là không. Chớ đối với sắc xứ sanh tham ái; chớ đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ sanh tham ái. Vì sao? Vì sắc xứ cho đến pháp xứ không thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh tất cả pháp là không. Chớ đối với nhãn giới sanh tham ái; chớ đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới sanh tham ái. Vì sao? Vì nhãn giới cho đến ý giới không thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh tất cả pháp là không. Chớ đối với sắc giới sanh tham ái; chớ đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới sanh tham ái. Vì sao? Vì sắc giới cho đến pháp giới không thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh tất cả pháp là không. Chớ đối với nhãn thức giới sanh tham ái; chớ đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới sanh tham ái. Vì sao? Vì nhãn thức giới cho đến ý thức giới không thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh tất cả pháp là không. Chớ đối với nhãn xúc sanh tham ái; chớ đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc sanh tham ái. Vì sao? Vì nhãn xúc cho đến ý xúc không thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh tất cả pháp là không. Chớ đối với các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra sanh tham ái; chớ đối với các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra sanh tham ái. Vì sao? Vì các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ không thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh tất cả pháp là không. Chớ đối với bố thí Ba-la-mật-đa sanh tham ái; chớ đối với tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa sanh tham ái. Vì sao? Vì bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa không thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh tất cả pháp là không. Chớ đối với pháp nội Không (Không của các pháp nội tại) sanh tham ái; chớ đối với pháp ngoại Không (Không của các pháp ngoại tại), nội ngoại Không (Không của các pháp nội ngoại tại), Không Không (Không của Không), đại Không (Không lớn), thắng nghĩa Không (Không của chân lý cứu cánh), hữu vi Không (Không của các pháp hữu vi), vô vi Không (Không của các pháp vô vi), tất cánh Không (Không tối hậu ‘rốt ráo’), vô tế Không (Không không biên tế), tán vô tán Không (Không của sự không phân tán), bản tính Không (Không của bản tính ‘tự nhiên tính’), tự cộng tướng Không (Không của tự cộng tướng), nhất thiết pháp Không (Không của vạn hữu), bất khả đắc Không (Không của cái bất khả đắc), vô tính Không (Không của vô thể ‘cái không tồn tại’), tự tính Không (Không của tự tính), vô tính tự tính Không (Không của vô thể của tự tính ‘tự tính của cái không tồn tại’) sanh tham ái. Vì sao? Vì pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không không thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh tất cả pháp là không. Chớ đối với chơn như sanh tham ái; chớ đối với pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì sanh tham ái. Vì sao? Vì chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì không thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh tất cả pháp là không. Chớ đối với Thánh đế khổ sanh tham ái; chớ đối với Thánh đế tập, diệt, đạo sanh tham ái. Vì sao? Vì Thánh đế khổ cho đến Thánh đế đạo không thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh tất cả pháp là không. Chớ đối với bốn tịnh lự sanh tham ái; chớ đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc sanh tham ái. Vì sao? Vì bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc không thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh tất cả pháp là không. Chớ đối với tám giải thoát sanh tham ái; chớ đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ sanh tham ái. Vì sao? Vì tám giải thoát cho đến mười biến xứ không thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh tất cả pháp là không. Chớ đối với bốn niệm trụ sanh tham ái; chớ đối với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo sanh tham ái. Vì sao? Vì bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo không thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh tất cả pháp là không. Chớ đối với pháp môn giải thoát không sanh tham ái; chớ đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện sanh tham ái. Vì sao? Vì không, vô tuớng, vô nguyện giải thoát môn không thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh tất cả pháp là không. Chớ đối với năm loại mắt sanh tham ái; chớ đối với sáu phép thần thông sanh tham ái. Vì sao? Vì năm loại mắt, sáu phép thần thông không thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh tất cả pháp là không. Chớ đối với mười lực Phật sanh tham ái; chớ đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng sanh tham ái. Vì sao? Vì mười lực Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh tất cả pháp là không. Chớ đối với ba mươi hai tướng Đại sĩ sanh tham ái; chớ đối với tám mươi vẻ đẹp sanh tham ái. Vì sao? Vì ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp không thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh tất cả pháp là không. Chớ đối với pháp không quên mất sanh tham ái; chớ đối với tánh luôn luôn xả sanh tham ái. Vì sao? Vì pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả không thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh tất cả pháp là không. Chớ đối với pháp môn Đà-la-ni sanh tham ái; chớ đối với pháp môn Tam-ma-địa sanh tham ái. Vì sao? Vì Pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa không thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh tất cả pháp là không. Chớ đối với trí nhất thiết sanh tham ái; chớ đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng sanh tham ái. Vì sao? Vì trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh tất cả pháp là không. Chớ đối với quả Dự lưu sanh tham ái; chớ đối với quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác Bồ-đề sanh tham ái. Vì sao? Vì quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ-đề không thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh tất cả pháp là không. Chớ đối với tất cả hạnh Đại Bồ-tát sanh tham ái; chớ đối với quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật sanh tham ái. Vì sao? Vì tất cả hạnh Đại Bồ-tát, quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật không thể tham ái. Vì sao? Vì tự tánh tất cả pháp là không.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ-tát thường làm việc khó làm, trong tự tánh không của tất cả pháp mong cầu quả vị giác ngộ cao tột, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Như ông đã nói, các Đại Bồ-tát thường làm việc khó làm, trong tự tánh không của tất cả pháp mong cầu quả vị giác ngộ cao tột, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát tuy đạt tất cả pháp như huyễn, như mộng, như tiếng vang, như ảnh, như bóng sáng, như sóng nắng, như việc biến hoá, như thành Tầm hương (ảnh ảo), tự tánh đều không, nhưng vì thế gian được nghĩa lợi nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột. Vì làm cho thế gian được lợi ích, nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột. Vì làm cho thế gian được an vui, nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột. Vì muốn cứu vớt các thế gian, nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột. Vì làm nơi nương tựa cho thế gian, nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột. Vì làm nhà cửa cho thế gian, nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột; muốn chỉ đường rốt ráo cho thế gian, nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột. Vì làm hòn đảo cho thế gian, nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột. Vì làm nhật nguyệt cho thế gian, nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột. Vì làm đèn đuốc cho thế gian, nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột. Vì làm thầy dẫn đường cho thế gian, nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột. Vì làm tướng soái cho thế gian, nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột. Vì làm chỗ đến cho thế gian, nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột. Thương xót khổ sanh tử của thế gian, nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột.

Thiện Hiện! Thế nào là Đại Bồ-tát vì các thế gian được nghĩa lợi, nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột? Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát vì muốn giải thoát các việc khổ não cho tất cả hữu tình, phương tiện tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột. Thiện Hiện! Đó là Đại Bồ-tát vì các thế gian được nghĩa lợi nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột.

Thiện Hiện! Thế nào là Đại Bồ-tát vì làm cho thế gian được lợi ích, nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột? Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát vì muốn tự trụ sáu pháp Ba-la-mật-đa, phương tiện khuyên dẫn các loài hữu tình, giúp họ an trụ sáu pháp Ba-la-mật-đa, nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột. Thiện Hiện! Đó là Đại Bồ-tát vì muốn làm cho thế gian được lợi ích nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột.

Thiện Hiện! Thế nào là Đại Bồ-tát vì làm cho thế gian được an vui, nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột? Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát vì muốn tự trụ mười thiện nghiệp đạo, phương tiện khuyên dẫn các loài hữu tình, giúp họ an trụ mười thiện nghiệp đạo, nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột. Thiện Hiện! Đó là Đại Bồ-tát vì làm cho thế gian được an vui nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột.

Thiện Hiện! Thế nào là Đại Bồ-tát vì muốn cứu vớt các thế gian, nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột? Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát thấy các hữu tình đọa vào ba đường ác, muốn cứu vớt làm cho tu thiện nghiệp được chỗ yên, thanh nhàn, nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột. Thiện Hiện! Đó là Đại Bồ-tát vì muốn cứu vớt các thế gian nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột.

Thiện Hiện! Thế nào là Đại Bồ-tát vì muốn làm nơi nương tựa cho thế gian, nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột? Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát muốn vì hữu tình nói pháp không nương tựa. Nghĩa là sắc không nương tựa; thọ, tưởng, hành, thức không nương tựa. Như vậy, cho đến trí nhất thiết không nương tựa; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không nương tựa, làm cho các hữu tình sau khi nghe xong được giải thoát tất cả sanh, lão, bệnh, tử và sầu, than, khổ, ưu, não. Do đó nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột. Thiện Hiện! Đó là Đại Bồ-tát làm chỗ quay về cho thế gian, nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột.

Thiện Hiện! Thế nào là Đại Bồ-tát vì làm nhà cửa cho thế gian, nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột? Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát muốn làm nơi nương tựa cho các hữu tình, và làm cho họ đến được cung đại Niết-bàn không sợ hãi, nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột. Thiện Hiện! Đó là Đại Bồ-tát vì làm nhà cửa cho thế gian nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột.

Thiện Hiện! Thế nào là Đại Bồ-tát muốn chỉ đường rốt ráo cho thế gian nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột? Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát thấy các hữu tình không thông thạo hoàn toàn về tướng đường thiện, đường ác, chỉ biết dạo chơi các đường tham dục, nên muốn dùng phương tiện tuyên nói pháp yếu làm cho họ biết rõ tướng đường rốt ráo, hướng đến quả vị giác ngộ cao tột. Muốn nói những pháp yếu nào cho các hữu tình? Đó là nói về sắc rốt ráo thường không sợ hãi; nói về thọ, tưởng, hành, thức rốt ráo thường không sợ hãi. Như vậy, cho đến nói về trí nhất thiết rốt ráo thường không sợ hại; nói về trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng rốt ráo thường không sợ hãi. Nói về sắc rốt ráo tức chẳng phải sắc; nói về thọ, tưởng, hành, thức rốt ráo tức chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức. Như vậy, cho đến nói về trí nhất thiết rốt ráo tức chẳng phải trí nhất thiết; nói về trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng rốt ráo tức chẳng phải trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Thiện Hiện! Tướng rốt ráo của các pháp này như thế nào thì tướng tất cả pháp cũng như vậy.

Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu tướng tất cả pháp như tướng rốt ráo ấy, thì Đại Bồ-tát làm sao để đối với tất cả pháp ứng hiện Đẳng Giác? Vì sao? Bạch Thế Tôn! Chẳng phải trong sắc rốt ráo có phân biệt như vầy, đây là sắc. Cũng chẳng phải trong thọ, tưởng, hành, thức rốt ráo có phân biệt như vầy, đây là thọ, tưởng, hành, thức. Như vậy, cho đến chẳng phải trong trí nhất thiết rốt ráo có phân biêt như vầy, đây là trí nhất thiết. Cũng chẳng phải trong trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng rốt ráo có phân biệt như vầy, đây là trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Như ông đã nói, trong sắc rốt ráo không phân biệt như vầy: Đây là sắc; trong thọ, tưởng, hành, thức rốt ráo cũng không phân biệt như vầy: Đây là thọ, tưởng, hành, thức. Như vậy, cho đến trong trí nhất thiết rốt ráo không phân biệt như vầy: Đây là trí nhất thiết; trong trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng rốt ráo không phân biệt như vầy: Đây là trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Vì bản tánh tất cả pháp là không.

Thiện Hiện! Đây là việc rất khó của Đại Bồ-tát. Nghĩa là tuy quán tướng tất cả pháp đều vắng lặng, thâm sâu, vi diệu mà tâm không chìm đắm, nghĩ: Ta đối với pháp này hiện Đẳng Giác rồi, chứng được quả vị giác ngộ cao tột, vì các hữu tình tuyên nói, khai thị pháp vắng lặng, thâm diệu. Thiện Hiện! Đó là Đại Bồ-tát muốn chỉ đường rốt ráo cho thế gian nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột.

Thiện Hiện! Thế nào là Đại Bồ-tát vì làm hòa đảo cho thế gian nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột? Thiện Hiện! Thí như trong biển, sông, ao lớn nhỏ, chỗ đất cao ở được, xung quanh có nước, gọi đó là hòn đảo. Như vậy, Thiện Hiện! Sắc giai đoạn đầu, giai đoạn sau chấm dứt; thọ, tưởng, hành, thức giai đoạn đầu, giai đoạn sau chấm dứt. Như vậy, cho đến trí nhất thiết giai đoạn đầu, giai đoạn sau chấm dứt; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng giai đoạn đầu, giai đoạn sau chấm dứt. Do giai đoạn đầu, giai đoạn sau chấm dứt nên tất cả pháp chấm dứt. Thiện Hiện! Tất cả pháp này giai đoạn đầu, giai đoạn sau chấm dứt tức là vắng lặng, là vi diệu, là như thật. Nghĩa là không vô sở đắc đạo đoạn, ái tận không còn, tạp nhiễm dứt hẳn, rốt ráo Niết-bàn. Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát cầu chứng quả vị giác ngộ cao tột. Muốn vì hữu tình tuyên nói khai thị pháp vắng lặng, thâm sâu, vi diệu như thật như vậy. Thiện Hiện! Đó là Đại Bồ-tát vì làm hòn đảo cho thế gian nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột.

Thiện Hiện! Thế nào là Đại Bồ-tát vì làm nhật nguyệt, đèn đuốc  cho thế gian nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột? Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát muốn vì hữu tình tuyên nói sáu pháp Ba-la-mật-đa và tứ y nhiếp sự tương ưng nghĩa lý chơn thật của kinh điển, dùng phương tiện chỉ dạy, làm cho họ siêng năng tu học phá tất cả chủng tử vô minh đen tối, hướng đến quả vị giác ngộ cao tột. Thiện Hiện! Đó là Đại Bồ-tát vì làm nhật nguyệt, đèn đuốc, nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột.

Thiện Hiện! Thế nào là Đại Bồ-tát vì làm đạo sư, tướng soái cho thế gian nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột? Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát muốn làm hữu tình xa lìa việc làm bốn chỗ không nên làm của tà đạo, vì họ giảng nói nhất đạo để họ quay về chính đạo, người tạp nhiễm được thanh tịnh, người sầu não được vui tươi, người buồn khổ được an lạc, hữu tình phi lý chứng pháp như lý, hữu tình lưu chuyển được vào Niết-bàn, nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột. Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát hướng đến quả vị giác ngộ cao tột, muốn vì hữu tình tuyên nói khai thị sắc không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; thọ, tưởng, hành, thức không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh. Nhãn xứ không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh. Sắc xứ không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh. Nhãn giới không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh. Sắc giới không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; thanh, hương, vị, xúc, pháp giới không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh. Nhãn thức giới không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh. Nhãn xúc không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh. Bố thí Ba-la-mật-đa không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh. Pháp nội Không (Không của các pháp nội tại) không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; pháp ngoại Không (Không của các pháp ngoại tại), nội ngoại Không (Không của các pháp nội ngoại tại), Không Không (Không của Không), đại Không (Không lớn), thắng nghĩa Không (Không của chân lý cứu cánh), hữu vi Không (Không của các pháp hữu vi), vô vi Không (Không của các pháp vô vi), tất cánh Không (Không tối hậu ‘rốt ráo’), vô tế Không (Không không biên tế), tán vô tán Không (Không của sự không phân tán), bản tính Không (Không của bản tính ‘tự nhiên tính’), tự cộng tướng Không (Không của tự cộng tướng), nhất thiết pháp Không (Không của vạn hữu), bất khả đắc Không (Không của cái bất khả đắc), vô tính Không (Không của vô thể ‘cái không tồn tại’), tự tính Không (Không của tự tính), vô tính tự tính Không (Không của vô thể của tự tính ‘tự tính của cái không tồn tại’) không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh. Chơn như không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh. Thánh đế khổ không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; Thánh đế tập, diệt, đạo không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh. Bốn tịnh lự không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; bốn vô lượng, bốn định vô sắc không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh. Tám giải thoát không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh. Bốn niệm trụ không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh. Pháp môn giải thoát không không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh. Tịnh quán địa không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; Chủng tánh địa, Đệ bát địa, Cụ kiến địa, Bạc địa, Ly dục địa, Dĩ biện địa, Độc giác địa, Bồ-tát địa, Như Lai địa không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh. Cực hỷ địa không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm tuệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện tuệ địa, Pháp vân địa không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh. Năm loại mắt không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; sáu phép thần thông không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh. Quả Dự lưu không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác Bồ-đề không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh. Mười lực Như Lai không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh. Ba mươi hai tướng Đại sĩ không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; tám mươi vẻ đẹp không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh. Pháp không quên mất không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; tánh luôn luôn xả không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh. Tất cả pháp môn Đà-la-ni không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; tất cả pháp môn Tam-ma-địa không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh. Trí nhất thiết không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh. Thiện Hiện! Đó là Đại Bồ-tát vì làm Đạo sư, tướng soái cho thế gian, nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột.

Thiện Hiện! Thế nào là Đại Bồ-tát vì làm chỗ hướng đến cho thế gian nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột? Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát mong cầu quả vị giác ngộ cao tột, tu các hạnh Đại Bồ-tát muốn đem bốn nhiếp sự thu nhiếp tất cả hữu tình, đó là bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự. Muốn vì hữu tình tuyên nói khai thị sắc lấy hư không làm chỗ hướng đến; thọ, tưởng, hành, thức cũng lấy hư không làm chỗ hướng đến. Như vậy, cho đến trí nhất thiết lấy hư không làm chỗ hướng đến; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng lấy hư không làm chỗ hướng đến. Muốn vì hữu tình tuyên nói khai thị sắc vị lai hướng đến không, nên không từ đâu đến; sắc quá khứ hướng đến không, nên không đi về đâu; sắc hiện tại hướng đến không, nên không từ đâu đến. Thọ, tưởng, hành, thức vị lai hướng đến không, nên không đi về đâu; thọ, tưởng, hành, thức quá khứ hướng đến không, nên không đi về đâu; thọ, tưởng, hành, thức hiện tại hướng đến không, nên cũng không từ đâu đến. Như vậy, cho đến trí nhất thiết vị lai hướng đến không, nên không từ đâu đến; trí nhất thiết quá khứ hướng đến không, nên không đi về đâu; trí nhất thiết hiện tại hướng đến không, nên không có chỗ trụ. Trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng vị lai hướng đến không, nên không từ đâu đến; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng quá khứ hướng đến không, nên không đi về đâu; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hiện tại hướng đến không nên cũng không có chỗ trụ. Muốn vì hữu tình tuyên nói khai thị sắc không hướng đến, không phải không hướng đến. Vì sao? Vì tánh sắc là Không, trong Không không hướng đến, không phải không hướng đến. Thọ, tưởng, hành, thức cũng không hướng đến không phải không hướng đến. Vì sao? Vì tánh thọ, tưởng, hành, thức là Không, trong Không không hướng đến, không phải không hướng đến. Như vậy, cho đến trí nhất thiết không hướng đến không phải không hướng đến. Vì sao? Vì tánh trí nhất thiết là Không, trong Không không hướng đến, không phải không hướng đến. Trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng không hướng đến, không phải không hướng đến. Vì sao? Vì tánh trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là Không, trong Không không hướng đến, không phải không hướng đến. Thiện Hiện! Đó là Đại Bồ-tát vì làm chỗ hướng đến cho thế gian, nên hướng đến quả vị giác ngộ cao tột.

 

 

 

   Quyển thứ 445

Hết

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/09/2015(Xem: 5981)
Tổ Phước Tường , húy thượng Thanh hạ Chánh, tự Quảng Đạt hiệu Phước Tường, thuộc dòng Lâm Tế Liễu Quán, đời thứ 41. Ngài sinh ngày rằm, tháng 5 năm Đinh Mão (1867) vào đời vua Tự Đức năm thứ 20, tại tỉnh Phú Yên. Tổ xuất thân là một nhà Nho từng dự thi Hương tại Bình Định. Năm Ất Dậu (1885), ngài cùng với tầng lớp thanh niên nho sĩ tích cực hưởng ứng phong trào Cần vương. Sau đó, ngài xuất gia với Tổ Hải Nhiểu -Thiên Ân tại chùa Khánh Long (Phú Yên). Ở đây một thời gian, ngài được bổn sư gởi đến tham học với các bậc thiền sư thạc đức đương thời ở Phú Yên như Tổ Pháp Hỷ (chùa Từ Quang), Tổ Trí Hải (chùa Thiên Thai Sơn Thạch).
08/09/2015(Xem: 36841)
Sister Chan Khong, Thich Nhat Hanh’s closest collaborator, told Lion’s Roar this morning that the 88-year-old Vietnamese Zen master is in hospital. Given his age, many of Thich Nhat Hanh’s friends and followers are concerned for his wellbeing, though details about his condition have yet to be shared.
08/09/2015(Xem: 6899)
Đây không phải chỉ là một sự tán dương ca ngợi, mà còn là những điều trân quý, người đời sau cần giữ gìn truyền tụng, nếu chúng ta hiểu rõ nghĩa của những chữ “ẩm thủy tư nguyên”là gì. Uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây v.v… vốn là những câu tục ngữ mà người Việt chúng ta vẫn hay nhắc nhở đến hằng ngày, thì không có lý do gì để chúng ta quên ơn của những người đi trước đã dày công gầy dựng lên. Các nhà Bác Học như Albert Einstein có thuyết tương đối, Văn Hào Victor Hugo, định đề Eclik, định lý Archimet v.v… tất cả đều được mọi người biết đến và về sau nầy có những công trình được cầu chứng tại tòa án để không ai có thể phát hiện trùng lặp với tên tuổi của mình đã sáng chế. Thế nhưng cũng có nhiều công trình thế kỷ thuộc diện tâm linh, phi vật thể, thì chưa ai nghĩ đến điều nầy cả. Điều nầy cũng giống như bản quyền của một tác phẩm được độc quyền xử dụng, phát hành khi đã có khai báo với tòa án. Ở đây tôi muốn nhắc đến những công trình thế kỷ về sau, mà cố Hòa Thượng Thích Min
26/08/2015(Xem: 7731)
Ngày 16 tháng 5 vừa qua một trong số các nhà sư Phật giáo nổi tiếng nhất của Thái Lan, và cũng là một trong số các vị Thầy cuối cùng và khác thường của truyền thống "Tu Trong Rừng", là Luang Poh Koon vừa viên tịch. Luang Poh Koon thường được biểu trưng bởi hình ảnh một nhà sư ngồi chồm hổm tay cầm điếu thuốc lá, nhằm nhắc lại giây phút thật bất ngờ và đột ngột khi ông đạt được giác ngộ.
19/08/2015(Xem: 15490)
CÁO PHÓ TANG LỄ Hòa Thượng Thích Viên Diệu Nam mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật Môn đồ tứ chúng chúng con cung kính báo tin Thầy của chúng con là: Hòa Thượng Thích Viên Diệu. - Khai sáng chùa Thuyền Tôn - Montreal - Quebec và Tổ Đình Thuyền Tôn Hải Ngoại tại thành phố Cornwall, tỉnh bang Ontario, Canada. - Tổng Vụ Trưởng Vụ Cư Sĩ GHPGVNTN Hải Ngoại tại Canada. Đã thuận thế vô thường, thâu thần viên tịch vào lúc 22 giờ ngày 18 tháng 08 năm 2015 ( nhằm ngày 05/07/ Ất mùi) tại chùa Thuyền Tôn , Montreal. Trụ thế : 62 tuổi và 40 giới lạp. Lễ nhập quan sẽ được cử hành vào lúc 14 giờ ngày 25 tháng 08 năm 2015 (nhằm ngày 12/07/Ất mùi) tại nhà quàn LE REPOS SAINT FRANCOIS D”ASSISE và lễ cung nghinh Kim Quan an trí tại chùa Thuyền Tôn – Montreal vào lúc 17 giờ cùng ngày. Lễ viếng bắt đầu từ ngày 26 tháng 08 đến ngày 30 tháng 08 năm 2015. Lễ Di Quan được cử hành lúc 9 giờ sang ngày 31tháng 08 năm 2015. Kim Quan sẽ được nhập Bảo tháp tại khuôn viên Tổ Đình Thuyền T
01/08/2015(Xem: 7516)
Chúc Mừng Hoà thượng Thích Minh Dung
22/07/2015(Xem: 9030)
Hòa thượng họ Đỗ, huý Châu Lân, sinh năm 1927 (Đinh Mão) tại thôn Quan Quang, xã Nhơn Khánh, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Thân phụ là cụ ông Đỗ Hoạch, và thân mẫu là cụ bà Trần Thị Tú. Gia đình gồm năm người con, hai trai và ba gái; Hòa thượng Thích Đỗng Quán thứ ba, và Ngài là thứ tư. Gia đình Ngài đời đời thuần tín Tam bảo. Cha mất sớm, được mẹ chăm lo dạy dỗ. Với bẩm tánh thông minh và hiếu học, năm 11 tuổi Ngài thi đậu bằng Yếu lược. Việc này chưa xảy ra ở vùng quê của Ngài nên đích thân ông Lý trưởng đến thăm và chúc mừng. Đó là một vinh dự cho gia đình và quê hương Ngài lúc bấy giờ.
14/07/2015(Xem: 17840)
Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư (Ngày Về Nguồn 8) sẽ được tổ chức tại chùa Pháp Bảo – Sydney, Úc Châu vào cuối tháng 9 năm 2014. Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư (Ngày Về Nguồn 9) năm 2015 dự định sẽ được tổ chức tại chùa Khánh Anh - Evry, Pháp Quốc nhân lễ Khánh Thành chùa cũng như lễ Đại Tường của cố Hòa Thượng Thích Minh Tâm. Trong dịp này, chư Tăng Ni sẽ hội luận vào ngày thứ bảy 15.08.2015 như chương trình gửi kèm theo đây. Chư Tôn Đức cũng như quý Phật tử nào không tham dự được suốt chương trình các ngày Lễ thì xin mời chọn những ngày thích hợp để đến với Tăng đoàn nhằm nói lên tinh thần cộng trụ trong sinh hoạt Phật sự tại hải ngoại ngày nay. Kính mong chư Tôn Đức và quý vị Phật tử hồi báo cho Ban Tổ
12/07/2015(Xem: 12523)
Slideshow Ôn Minh Tâm, Người Trồng Sen Trên Tuyết Bài viết của TT Nguyên Tạng Diễn đọc: Tường Dinh, FM 97.4 www.quangduc.com
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]