Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 382: Phẩm Tướng Các Công Đức 04

15/07/201520:32(Xem: 14406)
Quyển 382: Phẩm Tướng Các Công Đức 04

Tập 07

Quyển 382

 Phẩm Tướng Các Công Đức 04

Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm
Diễn đọc: Cư Sĩ Chánh Trí


 

 

Lại nữa, Thiện Hiện! Như có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hóa làm một đức Phật, vị Phật ấy lại có thể hóa làm vô lượng trăm ngàn ức triệu chúng. Khi ấy, vị hóa Phật kia giáo hóa số chúng đã hóa ra ấy hoặc khiến tu hành bố thí Ba-la-mật-đa, hoặc khiến tu hành tịnh giới Ba-la-mật-đa, hoặc khiến tu hành an nhẫn Ba-la-mật-đa, hoặc khiến tu hành tinh tấn Ba-la-mật-đa, hoặc khiến tu hành tịnh lự Ba-la-mật-đa, hoặc khiến tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa; hoặc khiến tu hành bốn tịnh lự, hoặc khiến tu hành bốn vô lượng, bốn định vô sắc; hoặc khiến tu hành bốn niệm trụ, hoặc khiến tu hành bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; hoặc khiến tu hành pháp môn giải thoát không, hoặc khiến tu hành pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; hoặc khiến an trụ pháp không nội, hoặc khiến an trụ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; hoặc khiến an trụ chơn như, hoặc khiến an trụ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; hoặc khiến an trụ Thánh đế khổ, hoặc khiến an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo; hoặc khiến tu hành tám giải thoát, hoặc khiến tu hành tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; hoặc khiến tu hành tất cả pháp môn Đà-la-ni, hoặc khiến tu hành tất cả pháp môn Tam-ma-địa; hoặc khiến tu hành bậc Cực hỷ, hoặc khiến tu hành bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; hoặc khiến tu hành năm loại mắt, hoặc khiến tu hành sáu phép thần thông; hoặc khiến tu hành mười lực Phật, hoặc khiến tu hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất công; hoặc khiến tu hành đại từ, hoặc khiến tu hành đại bi, đại hỷ, đại xả; hoặc khiến tu hành pháp không quên mất, hoặc khiến tu hành tánh luôn luôn xả; hoặc khiến tu hành trí nhất thiết, hoặc khiến tu hành trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; hoặc khiến tu hành ba mươi hai tướng Đại sĩ, hoặc khiến tu hành tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc; hoặc khiến chứng đắc quả Dự lưu, hoặc khiến chứng đắc quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác; hoặc khiến chứng đắc thắng vị của Bồ-tát, hoặc khiến chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, thì này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao? Khi ấy, hóa Phật và chúng được hóa đối với các pháp có phân biệt, có phá hoại chăng?

Thiện Hiện đáp:

- Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không! Vì các người được biến hóa ấy không có sự phân biệt.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Do nhân duyên này, nên biết Đại Bồ-tát cũng lại như thế, hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, vì các hữu tình theo căn cơ mà thuyết pháp, tuy chẳng phân biệt phá hoại pháp tướng, nhưng có thể như thật an lập hữu tình, khiến họ an trụ ở bậc thích hợp; tuy đối với hữu tình và tất cả pháp hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được nhưng khiến hữu tình giải thoát chấp trước vọng tưởng điên đảo, không buộc không mở, vì phương tiện vậy. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì bản tánh của sắc không buộc không mở; bản tánh của thọ, tưởng, hành, thức cũng không buộc mở; bản tánh của sắc không buộc không mở thì chẳng phải là sắc, bản tánh của thọ, tưởng, hành, thức cũng không buộc không mở thì chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì sắc cho đến thức rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Bản tánh của nhãn xứ không buộc không mở; bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không buộc không mở; bản tánh của nhãn xứ không buộc không mở thì chẳng phải là nhãn xứ, bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không buộc không mở thì chẳng phải là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Vì sao? Vì nhãn xứ cho đến ý xứ rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Bản tánh của sắc xứ không buộc không buộc không mở; bản tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không buộc không mở; bản tánh của sắc xứ không buộc không mở thì chẳng phải là sắc xứ, bản tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không buộc không mở thì chẳng phải là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Vì sao? Vì sắc xứ cho đến pháp xứ rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Bản tánh của nhãn giới không buộc không mở, bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không buộc không mở; bản tánh của nhãn giới không buộc không mở thì chẳng phải là nhãn giới, bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới không buộc không mở thì chẳng phải là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới. Vì sao? Vì nhãn giới cho đến ý giới rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Bản tánh của sắc giới không buộc không mở, bản tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không buộc không mở; bản tánh của sắc giới không buộc không mở thì chẳng phải là sắc giới, bản tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới không buộc không mở thì chẳng phải là thanh, hương, vị, xúc, pháp giới. Vì sao? Vì sắc giới cho đến pháp giới rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Bản tánh của nhãn thức giới không buộc không mở, bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không buộc không mở; bản tánh của nhãn thức giới không buộc không mở thì chẳng phải là nhãn thức giới, bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới không buộc không mở thì chẳng phải là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới Vì sao? Vì nhãn thức giới cho đến ý thức giới rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Bản tánh của nhãn xúc không buộc không mở, bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng không buộc không mở; bản tánh của nhãn xúc không buộc không mở thì chẳng phải là nhãn xúc, bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc không buộc không mở thì chẳng phải là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức xúc. Vì sao? Vì nhãn xúc cho đến ý xúc rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Bản tánh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không buộc không mở, bản tánh của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cũng không buộc không mở; bản tánh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không buộc không mở thì chẳng phải là các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, bản tánh của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra không buộc không mở thì chẳng phải là các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Bản tánh của địa giới không buộc không mở, bản tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng không buộc không mở; bản tánh của địa giới không buộc không mở thì chẳng phải là địa giới, bản tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới không buộc không mở thì chẳng phải là thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Vì sao? Vì địa, thủy, hỏa, phong, không, thức giới rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Bản tánh của nhân duyên không buộc không mở, bản tánh của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên cũng không buộc không mở; bản tánh của nhân duyên không buộc không mở thì chẳng phải là nhân duyên, bản tánh của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên không buộc không mở thì chẳng phải là đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên. Vì sao? Vì nhân duyên cho đến tăng thượng duyên rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Bản tánh của pháp từ các duyên sanh ra không buộc không mở, bản tánh của pháp từ các duyên sanh ra không buộc không mở thì chẳng phải là pháp từ các duyên sanh ra. Vì sao? Vì pháp từ các duyên sanh ra rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Bản tánh của vô minh không buộc không mở, bản tánh của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cũng không buộc không mở; bản tánh của vô minh không buộc không mở thì chẳng phải là vô minh, bản tánh của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não không buộc không mở thì chẳng phải là hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não. Vì sao? Vì vô minh cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Bản tánh của bố thí Ba-la-mật-đa không buộc không mở, bản tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa không buộc không mở; bản tánh của bố thí Ba-la-mật-đa không buộc không mở thì chẳng phải là bố thí Ba-la-mật-đa, bản tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa không buộc không mở thì chẳng phải là tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì bố thí cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Bản tánh của bốn tịnh lự không buộc không mở, bản tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng không buộc không mở; bản tánh của bốn tịnh lự không buộc không mở thì chẳng phải là bốn tịnh lự, bản tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng không buộc không mở thì chẳng phải là bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Vì sao? Vì bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Bản tánh của bốn niệm trụ không buộc không mở, bản tánh của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo cũng không buộc không mở; bản tánh của bốn niệm trụ không buộc không mở thì chẳng phải là bốn niệm trụ, bản tánh của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo không buộc không mở thì chẳng phải là bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo. Vì sao? Vì bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Bản tánh của pháp môn giải thoát không không buộc không mở, bản tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cũng không buộc không mở; bản tánh của pháp môn giải thoát không không buộc không mở thì chẳng phải là pháp môn giải thoát không, bản tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện không buộc không mở thì chẳng phải là pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Bản tánh của pháp không nội không buộc không mở, bản tánh của pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh cũng không buộc không mở; bản tánh của pháp không nội không buộc không mở thì chẳng phải là pháp không nội, bản tánh của pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh không buộc không mở thì chẳng phải là pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh. Vì sao? Vì pháp không nội cho đến pháp không không tánh tự tánh rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Bản tánh của Thánh đế khổ không buộc không mở, bản tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo cũng không buộc không mở; bản tánh của Thánh đế khổ không buộc không mở thì chẳng phải là Thánh đế khổ, bản tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo không buộc không mở thì chẳng phải là Thánh đế tập, diệt, đạo. Vì sao? Vì Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Bản tánh của tám giải thoát không buộc không mở, bản tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cũng không buộc không mở; bản tánh của tám giải thoát không buộc không mở thì chẳng phải là tám giải thoát, bản tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cũng không buộc không mở thì chẳng phải là tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ. Vì sao? Vì tám giải thoát cho đến mười biến xứ rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Bản tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni không buộc không mở, bản tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng không buộc không mở; bản tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni không buộc không mở thì chẳng phải là tất cả pháp môn Đà-la-ni, bản tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa không buộc không mở thì chẳng phải là tất cả pháp môn Tam-ma-địa. Vì sao? Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Bản tánh của bậc Cực hỷ không buộc không mở, bản tánh của bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân cũng không buộc không mở; bản tánh của bậc Cực hỷ không buộc không mở thì chẳng phải là bậc Cực hỷ, bản tánh của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân không buộc không mở thì chẳng phải là bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân. Vì sao? Vì bản tánh bậc Cực hỷ cho đến bậc Pháp vân rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Bản tánh của năm loại mắt không buộc không mở, bản tánh của sáu phép thần thông cũng không buộc không mở; bản tánh của năm loại mắt không buộc không mở thì chẳng phải là năm loại mắt, bản tánh của sáu phép thần thông không buộc không mở thì chẳng phải là sáu phép thần thông. Vì sao? Vì năm loại mắt, sáu phép thần thông rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Bản tánh của mười lực Phật không buộc không mở, bản tánh của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng cũng không buộc không mở; bản tánh của mười lực Phật không buộc không mở thì chẳng phải là mười lực Phật, bản tánh của bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không buộc không mở thì chẳng phải là bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Vì sao? Vì mười lực Phật cho đến mười tám pháp Phật bất cộng rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Bản tánh của đại từ không buộc không mở, bản tánh của đại bi, đại hỷ, đại xả cũng không buộc không mở; bản tánh của đại từ không buộc không mở thì chẳng phải là đại từ, bản tánh của đại bi, đại hỷ, đại xả không buộc không mở thì chẳng phải là đại bi, đại hỷ, đại xả.Vì sao? Vì đại từ cho đến đại xả rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Bản tánh của pháp không quên mất không buộc không mở, bản tánh của tánh luôn luôn xả cũng không buộc không mở; bản tánh của pháp không quên mất không buộc không mở thì chẳng phải là pháp không quên mất, bản tánh của tánh luôn luôn xả không buộc không mở thì chẳng phải là tánh luôn luôn xả. Vì sao? Vì pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Bản tánh của trí nhất thiết không buộc không mở, bản tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng không buộc không mở; bản tánh của trí nhất thiết không buộc không mở thì chẳng phải là trí nhất thiết, bản tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không buộc không mở thì chẳng phải là trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Vì sao? Vì trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Bản tánh của ba mươi hai tướng Đại sĩ không buộc không mở, bản tánh của tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc cũng không buộc không mở; bản tánh của ba mươi hai tướng Đại sĩ không buộc không mở thì chẳng phải là ba mươi hai tướng Đại sĩ, bản tánh của tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc cũng không buộc không mở thì chẳng phải là tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc. Vì sao? Vì ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Bản tánh của quả Dự lưu không buộc không mở, bản tánh của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác cũng không buộc không mở; bản tánh của quả Dự lưu không buộc không mở thì chẳng phải là quả Dự lưu, bản tánh của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác không buộc không mở thì chẳng phải là quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác. Vì sao? Vì quả Dự lưu cho đến quả vị Độc giác rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Bản tánh của tất cả hạnh Đại Bồ-tát không buộc không mở, bản tánh của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật cũng không buộc không mở; bản tánh của tất cả hạnh Đại Bồ-tát không buộc không mở thì chẳng phải là tất cả hạnh Đại Bồ-tát, bản tánh của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật không buộc không mở thì chẳng phải là quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật. Vì sao? Vì tất cả hạnh Đại Bồ-tát, quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Bản tánh của pháp thế gian không buộc không mở, bản tánh của pháp xuất thế gian cũng không buộc không mở; bản tánh của pháp thế gian không buộc không mở thì chẳng phải là pháp thế gian, bản tánh của pháp xuất thế gian không buộc không mở thì chẳng phải là pháp xuất thế gian. Vì sao? Vì pháp thế gian, pháp xuất thế gian rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Bản tánh của pháp hữu lậu không buộc không mở, bản tánh của pháp vô lậu cũng không buộc không mở; bản tánh của pháp hữu lậu không buộc không mở thì chẳng phải là pháp hữu lậu, bản tánh của pháp vô lậu không buộc không mở thì chẳng phải là pháp vô lậu. Vì sao? Vì pháp hữu lậu, pháp vô lậu rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Bản tánh của pháp hữu vi không buộc không mở, bản tánh của pháp vô vi cũng không buộc không mở; bản tánh của pháp hữu vi không buộc không mở thì chẳng phải là pháp hữu vi, bản tánh của pháp vô vi không buộc không thì chẳng phải là pháp vô vi. Vì sao? Vì pháp hữu vi, pháp vô vi rốt ráo thanh tịnh.

Này Thiện Hiện! Như vậy, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, tuy vì hữu tình tuyên thuyết các pháp nhưng đối với hữu tình và các pháp tánh hoàn toàn không có sở đắc. Vì sao? Vì các hữu tình và tất cả pháp chẳng thể nắm bắt được.

Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, lấy vô sở trụ làm phương tiện, nên an trụ trong cái vô sở đắc của tất cả pháp, nghĩa là lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của sắc, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của thọ, tưởng, hành, thức; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của nhãn xứ, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của sắc xứ, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của nhãn giới, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của sắc giới, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của nhãn thức giới, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của nhãn xúc, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của địa giới, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của thủy, hỏa, phong, không, thức giới; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của nhân duyên, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của các pháp từ các duyên sanh ra; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của vô minh, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của bố thí Ba-la-mật-đa, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của bốn tịnh lự, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của bốn vô lượng, bốn định vô sắc; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của bốn niệm trụ, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của pháp môn giải thoát không, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của pháp không nội, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của Thánh đế khổ, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của Thánh đế tập, diệt, đạo; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của tám giải thoát, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của tất cả pháp môn Đà-la-ni, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của tất cả pháp môn Tam-ma-địa; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của bậc Cực hỷ, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của năm loại mắt, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của sáu phép thần thông; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của mười lực Phật, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của đại từ, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của đại bi, đại hỷ, đại xả; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của pháp không quên mất, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của tánh luôn luôn xả; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của trí nhất thiết, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của ba mươi hai tướng Đại sĩ, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của quả Dự lưu, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của tất cả hạnh Đại Bồ-tát, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của pháp thế gian, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của pháp xuất thế gian; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của pháp hữu lậu, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của pháp vô lậu; lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của pháp hữu vi, lấy vô sở trụ làm phương tiện nên an trụ không của pháp vô vi.

Này Thiện Hiện! Vì sắc vô sở trụ, thọ, tưởng, hành, thức cũng vô sở trụ, không của sắc vô sở trụ, không của thọ, tưởng, hành, thức cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì sắc không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, thọ, tưởng, hành, thức cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; không của sắc không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, không của thọ, tưởng, hành, thức cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được. Chẳng phải pháp không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được có chỗ trụ vậy.

Này Thiện Hiện! Nhãn xứ vô sở trụ, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng vô sở trụ, không của nhãn xứ vô sở trụ, không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nhãn xứ không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; không của nhãn xứ không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được. Chẳng phải pháp không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được có chỗ trụ vậy.

Này Thiện Hiện! Sắc xứ vô sở trụ, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng vô sở trụ, không của sắc xứ vô sở trụ, không của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì sắc xứ không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; không của sắc xứ không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, không của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được. Chẳng phải pháp không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được có chỗ trụ vậy.

Này Thiện Hiện! Nhãn giới vô sở trụ, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng vô sở trụ, không của nhãn giới vô sở trụ, không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nhãn giới không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; không của nhãn giới không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được. Chẳng phải pháp không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được có chỗ trụ vậy.

Này Thiện Hiện! Sắc giới vô sở trụ, thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng vô sở trụ, không của sắc giới vô sở trụ, không của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì sắc giới không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; không của sắc giới không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, không của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được. Chẳng phải pháp không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được có chỗ trụ vậy.

Này Thiện Hiện! Nhãn thức giới vô sở trụ, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng vô sở trụ, không của nhãn thức giới vô sở trụ, không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nhãn thức giới không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; không của nhãn thức giới không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được. Chẳng phải pháp không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được có chỗ trụ vậy.

Này Thiện Hiện! Nhãn xúc vô sở trụ, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng vô sở trụ, không của nhãn xúc vô sở trụ, không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nhãn xúc không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; không của nhãn xúc không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được. Chẳng phải pháp không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được có chỗ trụ vậy.

Này Thiện Hiện! Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra vô sở trụ, các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cũng vô sở trụ, không của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra vô sở trụ, không của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; không của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, không của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được. Chẳng phải pháp không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được có chỗ trụ vậy.

Này Thiện Hiện! Địa giới vô sở trụ, thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng vô sở trụ, không của địa giới vô sở trụ, không của thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì địa giới không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; không của địa giới không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, không của thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được. Chẳng phải pháp không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được có chỗ trụ vậy.

Này Thiện Hiện! Nhân duyên vô sở trụ, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên cũng vô sở trụ, không của nhân duyên vô sở trụ, không của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nhân duyên không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; không của nhân duyên không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, không của đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được. Chẳng phải pháp không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được có chỗ trụ vậy.

Này Thiện Hiện! Pháp từ các duyên sanh ra vô sở trụ, không của pháp từ các duyên sanh ra cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì pháp từ các duyên sanh ra không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, không của các pháp từ các duyên sanh ra cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được. Chẳng phải pháp không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được có chỗ trụ vậy.

Này Thiện Hiện! Vô minh vô sở trụ, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cũng vô sở trụ, không của vô minh vô sở trụ, không của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì vô minh không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; không của vô minh không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, không của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được. Chẳng phải pháp không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được có chỗ trụ vậy.

Này Thiện Hiện! Bố thí Ba-la-mật-đa vô sở trụ, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng vô sở trụ, không của bố thí Ba-la-mật-đa vô sở trụ, không của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì bố thí Ba-la-mật-đa không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; không của bố thí Ba-la-mật-đa không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, không của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được. Chẳng phải pháp không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được có chỗ trụ vậy.

Này Thiện Hiện! Bốn tịnh lự vô sở trụ, bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng vô sở trụ, không của bốn tịnh lự vô sở trụ, không của bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì bốn tịnh lự không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; không của bốn tịnh lự không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, không của bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được. Chẳng phải pháp không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được có chỗ trụ vậy.

Này Thiện Hiện! Bốn niệm trụ vô sở trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo cũng vô sở trụ, không của bốn niệm trụ vô sở trụ, không của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì bốn niệm trụ không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; không của bốn niệm trụ không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, không của bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được. Chẳng phải pháp không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được có chỗ trụ vậy.

Này Thiện Hiện! Pháp môn giải thoát không vô sở trụ, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cũng vô sở trụ; không của pháp môn giải thoát không vô sở trụ, không của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì pháp môn giải thoát không không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; không của pháp môn giải thoát không không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, không của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được vì chẳng phải không có tự tánh thì chẳng thể nắm bắt được nên pháp có sở trụ.

Này Thiện Hiện! Pháp không nội vô sở trụ, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh cũng vô sở trụ, không của pháp không nội vô sở trụ, không của pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì pháp không nội không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; không của pháp không nội không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, không của pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được. Chẳng phải pháp không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được có chỗ trụ vậy.

Này Thiện Hiện! Thánh đế khổ vô sở trụ, Thánh đế tập, diệt, đạo cũng vô sở trụ, không của Thánh đế khổ vô sở trụ, không của Thánh đế tập, diệt, đạo cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Thánh đế khổ không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, Thánh đế tập, diệt, đạo cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; không của Thánh đế khổ không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, không của Thánh đế tập, diệt, đạo cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được. Chẳng phải pháp không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được có chỗ trụ vậy.

Này Thiện Hiện! Tám giải thoát vô sở trụ, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cũng vô sở trụ, không của tám giải thoát vô sở trụ, không của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tám giải thoát không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; không của tám giải thoát không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, không của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được. Chẳng phải pháp không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được có chỗ trụ vậy.

Này Thiện Hiện! Tất cả pháp môn Đà-la-ni vô sở trụ, tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng vô sở trụ, không của tất cả pháp môn Đà-la-ni vô sở trụ, không của tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; không của tất cả pháp môn Đà-la-ni không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, không của tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được. Chẳng phải pháp không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được có chỗ trụ vậy.

Này Thiện Hiện! Bậc Cực hỷ vô sở trụ, bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiền tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ. bậc Pháp vân cũng vô sở trụ, không của bậc Cực hỷ vô sở trụ, không của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì bậc Cực hỷ không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; không của bậc Cực hỷ không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, không của bậc Ly cấu cho đến bậc Pháp vân cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được. Chẳng phải pháp không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được có chỗ trụ vậy.

Này Thiện Hiện! Năm loại mắt vô sở trụ, sáu phép thần thông cũng vô sở trụ, không của năm loại mắt vô sở trụ, không của sáu phép thần thông cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì năm loại mắt không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, sáu phép thần thông cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; không của năm loại mắt không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, không của sáu phép thần thông cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được. Chẳng phải pháp không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được có chỗ trụ vậy.

Này Thiện Hiện! Mười lực Phật vô sở trụ, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng cũng vô sở trụ, không của mười lực Phật vô sở trụ, không của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì mười lực Phật không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; không của mười lực Phật không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, không của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được. Chẳng phải pháp không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được có chỗ trụ vậy.

Này Thiện Hiện! Đại từ vô sở trụ, đại bi, đại hỷ, đại xả cũng vô sở trụ, không của đại từ vô sở trụ, không của đại bi, đại hỷ, đại xả cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì đại từ không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, đại bi, đại hỷ, đại xả cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; không của đại từ không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, không của đại bi, đại hỷ, đại xả cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được. Chẳng phải pháp không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được có chỗ trụ vậy.

Này Thiện Hiện! Pháp không quên mất vô sở trụ, tánh luôn luôn xả cũng vô sở trụ, không của pháp không quên mất vô sở trụ, không của tánh luôn luôn xả cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì pháp không quên mất không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, tánh luôn luôn xả cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; không của pháp không quên mất không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, không của tánh luôn luôn xả cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được. Chẳng phải pháp không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được có chỗ trụ vậy.

Này Thiện Hiện! Trí nhất thiết vô sở trụ, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng vô sở trụ, không của trí nhất thiết vô sở trụ, không của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; không của trí nhất thiết không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, không của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được. Chẳng phải pháp không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được có chỗ trụ vậy.

Này Thiện Hiện! Ba mươi hai tướng Đại sĩ vô sở trụ, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc cũng vô sở trụ; không của ba mươi hai tướng Đại sĩ vô sở trụ, không của tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì ba mươi hai tướng Đại sĩ không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; không của ba mươi hai tướng Đại sĩ không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, không của tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được. Chẳng phải pháp không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được có chỗ trụ vậy.

Này Thiện Hiện! Quả Dự lưu vô sở trụ, quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác cũng vô sở trụ, không của quả Dự lưu vô sở trụ, không của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì quả Dự lưu không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; không của quả Dự lưu không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, không của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, quả vị Độc giác cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được. Chẳng phải pháp không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được có chỗ trụ vậy.

Này Thiện Hiện! Tất cả hạnh Đại Bồ-tát vô sở trụ, quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật cũng vô sở trụ, không của tất cả hạnh Đại Bồ-tát vô sở trụ, không của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì tất cả hạnh Đại Bồ-tát không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; không của tất cả hạnh Đại Bồ-tát không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, không của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được. Chẳng phải pháp không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được có chỗ trụ vậy.

Này Thiện Hiện! Pháp thế gian vô sở trụ, pháp xuất thế gian cũng vô sở trụ, không của pháp thế gian vô sở trụ, không của pháp xuất thế gian cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì pháp thế gian không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, pháp xuất thế gian cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; không của pháp thế gian không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, không của pháp xuất thế gian cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được. Chẳng phải pháp không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được có chỗ trụ vậy.

Này Thiện Hiện! Pháp hữu lậu vô sở trụ, pháp vô lậu cũng vô sở trụ, không của pháp hữu lậu vô sở trụ, không của pháp vô lậu cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì pháp hữu lậu không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, pháp vô lậu cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; không của pháp hữu lậu không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, không của pháp vô lậu cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được. Chẳng phải pháp không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được có chỗ trụ vậy.

Này Thiện Hiện! Pháp hữu vi vô sở trụ, pháp vô vi cũng vô sở trụ, không của pháp hữu vi vô sở trụ, không của pháp vô vi cũng vô sở trụ. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì pháp hữu vi không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, pháp vô vi cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được; không của pháp hữu vi không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được, không của pháp vô vi cũng không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được. Chẳng phải pháp không có tự tánh, chẳng thể nắm bắt được có chỗ trụ vậy.

Này Thiện Hiện! Chẳng phải pháp vô tánh trụ pháp vô tánh, chẳng phải pháp hữu tánh trụ pháp hữu tánh; chẳng phải pháp vô tánh trụ pháp hữu tánh, chẳng phải pháp hữu tánh trụ pháp vô tánh; chẳng phải pháp tự tánh trụ pháp tự tánh, chẳng phải pháp tha tánh trụ pháp tha tánh; chẳng phải pháp tự tánh trụ pháp tha tánh, chẳng phải pháp tha tánh trụ pháp tự tánh. Vì sao? Vì tất cả pháp ấy đều chẳng thể nắm bắt được; pháp chẳng thể nắm bắt được thì sẽ trụ nơi nào?

Này Thiện Hiện! Như thế, Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, dùng các pháp không như thế tu chuyển các pháp, cũng có thể như thật chỉ dạy hữu tình.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát có thể tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa như thế, thì đối với Phật, Bồ-tát, Độc giác, Thanh văn, tất cả Thánh chúng đều không lầm lỗi. Vì sao? Vì chư Phật, Bồ-tát, Độc giác, Thanh văn, tất cả Thánh chúng đối với pháp tánh ấy đều có khả năng tùy giác; đã tùy giác rồi, vì các hữu tình tuyên thuyết không sai lệch; tuy vì các hữu tình tuyên thuyết các pháp nhưng đối với pháp tánh không chuyển không vượt. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì thật tánh của các pháp tức là pháp giới, chơn như, thật tế; pháp giới, chơn như, thật tế như thế đều chẳng thể chuyển, chẳng thể vượt. Vì sao? Vì pháp giới, chơn như, thật tế như thế đều không có tự tánh để có thể chuyển vượt.

 

Quyển thứ 382

Hết

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/09/2015(Xem: 13460)
Điện Thư Phân Ưu Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật Tu Viện Quảng Đức Vừa nhận được tin buồn Phu Quân Đạo Hữu Châu Ngọc Lê Hoa Nhụy, là: Bác Sĩ NGUYỄN LÊ ĐỨC, pháp danh: MINH QUANG Hội Trưởng Hội Phật Giáo Đông Bắc Florida, Chùa Hải Đức. Sinh năm Đinh Hợi (1947) tại Hà Nam, Bắc Việt Vãng sanh lúc 11.37am ngày 21-9-2015 tại Jacksonville, tiểu bang Florida, Hoa Kỳ Hưởng thọ: 69 tuổi Bác Sĩ Minh Quang Nguyễn Lê Đức là một nhà Phật học lỗi lạc, viết lách, nghiên cứu, thuyết giảng hàng tuần cũng như đích thân tu trì Phật Pháp, đặc biệt Bác sĩ là vị lãnh đạo tinh thần tại Chùa Hải Đức trong ba mươi năm qua, người đã có công tạo dựng và duy trì ngôi Tam Bảo Hải Đức đến ngày hôm nay. Sự ra đi vĩnh viễn của Bác Sĩ Minh Quang là một mất mát lớn lao cho Phật tử thuộc Chùa Hải Đức, Florida; mong rằng Đạo hữu Châu Ngọc cùng quý Phật tử Chùa Hải Đức cố gắng vượt qua sự đau buồn này và tiếp tục gánh vác Phật sự cũng như gìn giữ gia tài Pháp Bảo mà Bác Sĩ Minh Quang đã dày công gây dựn
11/09/2015(Xem: 6054)
Tổ Phước Tường , húy thượng Thanh hạ Chánh, tự Quảng Đạt hiệu Phước Tường, thuộc dòng Lâm Tế Liễu Quán, đời thứ 41. Ngài sinh ngày rằm, tháng 5 năm Đinh Mão (1867) vào đời vua Tự Đức năm thứ 20, tại tỉnh Phú Yên. Tổ xuất thân là một nhà Nho từng dự thi Hương tại Bình Định. Năm Ất Dậu (1885), ngài cùng với tầng lớp thanh niên nho sĩ tích cực hưởng ứng phong trào Cần vương. Sau đó, ngài xuất gia với Tổ Hải Nhiểu -Thiên Ân tại chùa Khánh Long (Phú Yên). Ở đây một thời gian, ngài được bổn sư gởi đến tham học với các bậc thiền sư thạc đức đương thời ở Phú Yên như Tổ Pháp Hỷ (chùa Từ Quang), Tổ Trí Hải (chùa Thiên Thai Sơn Thạch).
08/09/2015(Xem: 36947)
Sister Chan Khong, Thich Nhat Hanh’s closest collaborator, told Lion’s Roar this morning that the 88-year-old Vietnamese Zen master is in hospital. Given his age, many of Thich Nhat Hanh’s friends and followers are concerned for his wellbeing, though details about his condition have yet to be shared.
08/09/2015(Xem: 6971)
Đây không phải chỉ là một sự tán dương ca ngợi, mà còn là những điều trân quý, người đời sau cần giữ gìn truyền tụng, nếu chúng ta hiểu rõ nghĩa của những chữ “ẩm thủy tư nguyên”là gì. Uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây v.v… vốn là những câu tục ngữ mà người Việt chúng ta vẫn hay nhắc nhở đến hằng ngày, thì không có lý do gì để chúng ta quên ơn của những người đi trước đã dày công gầy dựng lên. Các nhà Bác Học như Albert Einstein có thuyết tương đối, Văn Hào Victor Hugo, định đề Eclik, định lý Archimet v.v… tất cả đều được mọi người biết đến và về sau nầy có những công trình được cầu chứng tại tòa án để không ai có thể phát hiện trùng lặp với tên tuổi của mình đã sáng chế. Thế nhưng cũng có nhiều công trình thế kỷ thuộc diện tâm linh, phi vật thể, thì chưa ai nghĩ đến điều nầy cả. Điều nầy cũng giống như bản quyền của một tác phẩm được độc quyền xử dụng, phát hành khi đã có khai báo với tòa án. Ở đây tôi muốn nhắc đến những công trình thế kỷ về sau, mà cố Hòa Thượng Thích Min
26/08/2015(Xem: 7844)
Ngày 16 tháng 5 vừa qua một trong số các nhà sư Phật giáo nổi tiếng nhất của Thái Lan, và cũng là một trong số các vị Thầy cuối cùng và khác thường của truyền thống "Tu Trong Rừng", là Luang Poh Koon vừa viên tịch. Luang Poh Koon thường được biểu trưng bởi hình ảnh một nhà sư ngồi chồm hổm tay cầm điếu thuốc lá, nhằm nhắc lại giây phút thật bất ngờ và đột ngột khi ông đạt được giác ngộ.
19/08/2015(Xem: 15599)
CÁO PHÓ TANG LỄ Hòa Thượng Thích Viên Diệu Nam mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật Môn đồ tứ chúng chúng con cung kính báo tin Thầy của chúng con là: Hòa Thượng Thích Viên Diệu. - Khai sáng chùa Thuyền Tôn - Montreal - Quebec và Tổ Đình Thuyền Tôn Hải Ngoại tại thành phố Cornwall, tỉnh bang Ontario, Canada. - Tổng Vụ Trưởng Vụ Cư Sĩ GHPGVNTN Hải Ngoại tại Canada. Đã thuận thế vô thường, thâu thần viên tịch vào lúc 22 giờ ngày 18 tháng 08 năm 2015 ( nhằm ngày 05/07/ Ất mùi) tại chùa Thuyền Tôn , Montreal. Trụ thế : 62 tuổi và 40 giới lạp. Lễ nhập quan sẽ được cử hành vào lúc 14 giờ ngày 25 tháng 08 năm 2015 (nhằm ngày 12/07/Ất mùi) tại nhà quàn LE REPOS SAINT FRANCOIS D”ASSISE và lễ cung nghinh Kim Quan an trí tại chùa Thuyền Tôn – Montreal vào lúc 17 giờ cùng ngày. Lễ viếng bắt đầu từ ngày 26 tháng 08 đến ngày 30 tháng 08 năm 2015. Lễ Di Quan được cử hành lúc 9 giờ sang ngày 31tháng 08 năm 2015. Kim Quan sẽ được nhập Bảo tháp tại khuôn viên Tổ Đình Thuyền T
01/08/2015(Xem: 7624)
Chúc Mừng Hoà thượng Thích Minh Dung
22/07/2015(Xem: 9131)
Hòa thượng họ Đỗ, huý Châu Lân, sinh năm 1927 (Đinh Mão) tại thôn Quan Quang, xã Nhơn Khánh, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Thân phụ là cụ ông Đỗ Hoạch, và thân mẫu là cụ bà Trần Thị Tú. Gia đình gồm năm người con, hai trai và ba gái; Hòa thượng Thích Đỗng Quán thứ ba, và Ngài là thứ tư. Gia đình Ngài đời đời thuần tín Tam bảo. Cha mất sớm, được mẹ chăm lo dạy dỗ. Với bẩm tánh thông minh và hiếu học, năm 11 tuổi Ngài thi đậu bằng Yếu lược. Việc này chưa xảy ra ở vùng quê của Ngài nên đích thân ông Lý trưởng đến thăm và chúc mừng. Đó là một vinh dự cho gia đình và quê hương Ngài lúc bấy giờ.
14/07/2015(Xem: 17990)
Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư (Ngày Về Nguồn 8) sẽ được tổ chức tại chùa Pháp Bảo – Sydney, Úc Châu vào cuối tháng 9 năm 2014. Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư (Ngày Về Nguồn 9) năm 2015 dự định sẽ được tổ chức tại chùa Khánh Anh - Evry, Pháp Quốc nhân lễ Khánh Thành chùa cũng như lễ Đại Tường của cố Hòa Thượng Thích Minh Tâm. Trong dịp này, chư Tăng Ni sẽ hội luận vào ngày thứ bảy 15.08.2015 như chương trình gửi kèm theo đây. Chư Tôn Đức cũng như quý Phật tử nào không tham dự được suốt chương trình các ngày Lễ thì xin mời chọn những ngày thích hợp để đến với Tăng đoàn nhằm nói lên tinh thần cộng trụ trong sinh hoạt Phật sự tại hải ngoại ngày nay. Kính mong chư Tôn Đức và quý vị Phật tử hồi báo cho Ban Tổ
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]