Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 61: Phẩm Tán Đại-Thừa 6, Phẩm Tùy Thuận, Phẩm Vô Sở Đắc 1

07/07/201511:38(Xem: 13728)
Quyển 61: Phẩm Tán Đại-Thừa 6, Phẩm Tùy Thuận, Phẩm Vô Sở Đắc 1
Kinh Dai Bat Nha- HT Thich Tri Nghiem_2_b
Tập 02
Quyển 61
Phẩm Tán Đại-Thừa 6
Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm
Diễn đọc: Cư Sĩ Chánh Trí



Thiện Hiện! Phàm phu đời trước, chẳng thể nắm bắt được; phàm phu đời sau, chẳng thể nắm bắt được; phàm phu đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Trong cái bình đẳng của ba đời, phàm phu cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Thiện Hiện! Vì trong cái bình đẳng, phàm phu quá khứ, vị lai, hiện tại, đều chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong cái bình đẳng, tánh bình đẳng còn chẳng thể nắm bắt được, huống gì trong cái bình đẳng, có phàm phu quá khứ, vị lai, hiện tại, có thể nắm bắt được. Vì vậy ngã, hữu tình cho đến cái biết, cái thấy, chẳng thể nắm bắt được.

Thiện Hiện! Thanh-văn, Độc-giác, Bồ-tát, Như Lai đời trước, chẳng thể nắm bắt được; Thanh-văn, Độc-giác, Bồ-tát, Như Lai đời sau, chẳng thể nắm bắt được; Thanh-văn, Độc-giác, Bồ-tát, Như Lai đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Trong cái bình đẳng của ba đời, Thanh-văn, Độc-giác, Bồ-tát, Như Lai, cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Thiện Hiện! Vì trong cái bình đẳng, Thanh-văn, Độc-giác, Bồ-tát, Như Lai quá khứ, vị lai, hiện tại, đều chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong cái bình đẳng, tánh bình đẳng còn chẳng thể nắm bắt được, huống gì trong cái bình đẳng, có Thanh-văn, Độc-giác, Bồ-tát, Như Lai quá khứ, vị lai, hiện tại, có thể nắm bắt được. Vì vậy ngã, hữu tình cho đến cái biết, cái thấy, chẳng thể nắm bắt được.

Thiện Hiện! Các đại Bồ-tát, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, an trụ trong tướng bình đẳng ba đời này, tinh cần tu học trí nhất thiết trí, không thủ trước, nên mau được viên mãn. Thiện Hiện! Đó gọi là tướng Đại-thừa bình đẳng ba đời của đại Bồ-tát. Nếu đại Bồ-tát an trú trong tướng Đại-thừa như vậy, thì vượt hơn tất cả trời, người, A-tố-lạc v.v… trong thế gian, có khả năng mau chứng đắc trí nhất thiết trí, lợi lạc hữu tình.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Hay thay! Hay thay! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nói hay, nói đúng về Đại-thừa của đại Bồ-tát.

Bạch Thế Tôn! Đại-thừa như vậy, tối tôn, tối diệu. Các đại Bồ-tát trong quá khứ học ở trong đó, đã đạt được trí nhất thiết trí; các đại Bồ-tát ở vị lai học ở trong đó, sẽ đạt được trí nhất thiết trí, tất cả đại Bồ-tát tại vô lượng, vô số, vô biên thế giới trong mười phương ở hiện tại học trong đó, hiện đạt được trí nhất thiết trí. Vì vậy Đại-thừa là tối tôn, tối diệu, chỗ nương chơn thật, hơn hết của trí nhất thiết trí.

Phật bảo Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như ông nói, các đại Bồ-tát ở quá khứ, vị lai, hiện tại đều nương vào Đại-thừa, tinh cần tu học, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy nên Đại-thừa là tối tôn, tối diệu.

Tập 02
Quyển 61
Phẩm Tùy Thuận

Lúc bấy giờ, Mãn Từ Tử bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Như Lai trước đây bảo Tôn giả Thiện Hiện, vì các đại Bồ-tát tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nhưng nay vì sao lại nói Đại-thừa?

Cụ thọ Thiện Hiện liền bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vừa rồi con nói Đại-thừa không chống trái, vượt qua Bát-nhã-ba-la-mật-đa?

Phật bảo: Thiện Hiện! Ngươi vừa nói Đại-thừa, đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa, hoàn toàn tùy thuận, không có sự chống trái, vượt qua. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tất cả pháp thiện, pháp Bồ-đề phần, pháp Thanh-văn, pháp Độc-giác, pháp Bồ-tát, pháp chư Phật, tất cả đâu không nhiếp nhập vào Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Những gì là tất cả pháp thiện, pháp Bồ-đề phần, pháp Thanh-văn, pháp Độc-giác, pháp Bồ-tát, pháp chư Phật, hoàn toàn nhiếp nhập vào Bát-nhã-ba-la-mật-đa?

Phật dạy: Thiện Hiện! Hoặc bố thí Ba-la-mật-đa, tịnh giới Ba-la-mật-đa, an nhẫn Ba-la-mật-đa, tinh tấn Ba-la-mật-đa, tịnh lự Ba-la-mật-đa, Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; hoặc bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; hoặc pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, pháp môn giải thoát vô nguyện; hoặc năm loại mắt, sáu phép thần thông; hoặc mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; hoặc pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Thiện Hiện, tất cả các pháp thiện, pháp Bồ-đề phần, pháp Thanh-văn, pháp Độc-giác, pháp Bồ-tát, pháp chư Phật, tất cả các pháp như vậy đều hoàn toàn nhiếp nhập vào Bát-nhã-ba-la-mật-đa

Lại nữa, Thiện Hiện! Hoặc Đại-thừa, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa, hoặc tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa; hoặc sắc, hoặc thọ tưởng hành thức, hoặc nhãn xứ, hoặc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, hoặc sắc xứ, hoặc thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; hoặc nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra; hoặc nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra; hoặc tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra; hoặc thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra; hoặc thân giới, xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra; hoặc ý giới, pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra; hoặc địa giới, hoặc thủy, hỏa, phong, không, thức, giới; hoặc Thánh đế khổ, hoặc Thánh đế tập, diệt, đạo; hoặc vô minh, hoặc hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; hoặc Dục, Sắc, Vô sắc giới; hoặc pháp thiện, pháp phi thiện; hoặc pháp hữu ký, vô ký; hoặc pháp hữu lậu, vô lậu; hoặc pháp hữu vi, vô vi; hoặc pháp thế gian, xuất thế gian; hoặc bốn tịnh lự, hoặc bốn vô lượng, bốn định vô sắc; hoặc tám giải thoát, hoặc tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; hoặc bốn niệm trụ, hoặc bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; hoặc pháp môn giải thoát không, hoặc pháp môn giải thoát vô tướng, pháp môn giải thoát vô nguyện; hoặc năm loại mắt, hoặc sáu phép thần thông; hoặc mười lực của Phật, hoặc bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; hoặc pháp không quên mất, hoặc tánh luôn luôn xả; hoặc tất cả pháp môn Đà-la-ni, hoặc tất cả pháp môn Tam-ma-địa; hoặc các đức Như Lai, hoặc pháp luật đức Phật đã giác ngộ và đã nói; hoặc cái không nội, hoặc cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bổn tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh; hoặc chơn như, hoặc pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới hư không, cảnh giới đoạn, cảnh giới ly, cảnh giới diệt, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, cảnh giới vô tánh, cảnh giới vô tướng, cảnh giới vô tác, cảnh giới vô vi, cảnh giới an ổn, cảnh giới tịch tịnh, bổn vô, thật tế, cứu cánh Niết-bàn, tất cả các pháp như vậy, đều chẳng phải tương ưng, chẳng phải chẳng phải tương ưng, chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc, chẳng phải hữu kiến, chẳng phải vô kiến, chẳng phải hữu đối, chẳng phải vô đối, đều cùng một tướng, gọi đó là vô tướng.

Thiện Hiện! Do nhân duyên này, vừa rồi, ông nói Đại-thừa đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa, hoàn toàn tùy thuận, không có sự chống trái vượt qua. Vì sao? Thiện Hiện! Vì Đại-thừa chẳng khác Bát-nhã-ba-la-mật-đa, Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng khác Đại-thừa. Vì sao? Vì hoặc Đại-thừa, hoặc Bát-nhã-ba-la-mật-đa, tánh nó không hai, vì không có hai phần.

Thiện Hiện! Đại-thừa chẳng khác tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa; tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa chẳng khác Đại-thừa. Vì sao? Vì hoặc Đại-thừa, hoặc tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa, tánh nó không hai, vì không có hai phần.

Thiện Hiện! Đại-thừa chẳng khác bốn tịnh lự; bốn tịnh lự chẳng khác Đại-thừa. Vì sao? Vì hoặc Đại-thừa, hoặc bốn tịnh lự, tánh nó không hai, vì không có hai phần.

Thiện Hiện! Đại-thừa chẳng khác bốn vô lượng, bốn định vô sắc; bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng khác Đại-thừa. Vì sao? Vì hoặc Đại-thừa, hoặc bốn vô lượng, bốn định vô sắc, tánh nó không hai, vì không có hai phần.

Thiện Hiện! Đại-thừa chẳng khác tám giải thoát, tám giải thoát chẳng khác Đại-thừa. Vì sao? Vì hoặc Đại-thừa hoặc tám giải thoát, tánh nó không hai, vì không có hai phần.

Thiện Hiện! Đại-thừa chẳng khác tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng khác Đại-thừa. Vì sao? Vì hoặc Đại-thừa, hoặc tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, tánh nó không hai, vì không có hai phần.

Thiện Hiện! Đại-thừa chẳng khác bốn niệm trụ, bốn niệm trụ chẳng khác Đại-thừa. Vì sao? Vì hoặc Đại-thừa, hoặc bốn niệm trụ, tánh nó không hai, vì không có hai phần.

Thiện Hiện! Đại-thừa chẳng khác bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo chẳng khác Đại-thừa. Vì sao? Vì hoặc Đại-thừa, hoặc bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo, tánh nó không hai, vì không có hai phần.

Thiện Hiện! Đại-thừa chẳng khác pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát không chẳng khác Đại-thừa. Vì sao? Vì hoặc Đại-thừa, hoặc pháp môn giải thoát không, tánh nó không hai, vì không có hai phần.

Thiện Hiện! Đại-thừa chẳng khác pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng khác Đại-thừa. Vì sao? Vì hoặc Đại-thừa, hoặc pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, tánh nó không hai, vì không có hai phần.

Thiện Hiện! Đại-thừa chẳng khác năm loại mắt; năm loại mắt chẳng khác Đại-thừa. Vì sao? Vì hoặc Đại-thừa, hoặc năm loại mắt, tánh nó không hai, vì không có hai phần.

Thiện Hiện! Đại-thừa chẳng khác sáu phép thần thông, sáu phép thần thông chẳng khác Đại-thừa. Vì sao? Vì hoặc Đại-thừa, hoặc sáu phép thần thông, tánh nó không hai, vì không có hai phần.

Thiện Hiện! Đại-thừa chẳng khác mười lực của Phật, mười lực của Phật chẳng khác Đại-thừa. Vì sao? Vì hoặc Đại-thừa, hoặc mười lực của Phật, tánh nó không hai, vì không có hai phần.

Thiện Hiện! Đại-thừa chẳng khác bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; bốn điều không sợ cho đến trí nhất thiết tướng chẳng khác Đại-thừa. Vì sao? Vì hoặc Đại-thừa, hoặc bốn điều không sợ cho đến trí nhất thiết tướng, tánh nó không hai, vì không có hai phần.

Thiện Hiện! Đại-thừa chẳng khác pháp không quên mất, pháp không quên mất chẳng khác Đại-thừa. Vì sao? Vì hoặc Đại-thừa, hoặc pháp không quên mất, tánh nó không hai, vì không có hai phần.

Thiện Hiện! Đại-thừa chẳng khác tánh luôn luôn xả, tánh luôn luôn xả chẳng khác Đại-thừa. Vì sao? Vì hoặc Đại-thừa, hoặc tánh luôn luôn xả, tánh nó không hai, vì không có hai phần.

Thiện Hiện! Đại-thừa chẳng khác pháp uẩn, giới, xứ không, bất không v.v… các pháp uẩn, giới, xứ không, bất không v.v... chẳng khác Đại-thừa. Vì sao? Vì hoặc Đại-thừa, hoặc pháp uẩn, giới, xứ không, bất không, tánh nó không hai, vì không có hai phần.

Thiện Hiện! Do nhân duyên này, nên ông vừa nói Đại-thừa đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa, hoàn toàn tùy thuận, không có sự chống trái vượt qua. Nếu nói Đại-thừa tức là đã nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa; nếu nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa tức là đã nói Đại-thừa, vì hai pháp như vậy, không có sự phân biệt khác nhau.

Tập 02
Quyển 61
Phẩm Vô Sở Đắc
1

 

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát đời trước, chẳng thể nắm bắt được; đại Bồ-tát đời sau, chẳng thể nắm bắt được; đại Bồ-tát đời giữa, chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Vì sắc vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên; vì thọ, tưởng, hành, thức vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên.

Bạch Thế Tôn! Vì nhãn xứ vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên.

Bạch Thế Tôn! Vì sắc xứ vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên.

Bạch Thế Tôn! Vì nhãn giới vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên; vì sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên.

Bạch Thế Tôn! Vì nhĩ giới vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên; vì thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên.

Bạch Thế Tôn! Vì tỷ giới vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên; vì hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên.

Bạch Thế Tôn! Vì thiệt giới vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên; vì vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên.

Bạch Thế Tôn! Vì thân giới vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên; vì xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên.

Bạch Thế Tôn! Vì ý giới vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên; vì pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên.

Bạch Thế Tôn! Vì địa giới vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên; vì thủy, hỏa, phong, không, thức, giới vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên.

Bạch Thế Tôn! Vì Thánh đế khổ vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên; vì Thánh đế tập, diệt, đạo vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên.

Bạch Thế Tôn! Vì vô minh vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên; vì hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên.

Bạch Thế Tôn! Vì bố thí Ba-la-mật-đa vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên; vì Tịnh giới an nhẫn tinh tấn tịnh lự Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên.

Bạch Thế Tôn! Vì bốn tịnh lự vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên; vì Bốn vô lượng, bốn định vô sắc vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên.

Bạch Thế Tôn! Vì tám giải thoát vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên; vì Tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên.

Bạch Thế Tôn! Vì bốn niệm trụ vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên; vì Bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên.

Bạch Thế Tôn! Vì pháp môn giải thoát không vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên; vì pháp môn giải thoát vô tướng, pháp môn giải thoát vô nguyện vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên.

Bạch Thế Tôn! Vì năm loại mắt vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên; vì sáu phép thần thông vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên.

Bạch Thế Tôn! Vì mười lực của Phật vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên; vì bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên.

Bạch Thế Tôn! Vì pháp không quên mất vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên; vì tánh luôn luôn xả vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên.

Bạch Thế Tôn! Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên.

Bạch Thế Tôn! Vì cái không nội vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên; vì cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bổn tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên.

Bạch Thế Tôn! Vì chơn như vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên; vì pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới hư không, cảnh giới đoạn, cảnh giới ly, cảnh giới diệt, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, cảnh giới vô tánh, cảnh giới vô tướng, cảnh giới vô tác, cảnh giới vô vi, cảnh giới an ổn, cảnh giới tịch tịnh, bổn vô, thật tế, cứu cánh Niết-bàn vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên.

Bạch Thế Tôn! Vì Thanh-văn thừa vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên; vì Độc-giác thừa vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên; vì Đại-thừa vô biên, nên biết đại Bồ-tát cũng vô biên.

Bạch Thế Tôn! Chính sắc, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa sắc, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Chính thọ, tưởng, hành, thức, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa thọ, tưởng, hành, thức, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Chính nhãn xứ, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa nhãn xứ, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Chính nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Chính sắc xứ, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa sắc xứ, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Chính thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Chính nhãn giới, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa nhãn giới, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Chính sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa sắc giới, nhãn thức giới, và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Chính nhĩ giới, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa nhĩ giới, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Chính thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa thanh giới, nhĩ thức giới, và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Chính tỷ giới, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa tỷ giới, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Chính hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa hương giới, tỷ thức giới, và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Chính thiệt giới, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa thiệt giới, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Chính vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa vị giới, thiệt thức giới, và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Chính thân giới, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa thân giới, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Chính xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa xúc giới, thân thức giới, và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Chính ý giới, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa ý giới, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Chính pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa pháp giới, ý thức giới, và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Chính địa giới, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa địa giới, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Chính thủy, hỏa, phong, không, thức, giới, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa thủy, hỏa, phong, không, thức, giới, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Chính Thánh đế khổ, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa Thánh đế khổ, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Chính Thánh đế tập, diệt, đạo, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa Thánh đế tập, diệt, đạo, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Chính vô minh, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa vô minh, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Chính hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Chính bố thí Ba-la-mật-đa, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa bố thí Ba-la-mật-đa, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Chính tịnh giới an nhẫn tinh tấn tịnh lự Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa tịnh giới an nhẫn tinh tấn tịnh lự Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Chính bốn tịnh lự, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa bốn tịnh lự, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Chính bốn vô lượng, bốn định vô sắc, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa bốn vô lượng, bốn định vô sắc, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Chính tám giải thoát, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa tám giải thoát, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Chính tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Chính bốn niệm trụ, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa bốn niệm trụ, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Chính bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Chính pháp môn giải thoát không, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa pháp môn giải thoát không, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Chính pháp môn giải thoát vô tướng, pháp môn giải thoát vô nguyện, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa pháp môn giải thoát vô tướng, pháp môn giải thoát vô nguyện, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Chính năm loại mắt, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa năm loại mắt, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Chính sáu phép thần thông, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa sáu phép thần thông, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Chính mười lực của Phật, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa mười lực của Phật, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Chính bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa bốn điều không sợ cho đến trí nhất thiết tướng, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Chính trí đạo tướng, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa trí đạo tướng, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Chính pháp vô vong thất, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa pháp vô vong thất, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Chính tánh luôn luôn xả, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa tánh luôn luôn xả, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Chính tất cả pháp môn Đà-la-ni, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa tất cả pháp môn Đà-la-ni, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Chính tất cả pháp môn Tam-ma-địa, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa tất cả pháp môn Tam-ma-địa, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Chính cái không nội, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa cái không nội, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Chính cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bổn tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Chính chơn như, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa chơn như, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Chính pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, cảnh giới bất tư nghì, cảnh giới hư không, cảnh giới đoạn, cảnh giới ly, cảnh giới diệt, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, cảnh giới vô tánh, cảnh giới vô tướng, cảnh giới vô tác, cảnh giới vô vi, cảnh giới an ổn, cảnh giới tịch tịnh, bổn vô, thật tế, cứu cánh Niết-bàn, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa pháp giới, pháp tánh cho đến thật tế, cứu cánh Niết-bàn, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Chính Thanh-văn thừa, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa Thanh-văn thừa, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Chính Độc-giác thừa, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa Độc-giác thừa, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Chính Đại-thừa, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa Đại-thừa, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Chính Bổ-đặc-già-la của Thanh-văn, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa Bổ-đặc-già-la của Thanh-văn, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được. Chính Bổ-đặc-già-la của Độc-giác Đại-thừa, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa Bổ-đặc-già-la của Độc-giác Đại-thừa, đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Đối với tất cả pháp, con dùng tất cả phương tiện, tất cả nơi chốn, tất cả thời gian, để cầu đại Bồ-tát, nhưng hoàn toàn không thấy được và rốt ráo chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao Thế Tôn bảo con dùng Bát-nhã-ba-la-mật-đa để dạy bảo trao truyền cho các đại Bồ-tát?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát chỉ có giả danh, như nói ngã v.v... rốt ráo chẳng sanh, các pháp cũng vậy, hoàn toàn không có tự tánh.

Bạch Thế Tôn! Sắc v.v... các pháp, rốt ráo chẳng sanh; nếu rốt ráo chẳng sanh, thì chẳng gọi là sắc v.v...

Bạch Thế Tôn! Con đâu có thể dùng Bát-nhã-ba-la-mật-đa rốt ráo chẳng sanh để dạy bảo trao truyền cho các đại Bồ-tát rốt ráo chẳng sanh.

Bạch Thế Tôn! Lìa sự rốt ráo chẳng sanh, cũng không có đại Bồ-tát có thể tu hành quả vị giác ngộ cao tột.

Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ-tát nghe nói như vậy mà tâm chẳng kinh hoàng, chẳng hãi hùng, chẳng sợ sệt, chẳng đắm, chẳng chìm, cũng chẳng lo âu, hối tiếc, thì nên biết đại Bồ-tát ấy có khả năng tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Vì duyên cớ gì mà nói đại Bồ-tát đời trước, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát đời sau, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát đời giữa, chẳng thể nắm bắt được? Vì duyên cớ gì mà nói sắc v.v... vô biên, nên đại Bồ-tát cũng vô biên? Vì duyên cớ gì mà nói chính sắc v.v... đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được; lìa sắc v.v... đại Bồ-tát không sở hữu, chẳng thể nắm bắt được? Vì duyên cớ nào mà nói đối với tất cả pháp con dùng tất cả phương tiện, tất cả nơi chốn, tất cả thời gian để cầu đại Bồ-tát nhưng hoàn toàn chẳng thấy được và rốt ráo chẳng thể nắm bắt được, thì tại sao khiến con dùng Bát-nhã-ba-la-mật-đa để dạy bảo, trao truyền cho các đại Bồ-tát? Vì duyên cớ gì mà nói đại Bồ-tát chỉ có giả danh? Vì duyên cớ gì mà nói ngã v.v... rốt ráo chẳng sanh? Vì duyên cớ gì mà nói các pháp cũng vậy, hoàn toàn không có tự tánh? Vì duyên cớ nào mà nói sắc v.v... các pháp, rốt ráo chẳng sanh? Vì duyên cớ gì mà nói nếu rốt ráo chẳng sanh thì chẳng gọi là sắc v.v...? Vì duyên cớ gì mà nói con đâu có thể dùng Bát-nhã-ba-la-mật-đa rốt ráo chẳng sanh, để dạy bảo, trao truyền cho các đại Bồ-tát? Vì duyên cớ gì mà nói lìa sự rốt ráo chẳng sanh cũng không có đại Bồ-tát có khả năng tu hành quả vị giác ngộ cao tột? Vì duyên cớ gì mà nói nếu đại Bồ-tát nghe nói như vậy mà tâm chẳng kinh hoàng, chẳng hãi hùng, chẳng sợ sệt, chẳng chìm, chẳng đắm, cũng chẳng lo âu, hối tiếc, thì nên biết đó là đại Bồ-tát có khả năng tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa?

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện trả lời Xá Lợi Tử: Nếu như Tôn giả hỏi: Vì duyên cớ gì mà nói đại Bồ-tát đời trước, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát đời sau, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát đời giữa, chẳng thể nắm bắt được? Thì này, Xá Lợi Tử! Vì hữu tình là không sở hữu, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì hữu tình là không, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì hữu tình là viễn ly, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được? Vì hữu tình không có tự tánh, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được? Vì sao? Thưa ngài Xá Lợi Tử! Vì trong cái không sở hữu, không, viễn ly, không tự tánh của hữu tình, đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Chẳng phải cái vô sở hữu của hữu tình, có sự sai khác; chẳng phải cái không của hữu tình, có sự sai khác; chẳng phải cái viễn ly của hữu tình, có sự sai khác; chẳng phải cái không tự tánh của hữu tình, có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ-tát đời trước, có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ-tát đời sau, có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ-tát đời giữa, có sự sai khác.

Xá Lợi Tử! Hoặc cái vô sở hữu của hữu tình, hoặc cái không của hữu tình, hoặc cái viễn ly của hữu tình, hoặc cái không tự tánh của hữu tình, hoặc đại Bồ-tát đời trước, hoặc đại Bồ-tát đời sau, hoặc đại Bồ-tát đời giữa, tất cả pháp như vậy không hai, không hai phần, thì thưa ngài Xá Lợi Tử, do duyên cớ này, nên tôi nói là đại Bồ-tát đời trước, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát đời sau, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát đời giữa, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Vì sắc không sở hữu, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì thọ, tưởng, hành, thức không sở hữu, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì sắc là không, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì thọ, tưởng, hành, thức là không, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì sắc là viễn ly, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì thọ, tưởng, hành, thức là viễn ly, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì sắc không tự tánh, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì thọ, tưởng, hành, thức không tự tánh, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì trong cái không sở hữu không, viễn ly, không tự tánh của sắc, thọ, tưởng, hành, thức, đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa đều, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Chẳng phải cái không sở hữu của sắc, thọ, tưởng, hành, thức có sự sai khác; chẳng phải cái không của sắc, thọ, tưởng, hành, thức, có sự sai khác; chẳng phải cái viễn ly của sắc, thọ, tưởng, hành, thức, có sự sai khác; chẳng phải cái không tự tánh của sắc, thọ, tưởng, hành, thức, có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ-tát đời trước, có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ-tát đời sau, có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ-tát đời giữa, có sự sai khác.

Xá Lợi Tử! Hoặc cái không sở hữu của sắc, thọ, tưởng, hành, thức; hoặc cái không của sắc, thọ, tưởng, hành, thức; hoặc cái viễn ly của sắc, thọ, tưởng, hành, thức, hoặc cái không tự tánh của sắc, thọ, tưởng, hành, thức, hoặc đại Bồ-tát đời trước, hoặc đại Bồ-tát đời sau, hoặc đại Bồ-tát đời giữa; tất cả pháp như vậy không hai, không hai phần.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là đại Bồ-tát đời trước, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát đời sau, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát đời giữa, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Vì nhãn xứ không sở hữu, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không sở hữu, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì nhãn xứ là không, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là không, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì nhãn xứ là viễn ly, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là viễn ly, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì nhãn xứ không tự tánh, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không tự tánh, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì trong cái không sở hữu, không, viễn ly, không tự tánh của nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa đều, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Chẳng phải cái không sở hữu của nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ có sự sai khác; chẳng phải cái không của nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, có sự sai khác; chẳng phải cái viễn ly của nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, có sự sai khác; chẳng phải cái không tự tánh của nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ-tát đời trước, có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ-tát đời sau, có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ-tát đời giữa, có sự sai khác.

Xá Lợi Tử! Hoặc cái không sở hữu của nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; hoặc cái không của nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; hoặc cái viễn ly của nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; hoặc cái không tự tánh của nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, hoặc đại Bồ-tát đời trước, hoặc đại Bồ-tát đời sau, hoặc đại Bồ-tát đời giữa, tất cả pháp như vậy đều không hai, không có hai phần.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là đại Bồ-tát đời trước, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát đời sau, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát đời giữa, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Vì sắc xứ không sở hữu, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không sở hữu, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì sắc xứ là không, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là không, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì sắc xứ là viễn ly, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là viễn ly, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì sắc xứ không tự tánh, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không tự tánh, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì trong cái không sở hữu, không, viễn ly, không tự tánh của sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa đều, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Chẳng phải cái không sở hữu của sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, có sự sai khác; chẳng phải cái không của sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, có sự sai khác; chẳng phải cái viễn ly của sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, có sự sai khác; chẳng phải cái không tự tánh của sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ-tát đời trước, có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ-tát đời sau, có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ-tát đời giữa, có sự sai khác.

Xá Lợi Tử! Hoặc cái không sở hữu của sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; hoặc cái không của sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; hoặc cái viễn ly của sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; hoặc cái không tự tánh của sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; hoặc đại Bồ-tát đời trước; hoặc đại Bồ-tát đời sau; hoặc đại Bồ-tát đời giữa, tất cả các pháp như vậy, đều không hai, không có hai phần.

Xá Lợi Tử! Do vì duyên cớ này, nên tôi nói là đại Bồ-tát đời trước, chẳng thể nắm bắt được; đại Bồ-tát đời sau, chẳng thể nắm bắt được; đại Bồ-tát đời giữa, chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Vì nhãn giới không sở hữu, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không sở hữu, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì nhãn giới là không, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là không, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì nhãn giới là viễn ly, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là viễn ly, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì nhãn giới không tự tánh, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được; vì sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không tự tánh, nên đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì trong cái không sở hữu, không, viễn ly, không tự tánh của nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, đại Bồ-tát đời trước, đời sau, đời giữa, đều chẳng thể nắm bắt được.

Xá Lợi Tử! Chẳng phải cái không sở hữu của nhãn giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra có sự sai khác; chẳng phải cái không của nhãn giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra có sự sai khác; chẳng phải cái viễn ly của nhãn giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra có sự sai khác; chẳng phải cái không tự tánh của nhãn giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra có sự sai khác. Chẳng phải đại Bồ-tát đời trước, có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ-tát đời sau, có sự sai khác; chẳng phải đại Bồ-tát đời giữa, có sự sai khác.

Xá Lợi Tử! Hoặc cái không sở hữu của nhãn giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, hoặc cái không của nhãn giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, hoặc cái viễn ly của nhãn giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, hoặc cái không tự tánh của nhãn giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, hoặc đại Bồ-tát đời trước, hoặc đại Bồ-tát đời sau, hoặc đại Bồ-tát đời giữa, tất cả pháp như vậy, đều không hai, không có hai phần.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, nên tôi nói là đại Bồ-tát đời trước, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát đời sau, chẳng thể nắm bắt được, đại Bồ-tát đời giữa, chẳng thể nắm bắt được.

 

Quyển thứ 61

Hết

 

 

 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/07/2020(Xem: 9331)
Bài viết này để bổ túc cho một băng video chủ đề Tuệ Trung Thượng Sỹ trên YouTube (1) do nhóm Wisdom Today thực hiện, trong đó Tiến sĩ Phật học Nguyễn Thúy Loan đã phỏng vấn Hòa Thượng Thích Phước Tịnh và bản thân người viết là Cư sĩ Nguyên Giác. Lý do bổ túc vì lời nói của người viết vốn vụng về, không có khả năng diễn ý minh bạch như chữ viết.
28/06/2020(Xem: 23522)
Bức tượng được sơn son thếp vàng, tạc hình ảnh một nhà vua mặc triều phục đang quỳ gập người, hai bàn tay cung kính mở rộng để trên mặt đất, còn bên trên lưng là một pho tượng Phật cao lớn ngồi trên tòa sen nằm đè lên.
25/06/2020(Xem: 5573)
Mùa Đại dịch 2020 này đã phá vỡ bao ước nguyện thầm kín nung nấu trong tôi . Đó là được đảnh lễ và tham vấn HT Thích Như Điển như lời Ngài hứa khả , sau khi tôi được chia sẻ vài cảm nghĩ của mình qua tác phẩm của Ngài “MỐI TƠ VƯƠNG CỦA HUYỀN TRÂN CÔNG CHÚA “. Những tưởng thời gian sẽ nhanh chóng trôi qua và cái ngày quan trọng ấy càng lúc càng đến gần hơn nhưng nay .... được thông báo sẽ được dời đến tháng 10/2021! Thật không ai có thể đoán được điều gì xảy ra vào năm 2020 này, và dường như Chư Hộ Pháp muốn tặng tôi một món quà ân thưởng để bù lại niềm hụt hẫng ấy và chắc chắn là để thưởng cho thiện niệm tôi luôn hướng về Ôn Phương Trượng như một danh Tăng và một điểm khá đặc biệt là không thể quên ngày sinh nhật Ngài khi đã hai lần chúc mừng Khánh Tuế ( 2018 -2019 ) . Chính vì thế khi xem lịch 28/6/2020 đúng là Khánh Tuế lần thứ 72 của Ngài bổng nhiên trong tôi ước nguyện đã khởi lên “ Bằng cách nào để viết hoặc một bài văn hay một bài thơ vào lúc này vừa có thể chúc mừng với tấ
25/06/2020(Xem: 8522)
HT tên thật là Phạm Văn Nghi, húy là Thượng Đồng Hạ Viên, tự là Thông Lợi, hiệu là Viên Đức. Sinh vào giờ Tỵ ngày 26 tháng chạp năm Nhâm Thân(1932). Quán làng Định Trung, xã An Định, Quận Tuy An, Tỉnh Phú Yên. Thân phụ của Hòa Thượng là cụ ông Phạm Giản. một bậc túc nho thời bấy giờ. Thân mẫu là cụ bà Ung thị Bình, một Phật tử thuần thành từ hồi bé. Ông nội của Hòa Thượng không những là một kẻ sĩ mà còn là một chiến sĩ trong phong trào Cần Vương kháng Pháp. Hòa Thượng chào đời và lớn lên ở Phú Yên một nơi địa linh nhân kiệt, không những vì đời đã sản sinh ra nhiều anh hùng liệt sĩ, mà về Đạo cũng là nơi đời đời nối tiếp xuất sinh nhiều vị Tăng tài kế truyền hoằng hóa giáo pháp của đức Thế Tôn. Non nước Phú Yên như phần nào nói cho ta điều đó. Ngoài dòng sông Ba yên bình chảy ra biển cả, Phú Yên còn có hai ngọn núi là là hòn Chuông và hòn Mõ, hình giống như hai pháp khí tu hành của nhà Phật , vì vậy vua Minh Mạng khi nói về đất Phú Yên đã khen ngợi:
20/06/2020(Xem: 9412)
Trưởng lão Hòa thượng thượng NGUYÊN hạ TỊNH tự LƯU THANH Đạo Hiệu NGÂN BÌNH. ( 1941-2020 ). Thuận thế vô thường thu thần viên tịch vào lúc 11h30 ngày 19 tháng 06 năm 2020 (nhằm ngày 28 tháng tư nhuận năm Canh tý). Trụ thế : 80 năm Hạ lạp : 55 năm Tang lễ được cử hành theo chương trình như sau: - Lễ cung thỉnh nhục thân nhập kim quan: vào lúc 17h00 ngày 20 tháng 06 năm 2020 (nhằm ngày 29 tháng 04 nhuận năm Canh tý). - Kim quan tôn trí tại Tổ Đình Trúc Lâm, Tp. Huế. - Lễ phụng tống kim quan nhập bảo tháp tại Tổ Đình Trúc Lâm cử hành vào lúc 6h00 ngày 24 tháng 06 năm 2020 (nhằm ngày 04 tháng 05 năm Canh tý).
10/06/2020(Xem: 6648)
Thân thế: Hòa Thượng Thích Minh Đạo, thế danh là Dương Văn Tam, Pháp danh Trừng Hữu, pháp tự Thiện Lộc, pháp hiệu Chơn Châu, sinh năm Quý Sửu 1913. Nguyên Quán tại Huyện Phú Quý ( thường gọi là đảo Phú Quý) Ngài theo song thân vào Xã Phan Rí Cửa, Quận Hòa Đa ( nay thuộc Huyện Tuy Phong) Tỉnh Bình Thuận để lập nghiệp.
26/05/2020(Xem: 8111)
Trước lúc nhập Niết bàn, đức Thế Tôn nói kinh Di giáo, tiên liệu cả hằng nghìn năm sau nên lời dạy của Ngài vô cùng thậm thâm vi diệu. Mỗi lời mỗi ý chứa đựng biết bao tình lý, mỗi lần đọc chúng ta nhận cảm trọn vẹn lời di giáo tha thiết của Ngài. Lời đi huấn của Hòa thượng Đôn Hậu để lại cho Thất chúng đệ tử mà có lẽ cũng cho tất cả chúng ta. Đến Linh Mụ không ai là không đọc lời Di Huấn này, kể cả những người không biết chữ cũng lắng tai nghe nhờ người khác đọc giúp. Điều đáng quan tâm là lời Di huấn này Hòa thượng viết từ năm 1988, bốn năm trước khi viên tịch, Ngài đã nhìn thấy rất rõ ràng những gì có thể xảy ra trong Tang lễ của Ngài và cần huấn thị lại cho minh bạch, và, cũng chính vì “Lời di huấn” này mà:
06/05/2020(Xem: 11570)
Tiểu sử Đức Đệ Nhất Tăng Thống GHPGVNTN – Đại Lão Hòa Thượng THÍCH TỊNH KHIẾT , Đệ nhất Tăng Thống - HT Thích Tịnh Khiết, Hòa Thượng thế danh là NGUYỄN VĂN KỈNH. Ngài sinh ngày 17 tháng 11 năm Tân Mão (nhằm ngày 17.12.1891)(1) tại làng Dưỡng Mong Thượng, tổng Phú Mỹ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Nay là thôn Dưỡng Mong, xã Phú Mỹ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ của ngài là cụ Nguyễn Văn Toán, thân mẫu là cụ bà Tôn Nữ Thị Lý. Ngài là con thứ hai(2). Bào huynh là Hòa Thượng Trừng Hương – Tịnh Hạnh (chúng tôi chưa tìm thấy thế danh của ngài). Hòa Thượng Tịnh Hạnh sinh năm Kỷ Sửu, 1889; xuất gia năm Ất Tỵ, 1905; thọ Cụ-túc giới năm Canh Tuất, 1910; trụ trì chùa Tường Vân, Huế; viên tịch năm Quý Dậu, 1933.
06/05/2020(Xem: 18170)
Công đức hoằng khai nhiếp hóa của Ngài cao hơn núi cao Tấm lòng từ bi độ lượng của Ngài sâu hơn biển sâu Chữ nghĩa của trần gian làm sao phô diễn
05/05/2020(Xem: 24517)
Như Áng Mây Bay là một phần thành quả của sự huân tập ý đạo, là một phần của cuộc hành trình đầy mạo hiểm mà ta gọi là kiếp người.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]