Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 426: Phẩm Đế Thích 02, Phẩm Tín Thọ, Phẩm Tán Hoa 01

21/07/201510:00(Xem: 13933)
Quyển 426: Phẩm Đế Thích 02, Phẩm Tín Thọ, Phẩm Tán Hoa 01

Tập 08

Quyển 426

 Phẩm Đế Thích 02

Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm
Diễn đọc: Cư Sĩ Chánh Trí

 

 




 

 

Bấy giờ, các Thiên tử lại nghĩ thế này: Tôn giả Thiện Hiện đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa đây, dù đã nói rõ bằng nhiều cách để cho chúng ta dễ hiểu, nhưng nghĩa lý ấy quá sâu xa vi diệu, khó nỗi suy lường được!

Biết tâm niệm của các Thiên tử, Cụ thọ Thiện Hiện liền bảo họ rằng:

- Này các Thiên tử! Sắc cho đến thức chẳng sâu xa, chẳng vi diệu; tự tánh của sắc cho đến tự tánh của thức cũng chẳng sâu xa, chẳng vi diệu. Nhãn xứ cho đến ý xứ chẳng sâu xa, chẳng vi diệu; tự tánh của nhãn xứ cho đến tự tánh của ý xứ cũng chẳng sâu xa, chẳng vi diệu. Sắc xứ cho đến pháp xứ chẳng sâu xa, chẳng vi diệu; tự tánh của sắc xứ cho đến tự tánh của pháp xứ cũng chẳng sâu xa, chẳng vi diệu. Nhãn giới cho đến ý giới chẳng sâu xa, chẳng vi diệu; tự tánh của nhãn giới cho đến tự tánh của ý giới cũng chẳng sâu xa, chẳng vi diệu. Sắc giới cho đến pháp giới chẳng sâu xa, chẳng vi diệu; tự tánh của sắc giới cho đến tự tánh của pháp giới cũng chẳng sâu xa, chẳng vi diệu. Nhãn thức giới cho đến ý thức giới chẳng sâu xa, chẳng vi diệu; tự tánh của nhãn thức giới cho đến tự tánh của ý thức giới cũng chẳng sâu xa, chẳng vi diệu. Nhãn xúc cho đến ý xúc chẳng sâu xa, chẳng vi diệu; tự tánh của nhãn xúc cho đến tự tánh của ý xúc cũng chẳng sâu xa, chẳng vi diệu. Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng sâu xa, chẳng vi diệu; tự tánh của nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến tự tánh của ý xúc làm duyên sanh ra các thọ cũng chẳng sâu xa, chẳng vi diệu. Bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa chẳng sâu xa, chẳng vi diệu; tự tánh của bố thí Ba-la-mật-đa cho đến tự tánh của Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng chẳng sâu xa, chẳng vi diệu. Nội không cho đến vô tánh tự tánh không chẳng sâu xa, chẳng vi diệu; tự tánh của nội không cho đến tự tánh của vô tánh tự tánh không cũng chẳng sâu xa, chẳng vi diệu. Bốn niệm trụ nói rộng cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng sâu xa, chẳng vi diệu; tự tánh của bốn niệm trụ nói rộng cho đến tự tánh của mười tám pháp Phật bất cộng cũng chẳng sâu xa, chẳng vi diệu. Tất cả môn Tam-ma-địa, tất cả môn Đà-la-ni chẳng sâu xa, chẳng vi diệu; tự tánh của tất cả môn Tam-ma-địa, tự tánh của tất cả môn Đà-la-ni cũng chẳng sâu xa, chẳng vi diệu. Cho đến trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng sâu xa, chẳng vi diệu; tự tánh của trí nhất thiết, tự tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng chẳng sâu xa, chẳng vi diệu.

Khi ấy, các Thiên tử lại nghĩ rằng: Trong pháp mà Tôn giả Thiện Hiện đã nói, chẳng lập ra sắc cho đến thức; chẳng lập ra nhãn xứ cho đến ý xứ; chẳng lập ra sắc xứ cho đến pháp xứ; chẳng lập ra nhãn giới cho đến ý giới; chẳng lập ra sắc giới cho đến pháp giới; chẳng lập ra nhãn thức giới cho đến ý thức giới; chẳng lập ra nhãn xúc cho đến ý xúc; chẳng lập ra nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ; cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ; chẳng lập ra bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa; chẳng lập ra nội không cho đến vô tánh tự tánh không; chẳng lập ra bốn niệm trụ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; chẳng lập ra tất cả môn Tam-ma-địa, tất cả môn Đà-la-ni; chẳng lập ra  trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; chẳng lập ra Dự lưu và quả Dự lưu, cho đến chẳng lập ra A-la-hán và quả-A-la-hán; chẳng lập ra Độc giác và Độc giác Bồ-đề; chẳng lập ra Bồ-tát và bậc Bồ-tát; chẳng lập ra Tam-miệu-tam Phật-đà và Tam-miệu-tam Bồ-đề; cũng chẳng lập ra văn tự lời nói.

Biết tâm niệm của các Thiên tử đã nghĩ pháp như vậy, Cụ thọ Thiện Hiện liền bảo rằng:

- Này các Thiên tử! Các pháp như sắc… cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ-đề đều lìa văn tự, đều chẳng thể nói, cho nên đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng không có người nói, không có người nghe, cũng không có người hiểu. Vì vậy, đối với các pháp, các ông nên theo những điều đã nói mà tu tập pháp nhẫn kiên cố. Những ai muốn trụ, muốn chứng quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán thì phải nương vào nhẫn đây mới trụ chứng được. Những người muốn trụ, muốn chứng quả Độc giác Bồ-đề cũng phải nương vào nhẫn đây mới trụ chứng được. Nhũng ai muốn trụ, muốn chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ-đề thì phải nương vào nhẫn đây mới trụ chứng được.

Như vậy, này các Thiên tử! Các đại Bồ-tát từ sơ phát tâm cho đến khi được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ-đề, nên trụ Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa không nói, không nghe, không hiểu mà thường siêng năng tu học. 

Tập 08

Quyển 426

Phẩm Tín Thọ

 

 

Khi ấy, các Thiên tử lại nghĩ thế này: Nay Tôn giả Thiện Hiện vì những hữu tình nào? Vui thuyết pháp nào?

Biết tâm niệm của các Thiên tử, Cụ thọ Thiện Hiện bảo rằng:

- Này các Thiên tử! Tôi nay vì các hữu tình như huyễn, như hóa, như mộng mà vui thuyết pháp như huyễn, như hóa, như mộng. Vì cớ sao?

Này các Thiên tử! Vì trong pháp tôi nói, người nghe như vậy, không có ai nghe, không có ai hiểu, không chỗ chứng đắc.

Khi ấy, các Thiên tử hỏi lại rằng:

- Thưa Tôn giả! Người nói, người nghe và pháp được thuyết đều như huyễn, như hóa, như mộng sao?

Thiện Hiện đáp:

- Này các Thiên tử! Đúng vậy, đúng vậy. Đúng như các ông đã nói. Hữu tình như huyễn, vì người như huyễn nên nói pháp như huyễn. Hữu tình như hóa, vì người như hoá nên nói pháp như hóa. Hữu tình như mộng, vì người như mộng nên nói pháp như mộng.

Này các Thiên tử! Cái mà mình thấy là ngã cho đến việc thấy đều như huyễn, như hóa, như mộng. Cái mà mình thấy là sắc cho đến thức đều như huyễn, như hóa, như mộng. Cái mà mình thấy là nhãn cho đến ý đều như huyễn, như hóa, như mộng. Cái mà mình thấy là sắc cho đến pháp đều như huyễn, như hóa, như mộng. Cái mà mình thấy là nhãn thức cho đến ý thức đều như huyễn, như hóa, như mộng. Cái mà mình thấy là nhãn xúc cho đến ý xúc đều như huyễn, như hóa, như mộng. Cái mà mình thấy là nhãn xúc sanh ra các thọ cho đến ý xúc sanh ra các thọ đều như huyễn, như hóa, như mộng. Cái mà mình thấy là bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa đều như huyễn, như hóa, như mộng. Cái mà mình thấy là nội không cho đến vô tánh tự tánh không đều như huyễn, như hóa, như mộng. Cái mà mình thấy là bốn niệm trụ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng đều như huyễn, như hóa, như mộng. Như vậy cái mà mình thấy là quả Dự lưu cho đến quả A-la-hán đều như huyễn, như hóa, như mộng. Cái mà mình thấy là Độc giác Bồ-đề và Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ-đề đều như huyễn như hóa như mộng.

Khi ấy, các Thiên tử hỏi Thiện Hiện rằng:

- Nay Tôn giả chỉ nói cái mà mình thấy là ngã…, sắc…, cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ-đề đều như huyễn, như hóa, như mộng, hay cũng nói cái mà mình thấy là Niết-bàn cũng như huyễn, như hóa, như mộng?

Thiện Hiện đáp:

- Này các Thiên tử! Chẳng những tôi nói cái mà mình thấy là ngã…, sắc…, cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ-đề đều như huyễn, như hóa, như mộng mà cũng nói cái mà mình thấy là Niết-bàn cũng như huyễn, như hóa, như mộng.

Này các Thiên tử! Giả sử có pháp thù thắng hơn Niết-bàn, tôi nói cái thấy đó cũng như huyễn, như hóa, như mộng. Vì cớ sao? Này các Thiên tử! Vì việc huyễn, hóa, mộng cùng với tất cả pháp cho đến Niết-bàn thảy đều không hai, không hai chỗ vậy.

Bấy giờ, các Đại Thanh văn như Xá-lợi Tử, Đại Mục-liên, Chấp Đại Tạng, Mãn Từ Tử, Đại Ca-đa-diễn-na, Đại Ca-diếp-ba…và vô lượng trăm ngàn Đại Bồ-tát hỏi Cụ thọ Thiện Hiện rằng:

- Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa được thuyết như thế, khó thấy như thế, khó hiểu như thế, vắng lặng như thế, vi tế như thế, trầm mật như thế, thắng diệu như thế, vậy ai có khả năng thâm tín thọ trì?

Khi ấy, A-nan-đà nghe lời hỏi kia rồi, bạch với Đại Thanh văn và các Đại Bồ-tát:

- Có các Đại Bồ-tát bất thối chuyển đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa khó thấy, khó hiểu, vắng lặng, vi tế, trầm mật, thù diệu đã nói đây, có khả năng thâm tín thọ trì. Lại có vô lượng các A-la-hán đã thấy Thánh đế, hiểu rõ tận nguồn các pháp sâu xa, sở nguyện đã mãn, đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa khó thấy, khó hiểu, vắng lặng, vi tế, trầm mật, thù diệu đã nói đây cũng có khả năng tín thọ.

Lại có vô lượng Đại Bồ-tát, trong quá khứ đã ở chỗ nhiều trăm ức Phật, gần gũi cúng dường, phát thệ nguyện rộng lớn, trồng nhiều cội đức, đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa khó thấy, khó hiểu, vắng lặng vi tế, trầm mật, thù diệu đã nói đây cũng có khả năng tín thọ được.

Lại có vô lượng các thiện nam tử, thiện nữ nhân, quá khứ đã ở vô số chỗ Phật, phát thệ nguyện rộng lớn, trồng các căn lành, tuệ thông, căn lành, được bạn lành nhiếp thọ, đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa khó thấy, khó hiểu, vắng lặng, vi tế, trầm mật, thù diệu đã nói đây cũng có khả năng tín thọ được. Vì sao vậy?

Vì những người như thế, chẳng đem không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh, vô diệt, vắng lặng xa lìa mà phân biệt sắc cho đến thức. Cũng chẳng đem sắc cho đến thức mà phân biệt không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh, vô diệt, vắng lặng xa lìa.

Như vậy, cho đến chẳng đem không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh, vô diệt, vắng lặng xa lìa mà phân biệt nhãn cho đến ý, sắc cho đến pháp, nhãn thức cho đến ý thức, nhãn xúc cho đến ý xúc, nhãn xúc làm duyên sanh ra thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra thọ, bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa, nội không cho đến vô tánh tự tánh không, bốn niệm trụ nói rộng cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, tất cả môn Tam-ma-địa, tất cả môn Đà-la-ni, quả Dự lưu cho đến quả A-la-hán, Độc giác Bồ-đề, tất cả hạnh Đại Bồ-tát, Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ-đề của chư Phật, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, hữu vi giới, vô vi giới. Cũng chẳng đem nhãn cho đến vô vi giới mà phân biệt không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh, vô diệt, vắng lặng xa lìa.

Vì nhân duyên này, nên những người như thế đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa khó thấy, khó hiểu, vắng lặng vi tế, trầm mật, thù diệu đã nói đây đều có khả năng tín thọ được.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bảo các Thiên tử:

- Này các Thiên tử! Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa khó thấy, khó hiểu, vắng lặng vi tế, trầm mật, thù diệu đã nói như vậy, chẳng phải chỗ suy tìm, vượt cảnh suy tìm, trong ấy thật không có ai tín thọ. Vì sao vậy? Này các Thiên tử! Vì trong đây không có pháp để hiển thị. Do thật không có pháp để hiển thị, nên người tín thọ thật chẳng đắc được.

Bấy giờ, cụ thọ Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Trong giáo pháp Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đã nói đây, sao không rộng nói pháp tương ưng với Tam thừa, nghĩa là nói pháp Thanh văn thừa, Độc giác thừa, Vô thượng thừa? Sao chẳng rộng nói đạo của các Bồ-tát nhiếp thọ các Đại Bồ-tát từ sơ phát tâm cho đến Thập địa, tức là nói bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa; bốn niệm trụ, cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; tất cả môn Tam-ma-địa, tất cả môn Đà-la-ni? Sao chẳng rộng nói việc thù thắng của thần thông nhiếp thọ các Đại Bồ-tát, tức là nói Đại Bồ-tát đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa này siêng năng tu hành, nên tùy theo chỗ mà thọ hóa sanh, không mất thần thông tự tại du hý, khéo thông đạt được vô lượng pháp môn; từ cõi Phật này đến cõi Phật kia, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn; tùy theo sở nguyện ưa thích các thứ căn lành, đều có khả năng tu hành chóng được viên mãn; ở chỗ chư Phật, lắng nghe Chánh pháp, thọ trì cho đến khi đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ-đề, thường chẳng quên mất; hằng ở trong thắng định lìa tâm tán loạn, do đây làm duyên nên được biện tài vô ngại, biện tài không dứt hết, biện tài ứng hợp, biện tài nhanh chóng, biện tài không sai, biện tài các điều diễn thuyết đầy đủ ý nghĩa, biện tài rất thắng diệu của tất cả thế gian?

Thiện Hiện đáp rằng:

- Đúng vậy, đúng vậy! Đúng như Tôn giả đã nói, trong giáo pháp Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đây, lấy vô sở đắc làm phương tiện, rộng nói pháp tương ưng với Tam thừa; cho đến rộng nói việc thần thông thù thắng nhiếp thọ các Đại Bồ-tát; cho đến khiến được biện tài rất thù diệu của tất cả thế gian. Lấy vô sở đắc làm phương tiện; vậy ở đây lấy vô sở đắc làm phương tiện đối với những pháp nào? Đó là đối với ngã cho đến việc thấy, lấy vô sở đắc làm phương tiện. Đối với sắc cho đến thức, lấy vô sở đắc làm phương tiện. Đối với nhãn cho đến ý, lấy vô sở đắc làm phương tiện. Đối với nhãn thức cho đến ý thức, lấy vô sở đắc làm phương tiện. Đối với nhãn xúc cho đến ý xúc, lấy vô sở đắc làm phương tiện. Đối với nhãn xúc làm duyên sanh ra thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra thọ, lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Đối với bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện. Đối với nội không cho đến vô tánh tự tánh không, lấy vô sở đắc làm phương tiện. Đối với bốn niệm trụ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, lấy vô sở đắc làm phương tiện. Như vậy, cho đến đối với trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Khi ấy, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Trong giáo pháp Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đây, vì nhân duyên gì mà lấy vô sở đắc làm phương tiện, rộng nói pháp tương ưng với Tam thừa?

Trong giáo pháp Bát-nhã Ba-la-mật-đa đây, vì nhân duyên gì lấy vô sở đắc làm phương tiện, cho đến rộng nói việc thù thắng của thần thông nhiếp thọ các Đại Bồ-tát, cho đến khiến được biện tài rất thắng diệu của tất cả thế gian?

Thiện Hiện đáp:

- Này Xá-lợi Tử! Bởi vì nội không cho đến vô tánh tự tánh không, nên trong giáo pháp Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa này, lấy vô sở đắc làm phương tiện, rộng nói pháp tương ưng với Tam thừa.

Này Xá-lợi Tử! Bởi vì nội không cho đến vô tánh tự tánh không, nên trong giáo pháp Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa này, lấy vô sở đắc làm phương tiện, cho đến rộng nói việc thù thắng của thần thông nhiếp thọ các Đại Bồ-tát, cho đến khiến được biện tài rất thắng diệu của tất cả thế gian. 

Tập 08

 Quyển 426

 Phẩm Tán Hoa 01

 

 

Bấy giờ, trời Đế Thích và chúng trời Tứ đại thiên vương của Tam thiên đại thiên thế giới đây, cho đến trời Sắc cứu cánh đều nghĩ rằng: Nay Tôn giả Thiện Hiện nhờ oai lực Phật, vì tất cả hữu tình mà ban trận mưa pháp lớn. Nay chúng ta nên hóa ra hương hoa trời vi diệu, phụng rải cúng dường đức Thích Ca Như Lai, các chúng Đại Bồ-tát, Bí-sô Tăng và Tôn giả Thiện Hiện, cũng rải cúng dường Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, há chẳng tốt sao!

Sau khi nghĩ như vậy, trời Đế Thích và các thiên chúng đều hóa làm hương hoa trời vi diệu dâng cúng, phụng rải lên đức Thích Ca Như Lai, các chúng Đại Bồ-tát, Bí-sô Tăng cùng Cụ thọ Thiện Hiện và Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Lúc này, tại thế giới Tam thiên đại thiên Phật, hoa đều đầy rẫy, nhờ thần lực Phật nên những hoa này hợp thành đài hoa ở giữa hư không, trang nghiêm đẹp lạ và khắp cả Tam thiên đại thiên thế giới.

Bấy giờ, Thiện Hiện thấy việc ấy, nghĩ rằng: Hoa được rải đây, ở chỗ chư Thiên chưa từng thấy. Hoa này mầu nhiệm, quyết định chẳng phải do cỏ cây, nước, đất sinh ra, chắc là chư Thiên vì muốn cúng dường nên từ nơi tâm mà hóa hiện ra.

Khi ấy, trời Đế Thích biết tâm niệm của Thiện Hiện, nói với Thiện Hiện:

- Hoa đã rải đây, thật chẳng phải do cỏ cây, nước, đất sinh ra, thật cũng chẳng từ tâm hóa ra, mà chỉ là biến hiện.

Bấy giờ, Thiện Hiện bảo Thiên Đế Thích rằng:

- Này Kiều-thi-ca! Ông nói hoa đây thật chẳng phải do cỏ cây, nước, đất sinh ra, thật cũng chẳng từ tâm hóa ra; vậy đã chẳng phải pháp sanh, thì chẳng gọi là hoa.

Khi ấy, trời Đế Thích hỏi Thiện Hiện rằng:

- Thưa Đại đức! Chỉ có hoa này chẳng sanh hay các pháp khác cũng thế?

Thiện Hiện đáp:

- Chẳng những hoa này không sanh, mà các pháp khác cũng nghĩa không sanh. Tại sao nói vậy?

Này Kiều-thi-ca! Sắc cũng chẳng sanh, đây đã chẳng sanh thì chẳng phải là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng sanh, đây đã chẳng sanh thì chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức. Nhãn cho đến ý, sắc cho đến pháp, nhãn thức cho đến ý thức, nhãn xúc cho đến ý xúc, nhãn xúc làm duyên sanh ra thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra thọ cũng như thế.

Này Kiều-thi-ca! Bố thí Ba-la-mật-đa cũng chẳng sanh, đây đã chẳng sanh thì chẳng phải bố thí Ba-la-mật-đa. Tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng chẳng sanh, đây đã chẳng sanh thì chẳng phải tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nội không cho đến vô tánh tự tánh không, bốn niệm trụ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, như vậy cho đến trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng đều cũng như thế.

Khi ấy, trời Đế Thích thầm nghĩ: Tôn giả Thiện Hiện trí tuệ sâu sắc, chẳng trái với giả danh mà nói pháp tánh.

Rõ biết ý nghĩ của Đế Thích, Phật bèn bảo ông ta rằng:

- Này Kiều-thi-ca! Đúng như tâm ông đã nghĩ, Cụ thọ Thiện Hiện trí tuệ sâu sắc, chẳng trái với giả danh mà nói pháp tánh.

Khi ấy, trời Đế Thích liền bạch Phật:

- Bạch đức thế Tôn! Cụ thọ Thiện Hiện đối với những pháp nào, chẳng trái với giả danh mà nói pháp tánh?

Phật đáp:

- Này Kiều-thi-ca! Sắc chỉ là giả danh, Cụ thọ Thiện Hiện chẳng trái với giả danh của sắc mà nói pháp tánh của sắc. Thọ, tưởng, hành, thức chỉ là giả danh, Cụ thọ Thiện Hiện chẳng trái với giả danh của thọ, tưởng, hành, thức mà nói pháp tánh của thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao vậy? Vì pháp tánh của sắc… không trái, thuận nên Thiện Hiện đã nói cũng không trái, thuận. Đối với nhãn cho đến ý, sắc cho đến pháp, nhãn thức cho đến ý thức, nhãn xúc cho đến ý xúc, nhãn xúc làm duyên sanh ra thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra thọ cũng như vậy.

Này Kiều-thi-ca! Bố thí Ba-la-mật-đa chỉ là giả danh, Cụ thọ Thiện Hiện chẳng trái với giả danh của bố thí Ba-la-mật-đa mà nói pháp tánh của bố thí Ba-la-mật-đa. Tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa chỉ là giả danh, Cụ thọ Thiện Hiện chẳng trái với giả danh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà nói pháp tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Vì sao vậy? Vì pháp tánh của bố thí Ba-la-mật-đa… không trái, thuận nên Thiện Hiện đã nói cũng không trái, thuận. Đối với nội không cho đến vô tánh tự tánh không, bốn niệm trụ nói rộng cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, như vậy cho đến quả Dự lưu cho đến quả A-la-hán, Độc giác Bồ-đề, cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ-đề, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, Dự lưu cho đến A-la-hán, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai đều cũng như vậy.

Này Kiều-thi-ca! Cụ thọ Thiện Hiện đối với pháp như vậy chẳng trái với giả danh mà nói pháp tánh.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bảo trời Đế Thích:

- Này Kiều-thi-ca! Đúng vậy, đúng vậy, như Phật đã nói, các pháp sở hữu hoàn toàn đều là giả danh. Này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát biết tất cả pháp chỉ là giả danh rồi, nên học Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát khi học như thế, chẳng học nơi sắc, chẳng học nơi thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Này Kiều-thi-ca ! Vì ở trong đó, Đại Bồ-tát này chẳng thấy sắc để học, chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức để học. Đối với nhãn cho đến ý, sắc cho đến pháp, nhãn thức cho đến ý thức, nhãn xúc cho đến ý xúc, nhãn xúc làm duyên sanh ra thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra thọ cũng như vậy.

Này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát khi học như thế chẳng học nơi bố thí Ba-la-mật-đa; chẳng học nơi tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Kiều-thi-ca! Vì ở trong đó, Đại Bồ-tát này chẳng thấy bố thí Ba-la-mật-đa để học; chẳng thấy tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa để học. Đối với nội không cho đến vô tánh tự tánh không, bốn niệm trụ, nói rộng cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, như vậy cho đến quả Dự lưu… quả A-la-hán, Độc giác Bồ-đề, cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ-đề, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng đều cũng như vậy.

Khi ấy, trời Đế Thích hỏi Thiện Hiện:

- Các Đại Bồ-tát vì nhân duyên gì mà chẳng thấy sắc, cho đến chẳng thấy trí nhất thiết tướng?

Thiện Hiện đáp:

- Này Kiều-thi-ca! Sắc, sắc không, cho đến trí nhất thiết tướng, trí nhất thiết tướng không. Này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát vì nhân duyên đây nên chẳng thấy sắc cho đến chẳng thấy trí nhất thiết tướng.

Này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát chẳng thấy sắc nên chẳng học nơi sắc, cho đến chẳng thấy trí nhất thiết tướng, nên chẳng học nơi trí nhất thiết tướng. Vì sao vậy?

Này Kiều-thi-ca! Vì sắc không chẳng thể thấy sắc không, cho đến trí nhất thiết tướng không chẳng thể thấy trí nhất thiết tướng không; sắc không cũng chẳng thể học nơi sắc không, cho đến trí nhất thiết tướng không cũng chẳng thể học nơi trí nhất thiết tướng không.

Này Kiều-thi-ca! Nếu Đại Bồ-tát chẳng học nơi không, tức là Đại Bồ-tát này học nơi không. Vì sao? Vì không hai vậy. Này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát chẳng học nơi sắc không tức là học nơi sắc không, vì không hai vậy. Cho đến chẳng học nơi trí nhất thiết tướng không, tức là học nơi trí nhất thiết tướng không, vì không hai vậy.

Này Kiều-thi-ca! Nếu Đại Bồ-tát đem không hai làm phương tiện học nơi sắc không, cho đến đem không hai làm phương tiện học nơi trí nhất thiết tướng không thì Đại Bồ-tát này có thể lấy không hai làm phương tiện để học bố thí Ba-la-mật-đa, cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa; có thể lấy không hai làm phương tiện học nội không cho đến vô tánh tự tánh không; có thể lấy không hai làm phương tiện học bốn niệm trụ, nói rộng cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; như vậy cho đến có thể lấy không hai làm phương tiện để học quả Dự lưu cho đến quả A-la-hán; có thể lấy không hai làm phương tiện để học Độc giác Bồ-đề cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ-đề; có thể lấy không hai làm phương tiện để học trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Này Kiều-thi-ca! Nếu Đại Bồ-tát có thể lấy không hai làm phương tiện để học bố thí Ba-la-mật-đa cho đến trí nhất thiết tướng, thì Đại Bồ-tát này có thể lấy không hai làm phương tiện để học vô lượng vô số vô biên Phật pháp thanh tịnh bất khả tư nghì.

Này Kiều-thi-ca! Nếu Đại Bồ-tát có thể học vô lượng vô số vô biên Phật pháp thanh tịnh bất khả tư nghì thì Đại Bồ-tát này chẳng vì sắc tăng nên học, cũng chẳng vì sắc giảm nên học; cho đến chẳng vì trí nhất thiết tướng tăng nên học, cũng chẳng vì trí nhất thiết tướng giảm nên học.

Này Kiều-thi-ca! Nếu Đại Bồ-tát chẳng vì sắc tăng nên học, cũng chẳng vì sắc giảm nên học; cho đến chẳng vì trí nhất thiết tướng tăng nên học, cũng chẳng vì trí nhất thiết tướng giảm nên học, thì Đại Bồ-tát này chẳng vì nhiếp thọ sắc nên học, cũng chẳng vì hoại diệt sắc nên học; cho đến chẳng vì nhiếp thọ trí nhất thiết tướng nên học, cũng chẳng vì hoại diệt trí nhất thiết tướng nên học.

Bấy giờ, Cụ thọ Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Các Đại Bồ-tát khi học như thế, chẳng vì nhiếp thọ sắc nên học, cũng chẳng vì hoại diệt sắc nên học; cho đến chẳng vì nhiếp thọ trí nhất thiết tướng nên học, cũng chẳng vì hoại diệt trí nhất thiết tướng nên học chăng?

Thiện Hiện đáp:

- Đúng vậy, đúng vậy, này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát khi học như thế, chẳng vì nhiếp thọ sắc nên học, cũng chẳng vì hoại diệt sắc nên học; cho đến chẳng vì nhiếp thọ trí nhất thiết tướng nên học, cũng chẳng vì hoại diệt trí nhất thiết tướng nên học.

Khi ấy, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Do nhân duyên nào mà các Đại Bồ-tát chẳng vì nhiếp thọ sắc nên học, cũng chẳng vì hoại diệt sắc nên học, cho đến chẳng vì nhiếp thọ trí nhất thiết tướng nên học, cũng chẳng vì hoại diệt trí nhất thiết tướng nên học?

Thiện Hiện đáp:

- Các Đại Bồ-tát chẳng thấy có sắc để nhiếp thọ và để hoại diệt, cũng chẳng thấy có người hay nhiếp thọ sắc và hoại diệt sắc; cho đến chẳng thấy có trí nhất thiết tướng để nhiếp thọ và để hoại diệt, cũng chẳng thấy có người hay nhiếp thọ trí nhất thiết tướng và hoại diệt trí nhất thiết tướng. Vì cớ sao? Này Xá-lợi Tử! Vì sắc… pháp hoặc năng hoặc sở trong ngoài đều không vậy.

Này Xá-lợi Tử! Nếu Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp, chẳng thấy có để nhiếp thọ và để hoại diệt, cũng chẳng thấy có kẻ hay nhiếp thọ và hoại diệt, mà học Bát-nhã Ba-la-mật-đa thì Đại Bồ-tát này có thể  thành tựu trí nhất thiết trí.

Khi ấy, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Các Đại Bồ-tát học Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế có thể thành tựu trí nhất thiết trí sao?

Thiện Hiện đáp:

- Này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát học Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế có thể thành tựu trí nhất thiết trí. Đối với tất cả pháp chẳng vì nhiếp thọ, chẳng vì hoại diệt mà làm phương tiện.

Xá-lợi Tử nói:

- Nếu Đại Bồ-tát đối với tất cả pháp chẳng vì nhiếp thọ, chẳng vì hoại diệt mà làm phương tiện thì sao có thể thành tựu trí nhất thiết trí?

Thiện Hiện đáp:

- Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát này khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng thấy sắc hoặc sanh hoặc diệt, hoặc lấy hoặc bỏ, hoặc nhiễm hoặc tịnh, hoặc tăng hoặc giảm; cho đến chẳng thấy trí nhất thiết tướng hoặc sanh hoặc diệt, hoặc lấy hoặc bỏ, hoặc nhiễm hoặc tịnh, hoặc tăng hoặc giảm. Vì sao? Vì sắc cho đến trí nhất thiết tướng, tự tánh đều vô sở hữu, bất khả đắc vậy.

Như vậy, Này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đối tất cả pháp chẳng thấy hoặc sanh hoặc diệt, hoặc lấy hoặc bỏ, hoặc nhiễm hoặc tịnh, hoặc tăng hoặc giảm; đem vô sở học, vô sở thành tựu làm phương tiện mà học Bát-nhã Ba-la-mật-đa thì có thể thành tựu trí nhất thiết trí.

Bấy giờ, trời Đế Thích hỏi Xá-lợi Tử:

- Thưa Đại đức! Các Đại Bồ-tát học Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên cầu ở đâu?

Xá-lợi Tử đáp:

- Này Kiều-thi-ca! Các Đại Bồ-tát học Bát-nhã Ba-la-mật-đa nên cầu trong pháp Thiện Hiện nói.

Khi ấy, trời Đế Thích hỏi Thiện Hiện:

- Nhờ thần lực của Đại Đức làm chỗ y trì nên khiến cho Xá-lợi Tử nói lời ấy chăng?

Thiện Hiện bảo:

- Này Kiều-thi-ca! Chẳng phải thần lực của tôi làm chỗ y trì khiến cho Xá-lợi Tử nói lời như thế.

Trời Đế Thích nói:

- Vậy thần lực của ai làm chỗ y trì?

Thiện Hiện đáp:

- Thần lực của Phật làm chỗ y trì.

Trời Đế Thích nói:

- Thưa Đại đức! Các pháp đều không có y trì, sao nói thần lực của Phật là chỗ y trì?

Thiện Hiện đáp rằng:

- Này Kiều-thi-ca! Đúng vậy, đúng vậy. Đúng như ông nói, tất cả các pháp không y trì, nên Như Lai chẳng phải chỗ y trì, cũng không. Nhưng vì tùy thuận thế tục mà đặt bày nói là y trì.

Này Kiều-thi-ca! Chẳng lìa không y trì thì Như Lai có thể đắc. Chẳng lìa không y trì thì chơn như, Như Lai có thể đắc. Chẳng lìa không y trì thì pháp tánh, Như Lai có thể đắc. Chẳng lìa không y trì thì Như Lai chơn như có thể đắc. Chẳng lìa không y trì thì Như Lai pháp tánh có thể đắc. Chẳng lìa không y trì thì chơn như, Như Lai chơn như có thể đắc. Chẳng lìa không y trì thì pháp tánh, Như Lai pháp tánh có thể đắc.

Này Kiều-thi-ca! Chẳng phải trong không y trì, Như Lai có thể đắc; chẳng phải trong Như Lai, không y trì có thể đắc. Chẳng phải trong không y trì chơn như, Như Lai có thể đắc; chẳng phải trong Như Lai, không y trì chơn như có thể đắc; chẳng phải trong không y trì pháp tánh, Như Lai có thể đắc; chẳng phải trong Như Lai, không y trì pháp tánh có thể đắc. Chẳng phải trong không y trì, Như Lai chơn như có thể đắc; chẳng phải trong Như Lai chơn như, không y trì có thể đắc. Chẳng phải trong không y trì, Như Lai pháp tánh có thể đắc; chẳng phải trong Như Lai pháp tánh, không y trì có thể đắc. Chẳng phải trong không y trì chơn như, Như Lai chơn như có thể đắc; chẳng phải trong Như Lai chơn như, không y trì chơn như có thể đắc. Chẳng phải trong không y trì pháp tánh, Như Lai pháp tánh có thể đắc; chẳng phải trong Như Lai pháp tánh, không y trì pháp tánh có thể đắc.

Này Kiều-thi-ca! Chẳng rời sắc, Như Lai có thể đắc; chẳng rời thọ tưởng hành thức, Như Lai có thể đắc. Chẳng rời sắc chơn như, Như Lai có thể đắc; chẳng rời thọ tưởng hành thức chơn như, Như Lai có thể đắc. Chẳng rời sắc pháp tánh, Như Lai có thể đắc; chẳng rời thọ tưởng hành thức pháp tánh, Như Lai có thể đắc. Chẳng rời sắc, Như Lai chơn như có thể đắc; chẳng rời thọ tưởng hành thức, Như Lai chơn như có thể đắc.

Chẳng rời sắc, Như Lai pháp tánh có thể đắc; chẳng rời thọ tưởng hành thức, Như Lai pháp tánh có thể đắc. Chẳng rời sắc chơn như, Như Lai chơn như có thể đắc; chẳng rời thọ tưởng hành thức chơn như, Như Lai chơn như có thể đắc. Chẳng rời sắc pháp tánh, Như Lai pháp tánh có thể đắc; chẳng rời thọ tưởng hành thức pháp tánh, Như Lai pháp tánh có thể đắc.

Này Kiều-thi-ca! Chẳng phải trong sắc, Như Lai có thể đắc; chẳng phải trong Như Lai, sắc có thể đắc. Chẳng phải trong thọ tưởng hành thức, Như Lai có thể đắc; chẳng phải trong Như Lai, thọ tưởng hành thức có thể đắc.

Chẳng phải trong sắc chơn như, Như Lai có thể đắc; chẳng phải trong Như Lai, sắc chơn như có thể đắc. Chẳng phải trong thọ tưởng hành thức chơn như, Như Lai có thể đắc; chẳng phải trong Như Lai, thọ tưởng hành thức chơn như có thể đắc.

Chẳng phải trong sắc pháp tánh, Như Lai có thể đắc; chẳng phải trong Như Lai, sắc pháp tánh có thể đắc. Chẳng phải trong thọ tưởng hành thức pháp tánh, Như Lai có thể đắc; chẳng phải trong Như Lai, thọ tưởng hành thức pháp tánh có thể đắc.

Chẳng phải trong sắc, Như Lai chơn như có thể đắc; chẳng phải trong Như Lai chơn như, sắc có thể đắc. Chẳng phải trong thọ tưởng hành thức, Như Lai chơn như có thể đắc, chẳng phải trong Như Lai chơn như, thọ tưởng hành thức có thể đắc.

Chẳng phải trong sắc, Như Lai pháp tánh có thể đắc; chẳng phải trong Như Lai pháp tánh, sắc có thể đắc. Chẳng phải trong thọ tưởng hành thức, Như Lai pháp tánh có thể đắc; chẳng phải trong Như Lai pháp tánh, thọ tưởng hành thức có thể đắc.

Chẳng phải trong sắc chơn như, Như Lai chơn như có thể đắc; chẳng phải trong Như Lai chơn như, sắc chơn như có thể đắc. Chẳng phải trong thọ tưởng hành thức chơn như, Như Lai chơn như có thể đắc; chẳng phải trong Như Lai chơn như, thọ tưởng hành thức chơn như có thể đắc.

Chẳng phải trong sắc pháp tánh, Như Lai pháp tánh có thể đắc; chẳng phải trong Như Lai pháp tánh, sắc pháp tánh có thể đắc. Chẳng phải trong thọ tưởng hành thức pháp tánh, Như Lai pháp tánh có thể đắc; chẳng phải trong Như Lai pháp tánh, thọ tưởng hành thức pháp tánh có thể đắc. 

Này Kiều-thi-ca! Cho đến chẳng rời trí nhất thiết, Như Lai có thể đắc; chẳng rời trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, Như Lai có thể đắc. Chẳng rời trí nhất thiết chơn như, Như Lai có thể đắc; chẳng rời trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chơn như, Như Lai có thể đắc. Chẳng rời trí nhất thiết pháp tánh, Như Lai có thể đắc; chẳng rời trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng pháp tánh, Như Lai có thể đắc.

Chẳng rời trí nhất thiết, Như Lai chơn như có thể đắc; chẳng rời trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, Như Lai chơn như có thể đắc. Chẳng rời trí nhất thiết, Như Lai pháp tánh có thể đắc; chẳng rời trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, Như Lai pháp tánh có thể đắc.

Chẳng rời trí nhất thiết chơn như, Như Lai chơn như có thể đắc; chẳng rời trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chơn như, Như Lai chơn như có thể đắc. Chẳng rời trí nhất thiết pháp tánh, Như Lai pháp tánh có thể đắc; chẳng rời trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng pháp tánh, Như Lai pháp tánh có thể đắc.

Này Kiều-thi-ca! Chẳng phải trong trí nhất thiết, Như Lai có thể đắc; chẳng phải trong Như Lai, trí nhất thiết có thể đắc. Chẳng phải trong trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, Như Lai có thể đắc; chẳng phải trong Như lai, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng có thể đắc.

Chẳng phải trong trí nhất thiết chơn như, Như Lai có thể đắc; chẳng phải trong Như Lai, trí nhất thiết chơn như có thể đắc. Chẳng phải trong trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chơn như, Như Lai có thể đắc; chẳng phải trong Như Lai, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chơn như có thể đắc.

Chẳng phải trong trí nhất thiết pháp tánh, Như Lai có thể đắc; chẳng phải trong Như Lai, trí nhất thiết pháp tánh có thể đắc. Chẳng phải trong trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng pháp tánh, Như Lai có thể đắc; chẳng phải trong Như Lai, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng pháp tánh có thể đắc.

Chẳng phải trong trí nhất thiết, Như Lai chơn như có thể đắc; chẳng phải trong Như Lai chơn như, trí nhất thiết có thể đắc. Chẳng phải trong trí đạo tướng, trí  nhất thiết tướng, Như Lai chơn như có thể đắc; chẳng phải trong Như Lai chơn như, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng có thể đắc.

Chẳng phải trong trí nhất thiết, Như Lai pháp tánh có thể đắc; chẳng phải trong Như Lai pháp tánh, trí nhất thiết có thể đắc. Chẳng phải trong trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, Như Lai pháp tánh có thể đắc; chẳng phải trong Như Lai pháp tánh, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng có thể đắc.

Chẳng phải trong trí nhất thiết chơn như, Như Lai chơn như có thể đắc; chẳng phải trong Như Lai chơn như, trí nhất thiết chơn như có thể đắc. Chẳng phải trong trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chơn như, Như Lai chơn như có thể đắc; chẳng phải trong Như Lai chơn như,  trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chơn như có thể đắc.

Chẳng phải trong trí nhất thiết pháp tánh, Như Lai pháp tánh có thể đắc; chẳng phải trong Như Lai pháp tánh, trí nhất thiết pháp tánh có thể đắc. Chẳng phải trong trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng pháp tánh, Như Lai pháp tánh có thể đắc; chẳng phải trong Như Lai pháp tánh, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng pháp tánh có thể đắc.

Này Kiều-thi-ca! Như Lai đối với sắc chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng; đối với thọ tưởng hành thức cũng chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng. Như Lai đối với sắc chơn như chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng; đối với thọ tưởng hành thức chơn như cũng chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng. Như Lai đối với sắc pháp tánh chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng; đối với thọ tưởng hành thức pháp tánh cũng chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng.

Như Lai chơn như đối với sắc chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng; đối với thọ tưởng hành thức cũng chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng. Như Lai chơn như đối với sắc chơn như chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng; đối với thọ tưởng hành thức chơn như cũng chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng.

Như Lai pháp tánh đối với sắc chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng; đối với thọ tưởng hành thức cũng chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng. Như Lai pháp tánh đối với sắc pháp tánh chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng; đối với thọ tưởng hành thức pháp tánh cũng chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng.

Này Kiều-thi-ca! Như Lai đối với sự lìa sắc chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng, đối với sự lìa thọ tưởng hành thức cũng chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng. Như Lai đối với sự lìa sắc chơn như chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng; đối với sự lìa thọ tưởng hành thức chơn như cũng chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng. Như Lai đối với sự lìa sắc pháp tánh chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng, đối với sự lìa thọ tưởng hành thức pháp tánh cũng chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng.

Như Lai chơn như đối với sự lìa sắc chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng; đối với sự lìa thọ tưởng hành thức cũng chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng. Như Lai chơn như đối với sự lìa sắc chơn như chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng; đối với sự lìa thọ tưởng hành thức chơn như cũng chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng.

Như Lai pháp tánh đối với sự lìa sắc chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng; đối với sự lìa thọ tưởng hành thức cũng chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng. Như Lai pháp tánh đối với sự lìa sắc pháp tánh chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng; đối với sự lìa thọ tưởng hành thức pháp tánh cũng chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng.

Này Kiều-thi-ca! Như vậy cho đến Như Lai đối với trí nhất thiết chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng; đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng. Như Lai đối với trí nhất thiết chơn như chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng; đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chơn như cũng chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng. Như Lai đối với trí nhất thiết pháp tánh chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng; đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng pháp tánh cũng chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng.

Như Lai chơn như đối với trí nhất thiết chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng; đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng. Như Lai chơn như đối với trí nhất thiết chơn như chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng; đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chơn như cũng chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng.

Như Lai pháp tánh đối với trí nhất thiết chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng; đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng. Như Lai pháp tánh đối với trí nhất thiết pháp tánh chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng; đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng pháp tánh cũng chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng.

Này Kiều-thi-ca! Như Lai đối với sự lìa trí nhất thiết chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng; đối với sự lìa trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng. Như Lai đối với sự lìa trí nhất thiết chơn như chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng; đối với sự lìa trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chơn như cũng chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng. Như Lai đối với sự lìa trí nhất thiết pháp tánh chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng; đối với sự lìa trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng pháp tánh cũng chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng.

Như Lai chơn như đối với sự lìa trí nhất thiết chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng; đối với sự lìa trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng. Như Lai chơn như đối với sự lìa trí nhất thiết chơn như chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng; đối với sự lìa trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chơn như cũng chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng.

Như Lai pháp tánh đối với sự lìa trí nhất thiết chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng; đối với sự lìa trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng. Như Lai pháp tánh đối với sự lìa trí nhất thiết pháp tánh chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng; đối với sự lìa trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng pháp tánh cũng chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng.

Này Kiều-thi-ca! Xá-lợi Tử đã nói là đối tất cả pháp chẳng tức (không hai), chẳng ly, chẳng tương ưng, chẳng phải không tương ưng. Thần lực Như Lai làm chỗ y trì, đem chỗ không y trì làm chỗ y trì vậy.

 

 

Quyển Thứ 426

Hết

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/07/2020(Xem: 9331)
Bài viết này để bổ túc cho một băng video chủ đề Tuệ Trung Thượng Sỹ trên YouTube (1) do nhóm Wisdom Today thực hiện, trong đó Tiến sĩ Phật học Nguyễn Thúy Loan đã phỏng vấn Hòa Thượng Thích Phước Tịnh và bản thân người viết là Cư sĩ Nguyên Giác. Lý do bổ túc vì lời nói của người viết vốn vụng về, không có khả năng diễn ý minh bạch như chữ viết.
28/06/2020(Xem: 23522)
Bức tượng được sơn son thếp vàng, tạc hình ảnh một nhà vua mặc triều phục đang quỳ gập người, hai bàn tay cung kính mở rộng để trên mặt đất, còn bên trên lưng là một pho tượng Phật cao lớn ngồi trên tòa sen nằm đè lên.
25/06/2020(Xem: 5573)
Mùa Đại dịch 2020 này đã phá vỡ bao ước nguyện thầm kín nung nấu trong tôi . Đó là được đảnh lễ và tham vấn HT Thích Như Điển như lời Ngài hứa khả , sau khi tôi được chia sẻ vài cảm nghĩ của mình qua tác phẩm của Ngài “MỐI TƠ VƯƠNG CỦA HUYỀN TRÂN CÔNG CHÚA “. Những tưởng thời gian sẽ nhanh chóng trôi qua và cái ngày quan trọng ấy càng lúc càng đến gần hơn nhưng nay .... được thông báo sẽ được dời đến tháng 10/2021! Thật không ai có thể đoán được điều gì xảy ra vào năm 2020 này, và dường như Chư Hộ Pháp muốn tặng tôi một món quà ân thưởng để bù lại niềm hụt hẫng ấy và chắc chắn là để thưởng cho thiện niệm tôi luôn hướng về Ôn Phương Trượng như một danh Tăng và một điểm khá đặc biệt là không thể quên ngày sinh nhật Ngài khi đã hai lần chúc mừng Khánh Tuế ( 2018 -2019 ) . Chính vì thế khi xem lịch 28/6/2020 đúng là Khánh Tuế lần thứ 72 của Ngài bổng nhiên trong tôi ước nguyện đã khởi lên “ Bằng cách nào để viết hoặc một bài văn hay một bài thơ vào lúc này vừa có thể chúc mừng với tấ
25/06/2020(Xem: 8522)
HT tên thật là Phạm Văn Nghi, húy là Thượng Đồng Hạ Viên, tự là Thông Lợi, hiệu là Viên Đức. Sinh vào giờ Tỵ ngày 26 tháng chạp năm Nhâm Thân(1932). Quán làng Định Trung, xã An Định, Quận Tuy An, Tỉnh Phú Yên. Thân phụ của Hòa Thượng là cụ ông Phạm Giản. một bậc túc nho thời bấy giờ. Thân mẫu là cụ bà Ung thị Bình, một Phật tử thuần thành từ hồi bé. Ông nội của Hòa Thượng không những là một kẻ sĩ mà còn là một chiến sĩ trong phong trào Cần Vương kháng Pháp. Hòa Thượng chào đời và lớn lên ở Phú Yên một nơi địa linh nhân kiệt, không những vì đời đã sản sinh ra nhiều anh hùng liệt sĩ, mà về Đạo cũng là nơi đời đời nối tiếp xuất sinh nhiều vị Tăng tài kế truyền hoằng hóa giáo pháp của đức Thế Tôn. Non nước Phú Yên như phần nào nói cho ta điều đó. Ngoài dòng sông Ba yên bình chảy ra biển cả, Phú Yên còn có hai ngọn núi là là hòn Chuông và hòn Mõ, hình giống như hai pháp khí tu hành của nhà Phật , vì vậy vua Minh Mạng khi nói về đất Phú Yên đã khen ngợi:
20/06/2020(Xem: 9412)
Trưởng lão Hòa thượng thượng NGUYÊN hạ TỊNH tự LƯU THANH Đạo Hiệu NGÂN BÌNH. ( 1941-2020 ). Thuận thế vô thường thu thần viên tịch vào lúc 11h30 ngày 19 tháng 06 năm 2020 (nhằm ngày 28 tháng tư nhuận năm Canh tý). Trụ thế : 80 năm Hạ lạp : 55 năm Tang lễ được cử hành theo chương trình như sau: - Lễ cung thỉnh nhục thân nhập kim quan: vào lúc 17h00 ngày 20 tháng 06 năm 2020 (nhằm ngày 29 tháng 04 nhuận năm Canh tý). - Kim quan tôn trí tại Tổ Đình Trúc Lâm, Tp. Huế. - Lễ phụng tống kim quan nhập bảo tháp tại Tổ Đình Trúc Lâm cử hành vào lúc 6h00 ngày 24 tháng 06 năm 2020 (nhằm ngày 04 tháng 05 năm Canh tý).
10/06/2020(Xem: 6648)
Thân thế: Hòa Thượng Thích Minh Đạo, thế danh là Dương Văn Tam, Pháp danh Trừng Hữu, pháp tự Thiện Lộc, pháp hiệu Chơn Châu, sinh năm Quý Sửu 1913. Nguyên Quán tại Huyện Phú Quý ( thường gọi là đảo Phú Quý) Ngài theo song thân vào Xã Phan Rí Cửa, Quận Hòa Đa ( nay thuộc Huyện Tuy Phong) Tỉnh Bình Thuận để lập nghiệp.
26/05/2020(Xem: 8111)
Trước lúc nhập Niết bàn, đức Thế Tôn nói kinh Di giáo, tiên liệu cả hằng nghìn năm sau nên lời dạy của Ngài vô cùng thậm thâm vi diệu. Mỗi lời mỗi ý chứa đựng biết bao tình lý, mỗi lần đọc chúng ta nhận cảm trọn vẹn lời di giáo tha thiết của Ngài. Lời đi huấn của Hòa thượng Đôn Hậu để lại cho Thất chúng đệ tử mà có lẽ cũng cho tất cả chúng ta. Đến Linh Mụ không ai là không đọc lời Di Huấn này, kể cả những người không biết chữ cũng lắng tai nghe nhờ người khác đọc giúp. Điều đáng quan tâm là lời Di huấn này Hòa thượng viết từ năm 1988, bốn năm trước khi viên tịch, Ngài đã nhìn thấy rất rõ ràng những gì có thể xảy ra trong Tang lễ của Ngài và cần huấn thị lại cho minh bạch, và, cũng chính vì “Lời di huấn” này mà:
06/05/2020(Xem: 11570)
Tiểu sử Đức Đệ Nhất Tăng Thống GHPGVNTN – Đại Lão Hòa Thượng THÍCH TỊNH KHIẾT , Đệ nhất Tăng Thống - HT Thích Tịnh Khiết, Hòa Thượng thế danh là NGUYỄN VĂN KỈNH. Ngài sinh ngày 17 tháng 11 năm Tân Mão (nhằm ngày 17.12.1891)(1) tại làng Dưỡng Mong Thượng, tổng Phú Mỹ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Nay là thôn Dưỡng Mong, xã Phú Mỹ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ của ngài là cụ Nguyễn Văn Toán, thân mẫu là cụ bà Tôn Nữ Thị Lý. Ngài là con thứ hai(2). Bào huynh là Hòa Thượng Trừng Hương – Tịnh Hạnh (chúng tôi chưa tìm thấy thế danh của ngài). Hòa Thượng Tịnh Hạnh sinh năm Kỷ Sửu, 1889; xuất gia năm Ất Tỵ, 1905; thọ Cụ-túc giới năm Canh Tuất, 1910; trụ trì chùa Tường Vân, Huế; viên tịch năm Quý Dậu, 1933.
06/05/2020(Xem: 18170)
Công đức hoằng khai nhiếp hóa của Ngài cao hơn núi cao Tấm lòng từ bi độ lượng của Ngài sâu hơn biển sâu Chữ nghĩa của trần gian làm sao phô diễn
05/05/2020(Xem: 24517)
Như Áng Mây Bay là một phần thành quả của sự huân tập ý đạo, là một phần của cuộc hành trình đầy mạo hiểm mà ta gọi là kiếp người.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]