Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 312: Phẩm Chúng Dụ 02

13/07/201514:45(Xem: 13118)
Quyển 312: Phẩm Chúng Dụ 02

Tập 06

 Quyển 312

 Phẩm Chúng Dụ 02

Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm

Diễn đọc: Cư Sĩ Chánh Trí




 

 

Lại nữa, Thiện Hiện! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, nếu chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập, vì người diễn nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; nếu chẳng dùng Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa nhiếp hóa hữu tình khác; hoặc chẳng dùng tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa nhiếp hóa hữu tình khác; hoặc chẳng dùng pháp không nội nhiếp hóa hữu tình khác; hoặc chẳng dùng pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh nhiếp hóa hữu tình khác; hoặc chẳng dùng chơn như nhiếp hóa hữu tình khác, hoặc chẳng dùng pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì nhiếp hóa hữu tình khác; hoặc chẳng dùng Thánh đế khổ để nhiếp hóa hữu tình khác, hoặc chẳng dùng Thánh đế tập, diệt, đạo để nhiếp hóa hữu tình khác; hoặc chẳng dùng bốn tịnh lự để nhiếp hóa hữu tình khác, hoặc chẳng dùng bốn vô lượng, bốn định vô sắc để nhiếp hóa hữu tình khác; hoặc chẳng dùng tám giải thoát để nhiếp hóa hữu tình khác, hoặc chẳng dùng tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ để nhiếp hóa hữu tình khác; hoặc chẳng dùng bốn niệm trụ để nhiếp hóa hữu tình khác, hoặc chẳng dùng bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo để nhiếp hóa hữu tình khác; hoặc chẳng dùng pháp môn giải thoát không để nhiếp hóa hữu tình khác, hoặc chẳng dùng pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện để nhiếp hóa hữu tình khác; hoặc chẳng dùng mười địa Bồ-tát để nhiếp hóa hữu tình khác; hoặc chẳng dùng năm loại mắt để nhiếp hóa hữu tình khác, hoặc chẳng dùng sáu phép thần thông để nhiếp hóa hữu tình khác; hoặc chẳng dùng mười lực Phật để nhiếp hóa hữu tình khác, hoặc chẳng dùng bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng để nhiếp hóa hữu tình khác; hoặc chẳng dùng pháp không quên mất để nhiếp hóa hữu tình khác, hoặc chẳng dùng tánh luôn luôn xả để nhiếp hóa hữu tình khác; hoặc chẳng dùng trí nhất thiết để nhiếp hóa hữu tình khác, hoặc chẳng dùng trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng để nhiếp hóa hữu tình khác; hoặc chẳng dùng tất cả pháp môn Đà-la-ni để nhiếp hóa hữu tình khác, hoặc chẳng dùng tất cả pháp môn Tam-ma-địa để nhiếp hóa hữu tình khác; hoặc chẳng dùng pháp quả Dự-lưu để nhiếp hóa hữu tình khác, hoặc chẳng dùng pháp quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán để nhiếp hóa hữu tình khác; hoặc chẳng dùng pháp quả vị Độc-giác để nhiếp hóa hữu tình khác; hoặc chẳng dùng tất cả hạnh đại Bồ-tát để nhiếp hóa hữu tình khác; hoặc chẳng dùng quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật để nhiếp hóa hữu tình khác, này Thiện Hiện! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, nếu chẳng tùy thuận tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, hoặc chẳng tùy thuận tu hành tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa; hoặc chẳng tùy thuận tu hành pháp không nội, hoặc chẳng tùy thuận tu hành pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; hoặc chẳng tùy thuận tu hành chơn như, hoặc chẳng tùy thuận tu hành pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; hoặc chẳng tùy thuận tu hành Thánh đế khổ, hoặc chẳng tùy thuận tu hành Thánh đế tập, diệt, đạo; hoặc chẳng tùy thuận tu hành bốn tịnh lự, hoặc chẳng tùy thuận tu hành bốn vô lượng, bốn định vô sắc; hoặc chẳng tùy thuận tu hành tám giải thoát, hoặc chẳng tùy thuận tu hành tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; hoặc chẳng tùy thuận tu hành bốn niệm trụ, hoặc chẳng tùy thuận tu hành bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; hoặc chẳng tùy thuận tu hành pháp môn giải thoát không, hoặc chẳng tùy thuận tu hành pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; hoặc chẳng tùy thuận tu hành mười địa Bồ-tát; hoặc chẳng tùy thuận tu hành năm loại mắt, hoặc chẳng tùy thuận tu hành sáu phép thần thông; hoặc chẳng tùy thuận tu hành mười lực Phật, hoặc chẳng tùy thuận tu hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc chẳng tùy thuận tu hành pháp không quên mất, hoặc chẳng tùy thuận tu hành tánh luôn luôn xả; hoặc chẳng tùy thuận tu hành trí nhất thiết, hoặc chẳng tùy thuận tu hành trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; hoặc chẳng tùy thuận tu hành tất cả pháp môn Đà-la-ni, hoặc chẳng tùy thuận tu hành tất cả pháp môn Tam-ma-địa; hoặc chẳng tùy thuận tu hành pháp quả Dự-lưu, hoặc chẳng tùy thuận tu hành quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; hoặc chẳng tùy thuận tu hành pháp quả vị Độc-giác; hoặc chẳng tùy thuận tu hành tất cả hạnh đại Bồ-tát; hoặc chẳng tùy thuận tu hành quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật thì này Thiện Hiện! Nên biết, các thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy, do nhân duyên này sẽ rơi vào một trong hai nơi thuộc nhị địa, đó là địa vị Thanh-văn, hoặc địa vị Độc-giác. Vì sao? Vì thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy chẳng thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; cũng chẳng thường dùng Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa để nhiếp hóa hữu tình khác, lại chẳng thường tùy thuận tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa; do nhân duyên này, thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy sẽ rơi vào một trong hai chỗ của nhị địa, đó là địa vị Thanh-văn hoặc địa vị Độc-giác.

Lại nữa, Thiện Hiện! Như con thuyền bềnh bồng trên biển cả bị vỡ, người ở trong ấy, hoặc chẳng bám cây gỗ, chẳng bám đồ vật, chẳng ôm phao nổi, chẳng nắm miếng ván, chẳng nắm tử thi để làm điểm tựa, thì biết chắc là sẽ chết chìm, chẳng đến được bờ.

Này Thiện Hiện! Lại có con thuyền bồng bềnh trên biển cả, tuy bị vỡ nhưng người trong thuyền bám được cây gỗ, đồ vật, phao nổi, ván, tử thi để làm điểm tựa thì nên biết, những người ấy chắc chắn không chết chìm, đến bờ an ổn, không tổn, không hại, hưởng niềm vui vi diệu.

Này Thiện Hiện! Cũng vậy, các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, đối với Đại-thừa tuy thành tựu ít phần tín, kính, ưa, thích, nhưng chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa để làm chỗ nương tựa; hoặc chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa để làm chỗ nương tựa; hoặc chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập pháp không nội để làm chỗ nương tựa, hoặc chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh để làm nơi nương tựa; hoặc chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập chơn như để làm nơi nương tựa, hoặc chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì để làm nơi nương tựa; hoặc chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập Thánh đế khổ để làm nơi nương tựa, hoặc chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập Thánh đế tập, diệt, đạo để làm nơi nương tựa; hoặc chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập bốn tịnh lự để làm nơi nương tựa, hoặc chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập bốn vô lượng, bốn định vô sắc để làm nơi nương tựa; hoặc chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập tám giải thoát để làm nơi nương tựa, hoặc chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ để làm nơi nương tựa; hoặc chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập bốn niệm trụ để làm nơi nương tựa, hoặc chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo để làm nơi nương tựa; hoặc chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập pháp môn giải thoát không để làm nơi nương tựa, hoặc chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện để làm nơi nương tựa; hoặc chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập mười địa Bồ-tát để làm nơi nương tựa; hoặc chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập năm loại mắt để làm nơi nương tựa, hoặc chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập sáu phép thần thông để làm nơi nương tựa; hoặc chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập mười lực Phật để làm nơi nương tựa, hoặc chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng để làm nơi nương tựa; hoặc chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập pháp không quên mất để làm nơi nương tựa, hoặc chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập tánh luôn luôn xả để làm nơi nương tựa; hoặc chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập trí nhất thiết để làm nơi nương tựa, hoặc chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng để làm nơi nương tựa; hoặc chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập tất cả pháp môn Đà-la-ni để làm nơi nương tựa, hoặc chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập tất cả pháp môn Tam-ma-địa để làm nơi nương tựa; hoặc chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập tất cả hạnh đại Bồ-tát để làm nơi nương tựa; hoặc chẳng sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật để làm nơi nương tựa, thì này Thiện Hiện, nên biết, các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa ấy, nửa đường suy bại, chẳng chứng được quả vị giác ngộ cao tột, mà thối nhập địa vị Thanh-văn hoặc Độc-giác.

Này Thiện Hiện! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, đối với Đại-thừa có sự thành tựu viên mãn tin, kính, ưa, thích; hoặc thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa để làm nơi nương tựa, hoặc thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa để làm nơi nương tựa; hoặc thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập pháp không nội để làm nơi nương tựa, hoặc thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh để làm nơi nương tựa; hoặc thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập chơn như để làm nơi nương tựa, hoặc thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì để làm nơi nương tựa; hoặc thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập Thánh đế khổ để làm nơi nương tựa, hoặc thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập Thánh đế tập, diệt, đạo để làm nơi nương tựa; hoặc thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập bốn tịnh lự để làm nơi nương tựa, hoặc thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập bốn vô lượng, bốn định vô sắc để làm nơi nương tựa; hoặc thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập tám giải thoát để làm nơi nương tựa, hoặc thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ để làm nơi nương tựa; hoặc thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập bốn niệm trụ để làm nơi nương tựa, hoặc thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo để làm nơi nương tựa; hoặc thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập pháp môn giải thoát không để làm nơi nương tựa, hoặc thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện để làm nơi nương tựa; hoặc thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập mười địa Bồ-tát để làm nơi nương tựa; hoặc thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập năm loại mắt để làm nơi nương tựa, hoặc thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập sáu phép thần thông để làm nơi nương tựa; hoặc thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập mười lực Phật để làm nơi nương tựa, hoặc thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng để làm nơi nương tựa; hoặc thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập pháp không quên mất để làm nơi nương tựa, hoặc thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập tánh luôn luôn xả để làm nơi nương tựa; hoặc thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập trí nhất thiết để làm nơi nương tựa, hoặc thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng để làm nơi nương tựa; hoặc thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập tất cả pháp môn Đà-la-ni để làm nơi nương tựa, hoặc thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập tất cả pháp môn Tam-ma-địa để làm nơi nương tựa; hoặc thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập tất cả hạnh đại Bồ-tát để làm nơi nương tựa; hoặc thường sao chép, thọ trì, đọc tụng, tư duy, tu tập quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật để làm nơi nương tựa thì này Thiện Hiện, nên biết, các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa ấy, nửa đường không bao giờ thối nhập địa vị Thanh-văn hoặc Độc-giác, nhất định chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Như người muốn qua đồng hoang nguy hiểm, nếu chẳng mang theo lương thực, đồ dùng, thì chẳng thể đến được nơi an lạc, mà ở nửa đường gặp khổ nạn mất mạng. Này Thiện Hiện! Cũng vậy, các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, đối với quả vị giác ngộ cao tột dù có tín, có nhẫn, có tịnh tâm, có thâm tâm, có sự ưa thích, có thắng giải, có xả, có tinh tấn, nhưng chẳng nhiếp thọ Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, hoặc chẳng nhiếp thọ tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa; hoặc chẳng nhiếp thọ pháp không nội, hoặc chẳng nhiếp thọ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; hoặc chẳng nhiếp thọ chơn như, hoặc chẳng nhiếp thọ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; hoặc chẳng nhiếp thọ Thánh đế khổ, hoặc chẳng nhiếp thọ Thánh đế tập, diệt, đạo; hoặc chẳng nhiếp thọ bốn tịnh lự, hoặc chẳng nhiếp thọ bốn vô lượng, bốn định vô sắc; hoặc chẳng nhiếp thọ tám giải thoát, hoặc chẳng nhiếp thọ tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; hoặc chẳng nhiếp thọ bốn niệm trụ, hoặc chẳng nhiếp thọ bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; hoặc chẳng nhiếp thọ pháp môn giải thoát không, hoặc chẳng nhiếp thọ pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; hoặc chẳng nhiếp thọ mười địa Bồ-tát; hoặc chẳng nhiếp thọ năm loại mắt, hoặc chẳng nhiếp thọ sáu phép thần thông; hoặc chẳng nhiếp thọ mười lực Phật, hoặc chẳng nhiếp thọ bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc chẳng nhiếp thọ pháp không quên mất, hoặc chẳng nhiếp thọ tánh luôn luôn xả; hoặc chẳng nhiếp thọ trí nhất thiết, hoặc chẳng nhiếp thọ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; hoặc chẳng nhiếp thọ tất cả pháp môn Đà-la-ni, hoặc chẳng nhiếp thọ tất cả pháp môn Tam-ma-địa; hoặc chẳng nhiếp thọ tất cả hạnh đại Bồ-tát; hoặc chẳng nhiếp thọ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật thì này Thiện Hiện, nên biết, các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa ấy, nửa đường suy bại, chẳng chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột mà thối nhập địa vị Thanh-văn hoặc Độc-giác.

Này Thiện Hiện! Như người muốn qua đồng hoang nguy hiểm, nếu luôn mang theo lương thực, đồ dùng, chắc chắn sẽ đến được nơi an lạc, chẳng bao giờ gặp khổ nạn, phải bỏ mạng giữa đường. Này Thiện Hiện! Cũng vậy, các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, nếu đối với quả vị giác ngộ cao tột có tín, có nhẫn, có tịnh tâm, có thâm tâm, có sự ưa thích, có thắng giải, có xả, có tinh tấn; lại thường nhiếp thọ Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, lại thường nhiếp thọ tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa; lại thường nhiếp thọ pháp không nội, lại thường nhiếp thọ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; lại thường nhiếp thọ chơn như, lại thường nhiếp thọ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; lại thường nhiếp thọ Thánh đế khổ, lại thường nhiếp thọ Thánh đế tập, diệt, đạo; lại thường nhiếp thọ bốn tịnh lự, lại thường nhiếp thọ bốn vô lượng, bốn định vô sắc; lại thường nhiếp thọ tám giải thoát, lại thường nhiếp thọ tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; lại thường nhiếp thọ bốn niệm trụ, lại thường nhiếp thọ bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; lại thường nhiếp thọ pháp môn giải thoát không, lại thường nhiếp thọ pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; lại thường nhiếp thọ mười địa Bồ-tát; lại thường nhiếp thọ năm loại mắt, lại thường nhiếp thọ sáu phép thần thông; lại thường nhiếp thọ mười lực Phật, lại thường nhiếp thọ bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; lại thường nhiếp thọ pháp không quên mất, lại thường nhiếp thọ tánh luôn luôn xả; lại thường nhiếp thọ trí nhất thiết, lại thường nhiếp thọ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; lại thường nhiếp thọ tất cả pháp môn Đà-la-ni, lại thường nhiếp thọ tất cả pháp môn Tam-ma-địa; lại thường nhiếp thọ tất cả hạnh đại Bồ-tát; lại thường nhiếp thọ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật thì này Thiện Hiện, nên biết, các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa ấy, quyết chẳng suy hao thối bại giữa đường mà vượt lên địa vị Thanh-văn, địa vị Độc-giác, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Thí như người con trai hoặc người con gái, mang bình đất chưa nung đi lấy nước hoặc ở sông, hoặc ở ao, hoặc ở giếng, hoặc ở suối, hoặc ở kênh ngòi, nên biết bình này chẳng bao lâu sẽ tan rã. Vì sao? Vì bình ấy chưa nung chín, chẳng thể đựng nước được, kết cục bị tan rã.

Này Thiện Hiện! Cũng như thế, có thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, đối với quả vị giác ngộ cao tột dù có tín, có nhẫn, có tịnh tâm, có thâm tâm, có ưa thích, có thắng giải, có xả, có tinh tấn, nhưng chẳng nhiếp thọ Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nhiếp thọ phương tiện thiện xảo, hoặc chẳng nhiếp thọ tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa; hoặc chẳng nhiếp thọ pháp không nội, hoặc chẳng nhiếp thọ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; hoặc chẳng nhiếp thọ chơn như, hoặc chẳng nhiếp thọ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; hoặc chẳng nhiếp thọ Thánh đế khổ, hoặc chẳng nhiếp thọ Thánh đế tập, diệt, đạo; hoặc chẳng nhiếp thọ bốn tịnh lự, hoặc chẳng nhiếp thọ bốn vô lượng, bốn định vô sắc; hoặc chẳng nhiếp thọ tám giải thoát, hoặc chẳng nhiếp thọ tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; hoặc chẳng nhiếp thọ bốn niệm trụ, hoặc chẳng nhiếp thọ bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; hoặc chẳng nhiếp thọ pháp môn giải thoát không, hoặc chẳng nhiếp thọ pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; hoặc chẳng nhiếp thọ mười địa Bồ-tát; hoặc chẳng nhiếp thọ năm loại mắt, hoặc chẳng nhiếp thọ sáu phép thần thông; hoặc chẳng nhiếp thọ mười lực Phật, hoặc chẳng nhiếp thọ bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc chẳng nhiếp thọ pháp không quên mất, hoặc chẳng nhiếp thọ tánh luôn luôn xả; hoặc chẳng nhiếp thọ trí nhất thiết, hoặc chẳng nhiếp thọ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; hoặc chẳng nhiếp thọ tất cả pháp môn Đà-la-ni, hoặc chẳng nhiếp thọ tất cả pháp môn Tam-ma-địa; hoặc chẳng nhiếp thọ tất cả hạnh đại Bồ-tát; hoặc chẳng nhiếp thọ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật thì này Thiện Hiện, nên biết, các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa ấy, giữa đường suy bại, chẳng chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột mà thối nhập địa vị Thanh-văn và Độc-giác.

Này Thiện Hiện! Thí như các người con trai, con gái, mang bình đất nung chín đi đến sông, hoặc ao, hoặc giếng, hoặc suối, hoặc kênh ngòi để lấy nước, nên biết bình này không bào giờ bị hư rã. Vì sao? Vì bình này đã được nung chín, rất chắc chắn, có thể đựng đầy nước.

Này Thiện Hiện! Cũng như vậy, có các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, nếu đối với quả vị giác ngộ cao tột có tín, có nhẫn, có tịnh tâm, có thâm tâm, có ưa thích, có thắng giải, có xả, có tinh tấn, lại thường nhiếp thọ Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, nhiếp thọ phương tiện thiện xảo, lại thường nhiếp thọ tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa; lại thường nhiếp thọ pháp không nội, lại thường nhiếp thọ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; lại thường nhiếp thọ chơn như, lại thường nhiếp thọ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; lại thường nhiếp thọ Thánh đế khổ, lại thường nhiếp thọ Thánh đế tập, diệt, đạo; lại thường nhiếp thọ bốn tịnh lự, lại thường nhiếp thọ bốn vô lượng, bốn định vô sắc; lại thường nhiếp thọ tám giải thoát, lại thường nhiếp thọ tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; lại thường nhiếp thọ bốn niệm trụ, lại thường nhiếp thọ bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; lại thường nhiếp thọ pháp môn giải thoát không, lại thường nhiếp thọ pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; lại thường nhiếp thọ mười địa Bồ-tát; lại thường nhiếp thọ năm loại mắt, lại thường nhiếp thọ sáu phép thần thông; lại thường nhiếp thọ mười lực Phật, lại thường nhiếp thọ bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; lại thường nhiếp thọ pháp không quên mất, lại thường nhiếp thọ tánh luôn luôn xả; lại thường nhiếp thọ trí nhất thiết, lại thường nhiếp thọ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; lại thường nhiếp thọ tất cả pháp môn Đà-la-ni, lại thường nhiếp thọ tất cả pháp môn Tam-ma-địa; lại thường nhiếp thọ tất cả hạnh đại Bồ-tát; lại thường nhiếp thọ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật thì này Thiện Hiện, nên biết, các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa ấy, không bao giờ suy hao, thối bại nửa đường, vượt qua địa vị Thanh-văn và địa vị Độc-giác, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Như có người lái buôn không có trí phương tiện thiện xảo, khi thuyền còn ở bờ biển, chưa sửa chữa chuẩn bị đầy đủ, mà mang của vật chất lên đó, rồi đẩy ra giữa dòng, gấp rút ra đi thì này Thiện Hiện, nên biết thuyền ấy bị hư chìm giữa đường, người, thuyền, của cải trôi giạt tứ tán. Người lái buôn như thế không có trí phương tiện thiện xảo, nên bị tan thân mất mạng, và tiêu tan của báu.

Này Thiện Hiện! Cũng như vậy, có các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, đối với quả vị giác ngộ cao tột dù có tín, có nhẫn, có tịnh tâm, có thâm tâm, có ưa thích, có thắng giải, có xả, có tinh tấn, nhưng nếu chẳng nhiếp thọ Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa chẳng nhiếp thọ phương tiện thiện xảo, hoặc chẳng nhiếp thọ tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa; hoặc chẳng nhiếp thọ pháp không nội, hoặc chẳng nhiếp thọ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; hoặc chẳng nhiếp thọ chơn như, hoặc chẳng nhiếp thọ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; hoặc chẳng nhiếp thọ Thánh đế khổ, hoặc chẳng nhiếp thọ Thánh đế tập, diệt, đạo; hoặc chẳng nhiếp thọ bốn tịnh lự, hoặc chẳng nhiếp thọ bốn vô lượng, bốn định vô sắc; hoặc chẳng nhiếp thọ tám giải thóat, hoặc chẳng nhiếp thọ tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; hoặc chẳng nhiếp thọ bốn niệm trụ, hoặc chẳng nhiếp thọ bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; hoặc chẳng nhiếp thọ pháp môn giải thoát không, hoặc chẳng nhiếp thọ pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; hoặc chẳng nhiếp thọ mười địa Bồ-tát; hoặc chẳng nhiếp thọ năm loại mắt, hoặc chẳng nhiếp thọ sáu phép thần thông; hoặc chẳng nhiếp thọ mười lực Phật, hoặc chẳng nhiếp thọ bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc chẳng nhiếp thọ pháp không quên mất, hoặc chẳng nhiếp thọ tánh luôn luôn xả; hoặc chẳng nhiếp thọ trí nhất thiết, hoặc chẳng nhiếp thọ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; hoặc chẳng nhiếp thọ tất cả pháp môn Đà-la-ni, hoặc chẳng nhiếp thọ tất cả pháp môn Tam-ma-địa; hoặc chẳng nhiếp thọ tất cả hạnh đại Bồ-tát; hoặc chẳng nhiếp thọ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật thì này Thiện Hiện, nên biết, các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa ấy, bị suy bại nửa đường, tan thân mất mạng và tiêu tan của báu. Hoại thân mạng đó là rơi vào địa vị Thanh-văn hoặc Độc-giác, mất của báu, đó là mất quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Thí như người lái buôn có trí phương tiện thiện xảo, ở tại bờ biển, trước hết sửa chữa, trang bị thuyền xong, mới đẩy xuống nước, biết không còn lỗ rĩ, sau đó mới mang của cải chất lên trên đó rồi ra đi.

Này Thiện Hiện! Nên biết thuyền ấy chắc chắn chẳng bị hư chìm, người vật an ổn, đến nơi cần đến.

Này Thiện Hiện! Cũng như vậy, có các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, nếu đối với quả vị giác ngộ cao tột có tín, có nhẫn, có tịnh tâm, có thâm tâm, có ưa thích, có thắng giải, có xả, có tinh tấn, lại thường nhiếp thọ Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thường nhiếp thọ phương tiện thiện xảo, lại thường nhiếp thọ tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa; lại thường nhiếp thọ pháp không nội, lại thường nhiếp thọ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; lại thường nhiếp thọ chơn như, lại thường nhiếp thọ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; lại thường nhiếp thọ Thánh đế khổ, lại thường nhiếp thọ Thánh đế tập, diệt, đạo; lại thường nhiếp thọ bốn tịnh lự, lại thường nhiếp thọ bốn vô lượng, bốn định vô sắc, lại thường nhiếp thọ tám giải thoát, lại thường nhiếp thọ tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; lại thường nhiếp thọ bốn niệm trụ, lại thường nhiếp thọ bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; lại thường nhiếp thọ pháp môn giải thoát không, lại thường nhiếp thọ pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; lại thường nhiếp thọ mười địa Bồ-tát; lại thường nhiếp thọ năm loại mắt, lại thường nhiếp thọ sáu phép thần thông; lại thường nhiếp thọ mười lực Phật, lại thường nhiếp thọ bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; lại thường nhiếp thọ pháp không quên mất, lại thường nhiếp thọ tánh luôn luôn xả; lại thường nhiếp thọ trí nhất thiết, lại thường nhiếp thọ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; lại thường nhiếp thọ tất cả pháp môn Đà-la-ni, lại thường nhiếp thọ tất cả pháp môn Tam-ma-địa; lại thường nhiếp thọ tất cả hạnh đại Bồ-tát; lại thường nhiếp thọ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật thì này Thiện Hiện, nên biết, các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa ấy, không bao giờ suy hao thối bại nửa đường, vượt địa vị Thanh-văn và địa vị Độc-giác, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

Này Thiện Hiện! Thí như có người một trăm hai mươi tuổi, già nua suy yếu, lại thêm có các chứng bệnh như bệnh phong, bệnh nóng, bệnh đàm, hoặc có cả ba bệnh

Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao, người già bệnh này có thể từ giừơng tự ngồi dậy được chăng?

Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Không!

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Người ấy dù có người đỡ đứng dậy cũng không đủ sức đi một cu lô xá, hay hai cu lô xá, ba cu lô xá. Vì sao? Vì già bệnh quá đỗi.

Này Thiện Hiện! Cũng như vậy, có các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, đối với quả vị giác ngộ cao tột dù có tín, có nhẫn, có tịnh tâm, có thâm tâm, có ưa thích, có thắng giải, có xả, có tinh tấn, nhưng nếu chẳng nhiếp thọ Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nhiếp thọ phương tiện thiện xảo, hoặc chẳng nhiếp thọ tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa; hoặc chẳng nhiếp thọ pháp không nội, hoặc chẳng nhiếp thọ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; hoặc chẳng nhiếp thọ chơn như, hoặc chẳng nhiếp thọ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; hoặc chẳng nhiếp thọ Thánh đế khổ, hoặc chẳng nhiếp thọ Thánh đế tập, diệt, đạo; hoặc chẳng nhiếp thọ bốn tịnh lự, hoặc chẳng nhiếp thọ bốn vô lượng, bốn định vô sắc; hoặc chẳng nhiếp thọ tám giải thoát, hoặc chẳng nhiếp thọ tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; hoặc chẳng nhiếp thọ bốn niệm trụ, hoặc chẳng nhiếp thọ bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; hoặc chẳng nhiếp thọ pháp môn giải thoát không, hoặc chẳng nhiếp thọ pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; hoặc chẳng nhiếp thọ mười địa Bồ-tát; hoặc chẳng nhiếp thọ năm loại mắt, hoặc chẳng nhiếp thọ sáu phép thần thông; hoặc chẳng nhiếp thọ mười lực Phật, hoặc chẳng nhiếp thọ bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc chẳng nhiếp thọ pháp không quên mất, hoặc chẳng nhiếp thọ tánh luôn luôn xả; hoặc chẳng nhiếp thọ trí nhất thiết, hoặc chẳng nhiếp thọ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; hoặc chẳng nhiếp thọ tất cả pháp môn Đà-la-ni, hoặc chẳng nhiếp thọ tất cả pháp môn Tam-ma-địa; hoặc chẳng nhiếp thọ tất cả hạnh đại Bồ-tát; hoặc chẳng nhiếp thọ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật thì này Thiện Hiện, nên biết, các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa ấy, suy bại nửa đường, chẳng chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột mà thối nhập địa vị Thanh-văn hoặc Độc-giác. Vì sao? Vì chẳng nhiếp thọ Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa cho đến chẳng nhiếp thọ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, không có phương tiện thiện xảo.

Này Thiện Hiện! Thí như có người một trăm hai mươi tuổi, già nua suy yếu lại thêm có các bệnh như bệnh phong, bệnh nóng, bệnh đàm, hoặc có đủ cả ba bệnh; người già bệnh ấy muốn rời giường đứng dậy đi tới nơi khác nhưng tự mình chẳng đi được; có hai người mạnh khỏe, dìu hai bên nách, khuyến khích ngồi dậy, nói: Không hề gì, cứ yên tâm đi tới. Hai người chúng tôi không bao giờ bỏ ông đâu, người ấy chắc chắn đi đến đích, an ổn, không tổn hại.

Này Thiện Hiện! Cũng như vậy, có các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, nếu đối với quả vị giác ngộ cao tột có tín, có nhẫn, có tịnh tâm, có thâm tâm, có ưa thích, có thắng giải, có xả, có tinh tấn, lại thường nhiếp thọ Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thường nhiếp thọ phương tiện thiện xảo, lại thường nhiếp thọ tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa; lại thường nhiếp thọ pháp không nội, lại thường nhiếp thọ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; lại thường nhiếp thọ chơn như, lại thường nhiếp thọ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; lại thường nhiếp thọ Thành đế khổ, lại thường nhiếp thọ Thánh đế tập, diệt, đạo; lại thường nhiếp thọ bốn tịnh lự, lại thường nhiếp thọ bốn vô lượng, bốn định vô sắc; lại thường nhiếp thọ tám giải thoát, lại thường nhiếp thọ tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; lại thường nhiếp thọ bốn niệm trụ, lại thường nhiếp thọ bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; lại thường nhiếp thọ pháp môn giải thoát không, lại thường nhiếp thọ pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; lại thường nhiếp thọ mười địa Bồ-tát; lại thường nhiếp thọ năm loại mắt, lại thường nhiếp thọ sáu phép thần thông; lại thường nhiếp thọ mười lực Phật, lại thường nhiếp thọ bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; lại thường nhiếp thọ pháp không quên mất, lại thường nhiếp thọ tánh luôn luôn xả; lại thường nhiếp thọ trí nhất thiết, lại thường nhiếp thọ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; lại thường nhiếp thọ tất cả pháp môn Đà-la-ni, lại thường nhiếp thọ tất cả pháp môn Tam-ma-địa; lại thường nhiếp thọ tất cả hạnh đại Bồ-tát; lại thường nhiếp thọ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật thì này Thiện Hiện, nên biết, các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa ấy, chẳng bao giờ suy hao thối bại nửa đường, vượt địa vị Thanh-văn và Độc-giác, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì thường nhiếp thọ Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa cho đến thường nhiếp thọ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, có phương tiện thiện xảo.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì sao các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, do chẳng nhiếp thọ Bát-nhã-ba-la-mật-đa sâu xa, cũng chẳng nhiếp thọ phương tiện thiện xảo nên rơi lại địa vị Thanh-văn và Độc-giác?

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Hay thay! Hay thay! Ông vì lợi lạc cho các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa mà thưa hỏi Như Lai việc cốt yếu như thế. Ông nay hãy lắng nghe, ta sẽ vì ông mà nói.

Này Thiện Hiện! Có các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, từ khi mới phát tâm đã chấp trước ngã, ngã sở mà tu hành bố thí Ba-la-mật-đa, chấp trước ngã, ngã sở mà tu hành tịnh giới Ba-la-mật-đa, chấp trước ngã, ngã sở mà tu hành an nhẫn Ba-la-mật-đa, chấp trước ngã, ngã sở mà tu hành tinh tấn Ba-la-mật-đa, chấp trước ngã, ngã sở mà tu hành tịnh lự Ba-la-mật-đa, chấp trước ngã, ngã sở mà tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn ấy, khi tu hành bố thí, nghĩ thế này, ta tu hành bố thí, người kia nhận của bố thí, ta bố thí vật như thế; khi tu hành tịnh giới, nghĩ thế này, ta giữ giới, giới là đối tượng của ta giữ, ta thành tựu giới ấy; khi tu hành an nhẫn, nghĩ thế này, ta tu hành an nhẫn, kia là đối tượng mà ta nhẫn, ta thành tựu nhẫn ấy; khi tu hành tinh tấn, nghĩ thế này, ta tinh tấn, ta vì tinh tấn này, ta đầy đủ tinh tấn ấy; khi tu hành tịnh lự, nghĩ thế này, ta tu định, ta vì việc tu định, ta thành tựu định ấy; khi tu hành Bát-nhã, nghĩ thế này, ta tu tuệ, ta vì việc tu tuệ này, ta thành tựu tuệ ấy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa này, khi tu hành bố thí, chấp có bố thí ấy, chấp do bố thí này, chấp bố thí là ngã sở; khi tu hành tịnh giới, chấp có tịnh giới ấy, chấp do tịnh giới này, chấp tịnh giới là ngã sở; khi tu hành an nhẫn, chấp có an nhẫn ấy, chấp do an nhẫn này, chấp an nhẫn là ngã sở; khi tu hành tinh tấn, chấp có tinh tấn ấy, chấp do tinh tấn này, chấp tinh tấn là ngã sở; khi tu hành tịnh lự, chấp có tịnh lự ấy, chấp do tịnh lự này, chấp tịnh lự là ngã sở; khi tu hành Bát-nhã, chấp có Bát-nhã ấy, chấp do Bát-nhã này, chấp Bát-nhã là ngã sở. Vì sao? Vì trong bố thí Ba-la-mật-đa, không phân biệt như vậy. Vì sao? Vì xa lìa bờ bên này, bờ bên kia là tướng của bố thí Ba-la-mật-đa; trong tịnh giới Ba-la-mật-đa, không phân biệt như vậy. Vì sao? Vì xa lìa bờ bên này, bờ bên kia là tướng của tịnh giới Ba-la-mật-đa; trong an nhẫn Ba-la-mật-đa, không phân biệt như vậy. Vì sao? Vì xa lìa bờ bên này, bờ bên kia là tướng của an nhẫn Ba-la-mật-đa; trong tinh tấn Ba-la-mật-đa, không phân biệt như vậy. Vì sao? Vì xa lìa bờ bên này, bờ bên kia là tướng của tinh tấn Ba-la-mật-đa; trong tịnh lự Ba-la-mật-đa, không phân biệt như vậy. Vì sao? Vì xa lìa bờ bên này, bờ bên kia là tướng của tịnh lự Ba-la-mật-đa; trong Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không phân biệt như vậy. Vì sao? Vì xa lìa bờ bên này, bờ bên kia là tướng của Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa này, vì chẳng biết tướng bờ bên này, bờ bên kia, nên chẳng thể nhiếp thọ bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng thể nhiếp thọ tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; chẳng thể nhiếp thọ pháp không nội, chẳng thể nhiếp thọ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; chẳng thể nhiếp thọ chơn như, chẳng thể nhiếp thọ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; chẳng thể nhiếp thọ Thánh đế khổ, chẳng thể nhiếp thọ Thánh đế tập, diệt, đạo; chẳng thể nhiếp thọ bốn tịnh lự, chẳng thể nhiếp thọ bốn vô lượng, bốn định vô sắc; chẳng thể nhiếp thọ tám giải thoát, chẳng thể nhiếp thọ tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; chẳng thể nhiếp thọ bốn niệm trụ, chẳng thể nhiếp thọ bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; chẳng thể nhiếp thọ pháp môn giải thoát không, chẳng thể nhiếp thọ pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; chẳng thể nhiếp thọ mười địa Bồ-tát; chẳng thể nhiếp thọ năm loại mắt, chẳng thể nhiếp thọ sáu phép thần thông; chẳng thể nhiếp thọ mười lực Phật, chẳng thể nhiếp thọ bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; chẳng thể nhiếp thọ pháp không quên mất, chẳng thể nhiếp thọ tánh luôn luôn xả; chẳng thể nhiếp thọ trí nhất thiết, chẳng thể nhiếp thọ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; chẳng thể nhiếp thọ tất cả pháp môn Đà-la-ni; chẳng thể nhiếp thọ tất cả pháp môn Tam-ma-địa; chẳng thể nhiếp thọ tất cả hạnh đại Bồ-tát; chẳng thể nhiếp thọ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật thì này Thiện Hiện! Do nhân duyên ấy, nên các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa này, bị rơi vào địa vị Thanh-văn, hoặc địa vị Độc-giác, chẳng chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.

 

Quyển thứ 312

Hết

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/09/2015(Xem: 13460)
Điện Thư Phân Ưu Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật Tu Viện Quảng Đức Vừa nhận được tin buồn Phu Quân Đạo Hữu Châu Ngọc Lê Hoa Nhụy, là: Bác Sĩ NGUYỄN LÊ ĐỨC, pháp danh: MINH QUANG Hội Trưởng Hội Phật Giáo Đông Bắc Florida, Chùa Hải Đức. Sinh năm Đinh Hợi (1947) tại Hà Nam, Bắc Việt Vãng sanh lúc 11.37am ngày 21-9-2015 tại Jacksonville, tiểu bang Florida, Hoa Kỳ Hưởng thọ: 69 tuổi Bác Sĩ Minh Quang Nguyễn Lê Đức là một nhà Phật học lỗi lạc, viết lách, nghiên cứu, thuyết giảng hàng tuần cũng như đích thân tu trì Phật Pháp, đặc biệt Bác sĩ là vị lãnh đạo tinh thần tại Chùa Hải Đức trong ba mươi năm qua, người đã có công tạo dựng và duy trì ngôi Tam Bảo Hải Đức đến ngày hôm nay. Sự ra đi vĩnh viễn của Bác Sĩ Minh Quang là một mất mát lớn lao cho Phật tử thuộc Chùa Hải Đức, Florida; mong rằng Đạo hữu Châu Ngọc cùng quý Phật tử Chùa Hải Đức cố gắng vượt qua sự đau buồn này và tiếp tục gánh vác Phật sự cũng như gìn giữ gia tài Pháp Bảo mà Bác Sĩ Minh Quang đã dày công gây dựn
11/09/2015(Xem: 6054)
Tổ Phước Tường , húy thượng Thanh hạ Chánh, tự Quảng Đạt hiệu Phước Tường, thuộc dòng Lâm Tế Liễu Quán, đời thứ 41. Ngài sinh ngày rằm, tháng 5 năm Đinh Mão (1867) vào đời vua Tự Đức năm thứ 20, tại tỉnh Phú Yên. Tổ xuất thân là một nhà Nho từng dự thi Hương tại Bình Định. Năm Ất Dậu (1885), ngài cùng với tầng lớp thanh niên nho sĩ tích cực hưởng ứng phong trào Cần vương. Sau đó, ngài xuất gia với Tổ Hải Nhiểu -Thiên Ân tại chùa Khánh Long (Phú Yên). Ở đây một thời gian, ngài được bổn sư gởi đến tham học với các bậc thiền sư thạc đức đương thời ở Phú Yên như Tổ Pháp Hỷ (chùa Từ Quang), Tổ Trí Hải (chùa Thiên Thai Sơn Thạch).
08/09/2015(Xem: 36947)
Sister Chan Khong, Thich Nhat Hanh’s closest collaborator, told Lion’s Roar this morning that the 88-year-old Vietnamese Zen master is in hospital. Given his age, many of Thich Nhat Hanh’s friends and followers are concerned for his wellbeing, though details about his condition have yet to be shared.
08/09/2015(Xem: 6971)
Đây không phải chỉ là một sự tán dương ca ngợi, mà còn là những điều trân quý, người đời sau cần giữ gìn truyền tụng, nếu chúng ta hiểu rõ nghĩa của những chữ “ẩm thủy tư nguyên”là gì. Uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây v.v… vốn là những câu tục ngữ mà người Việt chúng ta vẫn hay nhắc nhở đến hằng ngày, thì không có lý do gì để chúng ta quên ơn của những người đi trước đã dày công gầy dựng lên. Các nhà Bác Học như Albert Einstein có thuyết tương đối, Văn Hào Victor Hugo, định đề Eclik, định lý Archimet v.v… tất cả đều được mọi người biết đến và về sau nầy có những công trình được cầu chứng tại tòa án để không ai có thể phát hiện trùng lặp với tên tuổi của mình đã sáng chế. Thế nhưng cũng có nhiều công trình thế kỷ thuộc diện tâm linh, phi vật thể, thì chưa ai nghĩ đến điều nầy cả. Điều nầy cũng giống như bản quyền của một tác phẩm được độc quyền xử dụng, phát hành khi đã có khai báo với tòa án. Ở đây tôi muốn nhắc đến những công trình thế kỷ về sau, mà cố Hòa Thượng Thích Min
26/08/2015(Xem: 7844)
Ngày 16 tháng 5 vừa qua một trong số các nhà sư Phật giáo nổi tiếng nhất của Thái Lan, và cũng là một trong số các vị Thầy cuối cùng và khác thường của truyền thống "Tu Trong Rừng", là Luang Poh Koon vừa viên tịch. Luang Poh Koon thường được biểu trưng bởi hình ảnh một nhà sư ngồi chồm hổm tay cầm điếu thuốc lá, nhằm nhắc lại giây phút thật bất ngờ và đột ngột khi ông đạt được giác ngộ.
19/08/2015(Xem: 15599)
CÁO PHÓ TANG LỄ Hòa Thượng Thích Viên Diệu Nam mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật Môn đồ tứ chúng chúng con cung kính báo tin Thầy của chúng con là: Hòa Thượng Thích Viên Diệu. - Khai sáng chùa Thuyền Tôn - Montreal - Quebec và Tổ Đình Thuyền Tôn Hải Ngoại tại thành phố Cornwall, tỉnh bang Ontario, Canada. - Tổng Vụ Trưởng Vụ Cư Sĩ GHPGVNTN Hải Ngoại tại Canada. Đã thuận thế vô thường, thâu thần viên tịch vào lúc 22 giờ ngày 18 tháng 08 năm 2015 ( nhằm ngày 05/07/ Ất mùi) tại chùa Thuyền Tôn , Montreal. Trụ thế : 62 tuổi và 40 giới lạp. Lễ nhập quan sẽ được cử hành vào lúc 14 giờ ngày 25 tháng 08 năm 2015 (nhằm ngày 12/07/Ất mùi) tại nhà quàn LE REPOS SAINT FRANCOIS D”ASSISE và lễ cung nghinh Kim Quan an trí tại chùa Thuyền Tôn – Montreal vào lúc 17 giờ cùng ngày. Lễ viếng bắt đầu từ ngày 26 tháng 08 đến ngày 30 tháng 08 năm 2015. Lễ Di Quan được cử hành lúc 9 giờ sang ngày 31tháng 08 năm 2015. Kim Quan sẽ được nhập Bảo tháp tại khuôn viên Tổ Đình Thuyền T
01/08/2015(Xem: 7624)
Chúc Mừng Hoà thượng Thích Minh Dung
22/07/2015(Xem: 9131)
Hòa thượng họ Đỗ, huý Châu Lân, sinh năm 1927 (Đinh Mão) tại thôn Quan Quang, xã Nhơn Khánh, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Thân phụ là cụ ông Đỗ Hoạch, và thân mẫu là cụ bà Trần Thị Tú. Gia đình gồm năm người con, hai trai và ba gái; Hòa thượng Thích Đỗng Quán thứ ba, và Ngài là thứ tư. Gia đình Ngài đời đời thuần tín Tam bảo. Cha mất sớm, được mẹ chăm lo dạy dỗ. Với bẩm tánh thông minh và hiếu học, năm 11 tuổi Ngài thi đậu bằng Yếu lược. Việc này chưa xảy ra ở vùng quê của Ngài nên đích thân ông Lý trưởng đến thăm và chúc mừng. Đó là một vinh dự cho gia đình và quê hương Ngài lúc bấy giờ.
14/07/2015(Xem: 17990)
Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư (Ngày Về Nguồn 8) sẽ được tổ chức tại chùa Pháp Bảo – Sydney, Úc Châu vào cuối tháng 9 năm 2014. Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư (Ngày Về Nguồn 9) năm 2015 dự định sẽ được tổ chức tại chùa Khánh Anh - Evry, Pháp Quốc nhân lễ Khánh Thành chùa cũng như lễ Đại Tường của cố Hòa Thượng Thích Minh Tâm. Trong dịp này, chư Tăng Ni sẽ hội luận vào ngày thứ bảy 15.08.2015 như chương trình gửi kèm theo đây. Chư Tôn Đức cũng như quý Phật tử nào không tham dự được suốt chương trình các ngày Lễ thì xin mời chọn những ngày thích hợp để đến với Tăng đoàn nhằm nói lên tinh thần cộng trụ trong sinh hoạt Phật sự tại hải ngoại ngày nay. Kính mong chư Tôn Đức và quý vị Phật tử hồi báo cho Ban Tổ
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]