Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 55: Phẩm Biện Đại-Thừa 5

07/07/201511:23(Xem: 14231)
Quyển 55: Phẩm Biện Đại-Thừa 5

Tập 02
Quyển 55
Phẩm Biện Đại-Thừa 5

Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm
Diễn đọc: Cư Sĩ Chánh Trí



 

Bạch Thế Tôn! Vì sao nên biết đã viên mãn bậc thứ mười là Pháp vân, đại Bồ-tát cùng chư Như Lai phát ra lời nói không khác?

Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát ấy đã viên mãn sáu phép Ba-la-mật-đa, đã viên mãn bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; đã viên mãn bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; đã viên mãn pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện; đã viên mãn năm loại mắt, sáu phép thần thông; đã viên mãn mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; đã viên mãn tất cả pháp Phật, lại nếu đoạn trừ vĩnh viễn sự tương tục của tất cả phiền não tập khí, thì liền trụ Phật địa, vì vậy nên biết là đã viên mãn bậc thứ mười là Pháp vân, đại Bồ-tát cùng với chư Như Lai phát ra lời nói không khác.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Làm thế nào từ bậc thừ mười là Pháp vân, đại Bồ-tát hướng đến bậc Như Lai?

Phật dạy: Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, dùng phương tiện thiện xảo hành sáu phép Ba-la-mật-đa, tu vô lượng tịnh lự, định vô sắc, ba mươi bảy pháp Bồ-đề phần, ba pháp môn giải thoát; học năm loại mắt, sáu phép thần thông, mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, vì tất cả pháp Phật đã được viên mãn, nên vượt lên bậc Tịnh quán, bậc Chủng tánh, bậc thứ tám, bậc Cụ kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Độc-giác và mười bậc Bồ-tát, đoạn trừ vĩnh viễn sự tương tục của tập khí phiền não, mới thành Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác

Thiện Hiện! Như vậy bậc thứ mười là Pháp vân đại Bồ-tát hướng đến bậc Như Lai.

Thiện Hiện! nên biết đó là đại Bồ-tát phát tâm hướng đến Đại-thừa.

Lại nữa, Thiện Hiện! Ngươi hỏi Đại-thừa như vậy phát xuất từ chỗ nào và đến an trụ ở đâu?

Thiện Hiện! Đại-thừa như vậy từ trong ba cõi mà ra và đến an trụ trong trí nhất thiết trí; do vì trí nhất thiết trí mà hiện ra ba cõi, nhưng vì không có hai, nên không (từ đâu) ra không (có chỗ) đến. Vì sao? Vì hoặc Đại-thừa, hoặc trí nhất thiết trí, hai pháp như vậy chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng nhất tướng, gọi đó là vô tướng. Pháp vô tướng không (từ đâu) ra không (có chỗ) đến. Vì sao? Thiện Hiện! Pháp vô tướng chẳng đã (từ đâu) ra và đã (có chỗ) đến, chẳng phải sẽ (từ đâu) ra và  sẽ (có chỗ) đến, chẳng phải đang (từ đâu) ra và đang (có chỗ) đến.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến chơn như có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì chơn như chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến trụ trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì chơn như và tự tánh của chơn như là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng ấy có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới hư không, cảnh giới đoạn, cảnh giới ly, cảnh giới diệt, cảnh giới vô tánh, cảnh giới vô tướng, cảnh giới vô tác, cảnh giới vô vi, cảnh giới an ổn, cảnh giới tịch tịnh, định pháp, trụ pháp, bổn vô, thật tế, có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì pháp giới cho đến thật tế chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì pháp giới và tánh của pháp giới là không, cho đến thật tế và tánh của thật tế là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến sắc có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì sắc chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì sắc và tự tánh của sắc là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến thọ, tưởng, hành, thức có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì thọ, tưởng, hành, thức chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì thọ, tưởng, hành, thức và tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến nhãn xứ có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì nhãn xứ chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì nhãn xứ và tự tánh của nhãn xứ là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ và tự tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến sắc xứ có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì sắc xứ chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì sắc xứ và tự tánh của sắc xứ là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ và tự tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến nhãn giới có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì nhãn giới chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì nhãn giới và tự tánh của nhãn giới là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì sắc giới và tự tánh của sắc giới là không, cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra và tự tánh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến nhĩ giới có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì nhĩ giới chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì nhĩ giới và tự tánh của nhĩ giới là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì thanh giới và tự tánh của thanh giới là không cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra và tự tánh của các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến tỷ giới có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì tỷ giới chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tỷ giới và tự tánh của tỷ giới là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì hương giới và tự tánh của hương giới là không, cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra và tự tánh của các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến thiệt giới có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì thiệt giới chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì thiệt giới và tự tánh của thiệt giới là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì vị giới và tự tánh của vị giới là không, cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra và tự tánh của các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến thân giới có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì thân giới chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì thân giới và tự tánh của thân giới là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì xúc giới và tự tánh của xúc giới là không, cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra và tự tánh của các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến ý giới có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì ý giới chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì ý giới và tự tánh của ý giới là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì pháp giới và tự tánh của pháp giới là không, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra và tự tánh của các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến địa giới có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì địa giới chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì địa giới và tự tánh của địa giới là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến thủy, hỏa, phong, không, thức giới có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới và tự tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến Thánh đế khổ, có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì Thánh đế khổ, chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì Thánh đế khổ và tự tánh của Thánh đế khổ là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến Thánh đế tập, diệt, đạo có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì Thánh đế tập, diệt, đạo và tự tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến vô minh có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì vô minh chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì vô minh và tự tánh của vô minh là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì hành và tự tánh của hành là không, cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não và tự tánh của lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến sự huyễn có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì sự huyễn chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì sự huyễn và tự tánh của sự huyễn là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến cảnh mộng, ảnh tượng, tiếng vang, bóng sáng, hoa đốm giữa hư không, sóng nắng, ảo thành, sự biến hóa có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì cảnh mộng cho đến sự biến hóa chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì cảnh mộng và tự tánh của cảnh mộng là không, cho đến sự biến hóa và tự tánh của sự biến hóa là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến cái không nội có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì cái không nội chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì cái không nội và tự tánh cái không nội là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bổn tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì cái không ngoại và tự tánh của cái không ngoại là không, cho đến cái không không tánh tự tánh và tự tánh của cái không không tánh tự tánh là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến bố thí Ba-la-mật-đa có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì bố thí Ba-la-mật-đa chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì bố thí Ba-la-mật-đa và tự tánh của bố thí Ba-la-mật-đa là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa và tự tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến bốn tịnh lự có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì bốn tịnh lự chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì bốn tịnh lự và tự tánh của bốn tịnh lự là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến bốn vô lượng, bốn định vô sắc có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc và tự tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến bốn niệm trụ có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì bốn niệm trụ chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì bốn niệm trụ và tự tánh của bốn niệm trụ là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì bốn chánh đoạn và tự tánh của bốn chánh đoạn là không, cho đến tám chi thánh đạo và tự tánh của tám chi thánh đạo là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến pháp môn giải thoát không có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát không chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì pháp môn giải thoát không và tự tánh của pháp môn giải thoát không là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện và tự tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến năm loại mắt có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì năm loại mắt chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì năm loại mắt và tự tánh của năm loại mắt là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến sáu phép thần thông có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì sáu phép thần thông chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì sáu phép thần thông và tự tánh của sáu phép thần thông là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến mười lực của Phật có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì mười lực của Phật chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì mười lực của Phật và tự tánh của mười lực của Phật là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì bốn điều không sợ cho đến trí nhất thiết tướng chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì bốn điều không sợ và tự tánh của bốn điều không sợ là không, cho đến trí nhất thiết tướng và tự tánh của trí nhất thiết tướng là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến bậc Dự-lưu sanh vào đường ác có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì bậc Dự-lưu sanh vào đường ác chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì bậc Dự-lưu sanh vào đường ác và tự tánh của bậc Dự-lưu sanh vào đường ác là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến bậc Nhất-lai sanh lại nhiều lần, bậc Bất-hoàn sanh vào Dục giới, bậc đại Bồ-tát sanh ra để tự lợi, bậc A-la-hán, Độc-giác, Phật-đà Chánh Đẳng Chánh Giác sanh lại đời sau có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì bậc Nhất-lai sanh lại nhiều lần cho đến Phật-đà Chánh Đẳng Chánh Giác sanh lại đời sau chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì bậc Nhất-lai sanh lại nhiều lần và tự tánh của bậc Nhất-lai sanh lại nhiều lần là không, cho đến Phật-đà Chánh Đẳng Chánh Giác và tự tánh của Phật-đà Chánh Đẳng Chánh Giác là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả và tự tánh của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả, Độc-giác hướng, Độc-giác quả, Bồ-tát, Như Lai có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả cho đến Như Lai chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả và tự tánh của Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả là không, cho đến Như lai và tự tánh của Như Lai là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến danh tự, giả tưởng, thi thiết, ngôn thuyết có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì danh tự, giả tưởng, thi thiết, ngôn thuyết chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì danh tự, giả tưởng, thi thiết, ngôn thuyết và tự tánh của danh tự, giả tưởng, thi thiết, ngôn thuyết là không.

Thiện Hiện! Ai muốn khiến pháp vô tướng có chỗ ra có chỗ đến, thì kẻ ấy muốn khiến vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tướng, vô vi có chỗ ra có chỗ đến. Vì sao? Vì vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tướng, vô vi chẳng thể từ trong tam giới mà ra, cũng chẳng thể đến an trú trong trí nhất thiết trí. Vì sao? Thiện Hiện! Vì vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tướng, vô vi và tự tánh của vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tướng, vô vi là không.

Thiện Hiện! Do duyên này, nên việc Đại-thừa từ trong tam giới mà ra, đến an trú trong trí nhất thiết trí, là vô nhị, nên không (từ đâu) ra, không (có chỗ) đến, vì là pháp vô tướng, nên không động không chuyển.

Lại nữa, Thiện Hiện! Ngươi hỏi, Đại-thừa như vậy là trụ ở chỗ nào?

Thiện Hiện! Đại-thừa như vậy hoàn toàn vô sở trụ. Vì sao? Vì tất cả pháp đều vô sở trụ. Vì sao? Vì chỗ trụ của các pháp chẳng thể nắm bắt được.

Thiện Hiện! Nhưng Đại-thừa trụ vô sở trụ.

Thiện Hiện! Như tánh của chơn như chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Đại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh chơn như là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh chơn như tức là cái không của tánh chơn như.

Thiện Hiện! Như pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới hư không, cảnh giới đoạn, cảnh giới ly, cảnh giới diệt, cảnh giới vô tánh, cảnh giới vô tướng, cảnh giới vô tác, cảnh giới vô vi, cảnh giới an ổn, cảnh giới tịch tịnh, định pháp, trụ pháp, tánh bổn vô, thật tế chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Đại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh pháp giới cho đến tánh thật tế là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh pháp giới, tức là cái không của tánh pháp giới, cho đến tánh thật tế là cái không của tánh thật tế.

Thiện Hiện! Như tánh của sắc chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Đại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh của sắc là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh sắc là cái không của tánh sắc

Thiện Hiện! Như tánh của thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Đại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh thọ, tưởng, hành, thức là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh thọ, tưởng, hành, thức là cái không của tánh thọ, tưởng, hành, thức.

Thiện Hiện! Như tánh của nhãn xứ chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Đại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh nhãn xứ là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh nhãn xứ tức là cái không của tánh nhãn xứ.

Thiện Hiện! Như tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Đại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ tức là cái không của tánh nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.

Thiện Hiện! Như tánh của sắc xứ chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Đại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh của sắc xứ là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh sắc xứ là cái không của tánh sắc xứ.

Thiện Hiện! Như tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Đại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ tức là cái không của tánh thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.

Thiện Hiện! Như tánh của nhãn giới chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Đại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh của nhãn giới là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh nhãn giới tức là cái không của tánh nhãn giới.

Thiện Hiện! Như tánh của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Đại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh sắc giới cho đến tánh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh sắc giới tức là cái không của tánh sắc giới, cho đến tánh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra tức là cái không của tánh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra.

Thiện Hiện! Như tánh của nhĩ giới chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Đại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh của nhĩ giới là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh nhĩ giới tức là cái không của tánh nhĩ giới.

Thiện Hiện! Như tánh của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Đại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh của thanh giới cho đến tánh các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh thanh giới tức là cái không của tánh thanh giới, cho đến tánh các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra tức là cái không của tánh các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra.

Thiện Hiện! Như tánh của tỷ giới chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Đại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh của tỷ giới là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh tỷ giới tức là cái không của tánh tỷ giới.

Thiện Hiện! Như tánh của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Đại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh của hương giới, cho đến tánh các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh hương giới tức là cái không của tánh hương giới, cho đến tánh các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra tức là cái không của tánh các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra.

Thiện Hiện! Như tánh của thiệt giới chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Đại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh của thiệt giới là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh thiệt giới tức là cái không của tánh thiệt giới.

Thiện Hiện! Như tánh của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Đại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh của vị giới cho đến tánh các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh vị giới tức là cái không của tánh vị giới, cho đến tánh các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra tức là cái không của tánh các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra.

Thiện Hiện! Như tánh của thân giới chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Đại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh thân giới là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh thân giới tức là cái không của tánh thân giới.

Thiện Hiện! Như tánh của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Đại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh xúc giới cho đến tánh các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh xúc giới tức là cái không của tánh xúc giới, cho đến tánh các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra tức là cái không của tánh các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra.

Thiện Hiện! Như tánh của ý giới chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Đại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh ý giới là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh ý giới tức là cái không của tánh ý giới.

Thiện Hiện! Như tánh của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh pháp giới, cho đến tánh các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh pháp giới tức là cái không của tánh pháp giới, cho đến tánh các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra tức là cái không của tánh các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra.

Thiện Hiện! Như tánh của địa giới chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Đại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh địa giới là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh địa giới tức là cái không của tánh địa giới.

Thiện Hiện! Như tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Đại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh thủy, hỏa, phong, không, thức giới là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh thủy, hỏa, phong, không, thức giới tức là cái không của tánh thủy, hỏa, phong, không, thức giới.

Thiện Hiện! Như tánh của Thánh đế khổ, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Đại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh Thánh đế khổ là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh Thánh đế khổ tức là cái không của tánh Thánh đế khổ.

Thiện Hiện! Như tánh của Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Đại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh Thánh đế tập, diệt, đạo là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh Thánh đế tập, diệt, đạo tức là cái không của tánh Thánh đế tập, diệt, đạo.

Thiện Hiện! Như tánh của vô minh chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Đại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh vô minh là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh vô minh tức là cái không của tánh vô minh.

Thiện Hiện! Như tánh của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Đại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh hành cho đến tánh lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh hành tức là cái không của tánh hành, cho đến tánh lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não tức là cái không của tánh lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não.

Thiện Hiện! Như tánh của sự huyễn chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Đại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh sự huyễn là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh sự huyễn tức là cái không của tánh sự huyễn.

Thiện Hiện! Như tánh của cảnh mộng, ảnh tượng, tiếng vang, bóng sáng, hoa đốm giữa hư không, sóng nắng, ảo thành, sự biến hóa chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Đại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh cảnh mộng cho đến tánh sự biến hóa là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh cảnh mộng tức là cái không của tánh cảnh mộng, cho đến tánh sự biến hóa tức là cái không của tánh sự biến hóa.

Thiện Hiện! Như tánh của cái không nội chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Đại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh cái không nội là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh cái không nội tức là cái không của tánh cái không nội.

Thiện Hiện! Như tánh của cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bổn tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Đại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh cái không ngoại cho đến tánh cái không không tánh tự tánh là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh cái không ngoại tức là cái không của tánh cái không ngoại, cho đến tánh cái không không tánh tự tánh tức là cái không của tánh cái không không tánh tự tánh.

Thiện Hiện! Như tánh của bố thí Ba-la-mật-đa chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Đại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh bố thí Ba-la-mật-đa là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh bố thí Ba-la-mật-đa tức là cái không của tánh bố thí Ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện! Như tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Đại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa tức là cái không của tánh tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Thiện Hiện! Như tánh của bốn tịnh lự chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Đại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh bốn tịnh lự là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh bốn tịnh lự tức là cái không của tánh bốn tịnh lự.

Thiện Hiện! Như tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Đại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh bốn vô lượng, bốn định vô sắc là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh bốn vô lượng, bốn định vô sắc tức là cái không của tánh bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Thiện Hiện! Như tánh của bốn niệm trụ chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Đại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh bốn niệm trụ là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh bốn niệm trụ tức là cái không của tánh bốn niệm trụ.

Thiện Hiện! Như tánh của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Đại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh bốn chánh đoạn tức là cái không của tánh bốn chánh đoạn, cho đến tám chi thánh đạo tức là cái không của tánh tám chi thánh đạo.

Thiện Hiện! Như tánh của pháp môn giải thoát không chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Đại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh pháp môn giải thoát không là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh pháp môn giải thoát không tức là cái không của tánh pháp môn giải thoát không.

Thiện Hiện! Như tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Đại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện tức là cái không của tánh pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.

Thiện Hiện! Như tánh của năm loại mắt chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Đại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh năm loại mắt là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh năm loại mắt tức là cái không của tánh năm loại mắt.

Thiện Hiện! Như tánh của sáu phép thần thông chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Đại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh sáu phép thần thông là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh sáu phép thần thông tức là cái không của tánh sáu phép thần thông.

Thiện Hiện! Như tánh của mười lực Phật chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Đại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh mười lực của Phật là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh mười lực của Phật tức là cái không của tánh mười lực của Phật.

Thiện Hiện! Như tánh của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tuớng chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Đại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh bốn điều không sợ, cho đến tánh trí nhất thiết tướng là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh bốn điều không sợ tức là cái không của tánh bốn điều không sợ, cho đến tánh trí nhất thiết tướng tức là cái không của tánh trí nhất thiết tướng.

Thiện Hiện! Như tánh của bậc Dự-lưu sanh vào đường ác chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Đại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh bậc Dự-lưu sanh vào đường ác là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh bậc Dự-lưu sanh vào đường ác tức là cái không của tánh bậc Dự-lưu sanh vào đường ác.

Thiện Hiện! Như tánh của bậc Nhất-lai sanh lại nhiều lần, bậc Bất-hoàn sanh vào cõi Dục, bậc đại Bồ-tát sanh ra để tự lợi, bậc A-la-hán, Độc-giác, Phật-đà Chánh Đẳng Chánh Giác sanh lại đời sau chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Đại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh của bậc Nhất-lai sanh lại nhiều lần cho đến tánh Phật-đà Chánh Đẳng Chánh Giác sanh lại đời sau là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh bậc Nhất-lai sanh lại nhiều lần tức là cái không của tánh Nhất-lai sanh lại nhiều lần, cho đến tánh Phật-đà Chánh Đẳng Chánh Giác sanh lại đời sau tức là cái không của tánh Phật-đà Chánh Đẳng Chánh Giác sanh lại đời sau.

Thiện Hiện! Như tánh của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Đại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả tức là cái không của tánh Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả.

Thiện Hiện! Như tánh của Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả, Độc-giác hướng, Độc-giác quả, Bồ-tát, Như Lai chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Đại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả cho đến tánh Như Lai là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả tức là cái không của tánh Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, cho đến tánh Như Lai tức là cái không của tánh Như Lai.

Thiện Hiện! Như tánh của danh tự, giả tưởng, thi thiết, ngôn thuyết chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Đại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh danh tự, giả tưởng, thi thiết ngôn thiết là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh danh tự, giả tưởng, thi thiết, ngôn thuyết tức là cái không của tánh danh tự, giả tưởng, thi thiết, ngôn thuyết.

Thiện Hiện! Như tánh của vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tướng, vô vi chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Đại-thừa cũng vậy, chẳng phải trụ, chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh của vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tướng vô vi là vô trụ, vô bất trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tánh vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tướng vô vi tức là cái không của tánh vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, vô tướng, vô vi.

Thiện Hiện! Do vì duyên này, Đại-thừa như vậy, tuy hoàn toàn không có  chỗ trụ nhưng trụ vô sở trụ.

Lại nữa, Thiện Hiện! Ngươi hỏi, ai là người lại nương vào Đại-thừa ấy mà xuất hiện?

Thiện Hiện! Hoàn toàn không có ai nương vào Đại-thừa ấy mà xuất hiện. Vì sao? Hoặc chỗ để nương và người nương do lẽ này, vì lẽ này, mà chỗ xuất hiện, chỗ đi đến, lúc xuất hiện, lúc đi đến, tất cả điều ấy đều không có sở hữu, hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tất cả pháp đều không có sở hữu, hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được, rốt ráo thanh tịnh, thì như vậy tại sao có thể nói là có chỗ để nương, người nương có sự xuất hiện, sự đi đến và lúc xuất hiện lúc đi đến?

Thiện Hiện! Nên biết, ngã không có sở hữu nên chẳng thể nắm bắt được, kẻ nương Đại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh. Như vậy, hữu tình, dòng sinh mạng, sự sanh, sự dưỡng, sự trưởng thành, chủ thể luân hồi, người do người sanh, ngã tối thắng, khả năng làm việc, khả năng khiến người làm việc, khả năng tạo nghiệp, khả năng khiến người tạo nghiệp, tự thọ quả báo, khiến người thọ quả báo, cái biết, cái thấy không có sở hữu nên chẳng thể nắm bắt được. Kẻ nương vào Đại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.

Thiện Hiện! Nên biết, chơn như không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Đại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh. Như vậy, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới hư không, cảnh giới đoạn, cảnh giới ly, cảnh giới diệt, cảnh giới vô tánh, cảnh giới vô tướng, cảnh giới vô tác, cảnh giới vô vi, cảnh giới an ổn, cảnh giới tịch tịnh, định pháp, trụ pháp, bổn vô, thật tế, không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Đại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.

Thiện Hiện! Nên biết, sắc không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Đại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh. Như vậy, thọ, tưởng, hành, thức không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Đại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.

Thiện Hiện! Nên biết, nhãn xứ không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Đại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh. Như vậy, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Đại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.

Thiện Hiện! Nên biết, sắc xứ không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Đại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh. Như vậy, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Đại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.

Thiện Hiện! Nên biết, nhãn giới không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Đại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh. Như vậy, sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Đại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.

Thiện Hiện! Nên biết, nhĩ giới không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Đại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh. Như vậy, thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra, không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Đại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.

Thiện Hiện! Nên biết, tỷ giới không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Đại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh. Như vậy, hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra, không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Đại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.

Thiện Hiện! Nên biết, thiệt giới không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Đại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh. Như vậy, vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra, không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Đại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.

Thiện Hiện! Nên biết, thân giới không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Đại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh. Như vậy, xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra, không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Đại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.

Thiện Hiện! Nên biết, ý giới không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Đại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh. Như vậy, pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, không có sở hữu, nên chẳng thể nắm bắt được; kẻ nương vào Đại-thừa cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì rốt ráo thanh tịnh.

 

Quyển thứ 55

Hết

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/07/2020(Xem: 8761)
Lễ Huý Kỵ Trưởng Lão Hoà Thượng Thích Như Huệ tại Tổ Đình Pháp Hoa, Nam Úc,Chủ Nhật 05/07/2020 (15/05/Canh Tý).
04/07/2020(Xem: 9456)
Bài viết này để bổ túc cho một băng video chủ đề Tuệ Trung Thượng Sỹ trên YouTube (1) do nhóm Wisdom Today thực hiện, trong đó Tiến sĩ Phật học Nguyễn Thúy Loan đã phỏng vấn Hòa Thượng Thích Phước Tịnh và bản thân người viết là Cư sĩ Nguyên Giác. Lý do bổ túc vì lời nói của người viết vốn vụng về, không có khả năng diễn ý minh bạch như chữ viết.
28/06/2020(Xem: 24062)
Bức tượng được sơn son thếp vàng, tạc hình ảnh một nhà vua mặc triều phục đang quỳ gập người, hai bàn tay cung kính mở rộng để trên mặt đất, còn bên trên lưng là một pho tượng Phật cao lớn ngồi trên tòa sen nằm đè lên.
25/06/2020(Xem: 5676)
Mùa Đại dịch 2020 này đã phá vỡ bao ước nguyện thầm kín nung nấu trong tôi . Đó là được đảnh lễ và tham vấn HT Thích Như Điển như lời Ngài hứa khả , sau khi tôi được chia sẻ vài cảm nghĩ của mình qua tác phẩm của Ngài “MỐI TƠ VƯƠNG CỦA HUYỀN TRÂN CÔNG CHÚA “. Những tưởng thời gian sẽ nhanh chóng trôi qua và cái ngày quan trọng ấy càng lúc càng đến gần hơn nhưng nay .... được thông báo sẽ được dời đến tháng 10/2021! Thật không ai có thể đoán được điều gì xảy ra vào năm 2020 này, và dường như Chư Hộ Pháp muốn tặng tôi một món quà ân thưởng để bù lại niềm hụt hẫng ấy và chắc chắn là để thưởng cho thiện niệm tôi luôn hướng về Ôn Phương Trượng như một danh Tăng và một điểm khá đặc biệt là không thể quên ngày sinh nhật Ngài khi đã hai lần chúc mừng Khánh Tuế ( 2018 -2019 ) . Chính vì thế khi xem lịch 28/6/2020 đúng là Khánh Tuế lần thứ 72 của Ngài bổng nhiên trong tôi ước nguyện đã khởi lên “ Bằng cách nào để viết hoặc một bài văn hay một bài thơ vào lúc này vừa có thể chúc mừng với tấ
25/06/2020(Xem: 8671)
HT tên thật là Phạm Văn Nghi, húy là Thượng Đồng Hạ Viên, tự là Thông Lợi, hiệu là Viên Đức. Sinh vào giờ Tỵ ngày 26 tháng chạp năm Nhâm Thân(1932). Quán làng Định Trung, xã An Định, Quận Tuy An, Tỉnh Phú Yên. Thân phụ của Hòa Thượng là cụ ông Phạm Giản. một bậc túc nho thời bấy giờ. Thân mẫu là cụ bà Ung thị Bình, một Phật tử thuần thành từ hồi bé. Ông nội của Hòa Thượng không những là một kẻ sĩ mà còn là một chiến sĩ trong phong trào Cần Vương kháng Pháp. Hòa Thượng chào đời và lớn lên ở Phú Yên một nơi địa linh nhân kiệt, không những vì đời đã sản sinh ra nhiều anh hùng liệt sĩ, mà về Đạo cũng là nơi đời đời nối tiếp xuất sinh nhiều vị Tăng tài kế truyền hoằng hóa giáo pháp của đức Thế Tôn. Non nước Phú Yên như phần nào nói cho ta điều đó. Ngoài dòng sông Ba yên bình chảy ra biển cả, Phú Yên còn có hai ngọn núi là là hòn Chuông và hòn Mõ, hình giống như hai pháp khí tu hành của nhà Phật , vì vậy vua Minh Mạng khi nói về đất Phú Yên đã khen ngợi:
20/06/2020(Xem: 9513)
Trưởng lão Hòa thượng thượng NGUYÊN hạ TỊNH tự LƯU THANH Đạo Hiệu NGÂN BÌNH. ( 1941-2020 ). Thuận thế vô thường thu thần viên tịch vào lúc 11h30 ngày 19 tháng 06 năm 2020 (nhằm ngày 28 tháng tư nhuận năm Canh tý). Trụ thế : 80 năm Hạ lạp : 55 năm Tang lễ được cử hành theo chương trình như sau: - Lễ cung thỉnh nhục thân nhập kim quan: vào lúc 17h00 ngày 20 tháng 06 năm 2020 (nhằm ngày 29 tháng 04 nhuận năm Canh tý). - Kim quan tôn trí tại Tổ Đình Trúc Lâm, Tp. Huế. - Lễ phụng tống kim quan nhập bảo tháp tại Tổ Đình Trúc Lâm cử hành vào lúc 6h00 ngày 24 tháng 06 năm 2020 (nhằm ngày 04 tháng 05 năm Canh tý).
10/06/2020(Xem: 6741)
Thân thế: Hòa Thượng Thích Minh Đạo, thế danh là Dương Văn Tam, Pháp danh Trừng Hữu, pháp tự Thiện Lộc, pháp hiệu Chơn Châu, sinh năm Quý Sửu 1913. Nguyên Quán tại Huyện Phú Quý ( thường gọi là đảo Phú Quý) Ngài theo song thân vào Xã Phan Rí Cửa, Quận Hòa Đa ( nay thuộc Huyện Tuy Phong) Tỉnh Bình Thuận để lập nghiệp.
26/05/2020(Xem: 8195)
Trước lúc nhập Niết bàn, đức Thế Tôn nói kinh Di giáo, tiên liệu cả hằng nghìn năm sau nên lời dạy của Ngài vô cùng thậm thâm vi diệu. Mỗi lời mỗi ý chứa đựng biết bao tình lý, mỗi lần đọc chúng ta nhận cảm trọn vẹn lời di giáo tha thiết của Ngài. Lời đi huấn của Hòa thượng Đôn Hậu để lại cho Thất chúng đệ tử mà có lẽ cũng cho tất cả chúng ta. Đến Linh Mụ không ai là không đọc lời Di Huấn này, kể cả những người không biết chữ cũng lắng tai nghe nhờ người khác đọc giúp. Điều đáng quan tâm là lời Di huấn này Hòa thượng viết từ năm 1988, bốn năm trước khi viên tịch, Ngài đã nhìn thấy rất rõ ràng những gì có thể xảy ra trong Tang lễ của Ngài và cần huấn thị lại cho minh bạch, và, cũng chính vì “Lời di huấn” này mà:
06/05/2020(Xem: 11660)
Tiểu sử Đức Đệ Nhất Tăng Thống GHPGVNTN – Đại Lão Hòa Thượng THÍCH TỊNH KHIẾT , Đệ nhất Tăng Thống - HT Thích Tịnh Khiết, Hòa Thượng thế danh là NGUYỄN VĂN KỈNH. Ngài sinh ngày 17 tháng 11 năm Tân Mão (nhằm ngày 17.12.1891)(1) tại làng Dưỡng Mong Thượng, tổng Phú Mỹ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Nay là thôn Dưỡng Mong, xã Phú Mỹ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ của ngài là cụ Nguyễn Văn Toán, thân mẫu là cụ bà Tôn Nữ Thị Lý. Ngài là con thứ hai(2). Bào huynh là Hòa Thượng Trừng Hương – Tịnh Hạnh (chúng tôi chưa tìm thấy thế danh của ngài). Hòa Thượng Tịnh Hạnh sinh năm Kỷ Sửu, 1889; xuất gia năm Ất Tỵ, 1905; thọ Cụ-túc giới năm Canh Tuất, 1910; trụ trì chùa Tường Vân, Huế; viên tịch năm Quý Dậu, 1933.
06/05/2020(Xem: 18570)
Công đức hoằng khai nhiếp hóa của Ngài cao hơn núi cao Tấm lòng từ bi độ lượng của Ngài sâu hơn biển sâu Chữ nghĩa của trần gian làm sao phô diễn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]