Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 422: Phẩm Vô Biên Tế 03

21/07/201509:47(Xem: 13533)
Quyển 422: Phẩm Vô Biên Tế 03

Tập 08

 Quyển 422

 Phẩm Vô Biên Tế 03

Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm
Diễn đọc: Cư Sĩ Chánh Trí


 

 

 

- Này Xá-lợi Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa, tánh của bố thí Ba-la-mật-đa là không, bố thí Ba-la-mật-đa đối với bố thí Ba-la-mật-đa vô sở hữu bất khả đắc. Bố thí Ba-la-mật-đa đối với tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa vô sở hữu bất khả đắc. Tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa trong bố thí Ba-la-mật-đa cũng vô sở hữu bất khả đắc. Cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tánh của Bát-nhã Ba-la-mật-đa là không, Bát-nhã Ba-la-mật-đa đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa vô sở hữu bất khả đắc. Bát-nhã Ba-la-mật-đa đối với bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự Ba-la-mật-đa vô sở hữu bất khả đắc. Bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự Ba-la-mật-đa trong Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Pháp không nội, tánh của pháp không nội là không, pháp không nội đối với pháp không nội vô sở hữu bất khả đắc. Pháp không nội đối với pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tán vô tán, pháp không bổn tánh, pháp không tự cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không vô tánh, pháp không tự tánh, pháp không vô tánh tự tánh vô sở hữu bất khả đắc. Pháp không ngoại cho đến pháp không vô tánh tự tánh trong pháp không nội cũng vô sở hữu bất khả đắc. Như vậy, cho đến pháp không vô tánh tự tánh, tánh của pháp không vô tánh tự tánh là không, pháp không vô tánh tự tánh đối với pháp không vô tánh tự tánh vô sở hữu bất khả đắc. Pháp không vô tánh tự tánh đối với pháp không nội cho đến pháp không tự tánh vô sở hữu bất khả đắc. Pháp không nội cho đến pháp không tự tánh trong pháp không vô tánh tự tánh cũng vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Bốn niệm trụ, tánh của bốn niệm trụ là không, bốn niệm trụ đối với bốn niệm trụ vô sở hữu bất khả đắc. Bốn niệm trụ đối với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo vô sở hữu bất khả đắc. Bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo trong bốn niệm trụ cũng vô sở hữu bất khả đắc. Cho đến tám chi thánh đạo, tánh của tám chi thánh đạo là không, tám chi thánh đạo đối với tám chi thánh đạo vô sở hữu bất khả đắc. Tám chi thánh đạo đối với bốn niệm trụ cho đến bảy chi đẳng giác vô sở hữu bất khả đắc. Bốn niệm trụ cho đến bảy chi đẳng giác trong tám chi thánh đạo cũng vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Như vậy, cho đến mười lực của Phật, tánh mười lực của Phật là không, mười lực của Phật đối với mười lực của Phật vô sở hữu bất khả đắc. Mười lực của Phật đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng vô sở hữu bất khả đắc. Bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng trong mười lực của Phật cũng vô sở hữu bất khả đắc. Như vậy, cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, tánh của mười tám pháp Phật bất cộng là không, mười tám pháp Phật bất cộng đối với mười tám pháp Phật bất cộng vô sở hữu bất khả đắc. Mười tám pháp Phật bất cộng đối với mười lực của Phật cho đến đại xả vô sở hữu bất khả đắc. Mười lực của Phật cho đến đại xả trong mười tám pháp Phật bất cộng cũng vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Tất cả môn Tam-ma-địa, tánh của tất cả môn Tam-ma-địa là không, tất cả môn Tam-ma-địa đối với tất cả môn Tam-ma-địa vô sở hữu bất khả đắc. Tất cả môn Tam-ma-địa đối với tất cả môn Đà-la-ni vô sở hữu bất khả đắc. Tất cả môn Đà-la-ni trong tất cả môn Tam-ma-địa cũng vô sở hữu bất khả đắc. Tất cả môn Đà-la-ni, tánh của tất cả môn Đà-la-ni là không, tất cả môn Đà-la-ni đối với tất cả môn Đà-la-ni vô sở hữu bất khả đắc. Tất cả môn Đà-la-ni đối với tất cả môn Tam-ma-địa vô sở hữu bất khả đắc. Tất cả môn Tam-ma-địa trong tất cả môn Đà-la-ni cũng vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Pháp Chủng tánh, tánh của pháp Chủng tánh là không, pháp Chủng tánh đối với pháp Chủng tánh vô sở hữu bất khả đắc. Pháp Chủng tánh đối với pháp thứ tám, Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai vô sở hữu bất khả đắc. Pháp thứ tám cho đến Như Lai trong pháp Chủng tánh cũng vô sở hữu bất khả đắc. Như vậy, cho đến pháp Như Lai, tánh của pháp Như Lai là không, pháp Như Lai đối với pháp Như Lai vô sở hữu bất khả đắc. Pháp Như Lai đối với pháp Chủng tánh cho đến Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc. Pháp Chủng tánh cho đến Bồ-tát trong pháp Như Lai cũng vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Tịnh quán địa, tánh của tịnh quán địa là không, Tịnh quán địa đối với Tịnh quán địa vô sở hữu bất khả đắc. Tịnh quán địa đối với Chủng tánh địa, Đệ bát địa, Cụ kiến địa, Bạc địa, Ly dục địa, Dĩ biện địa, Độc giác địa, Bồ-tát địa, Như Lai địa vô sở hữu bất khả đắc. Chủng tánh địa cho đến Như Lai địa trong Tịnh quán địa cũng vô sở hữu bất khả đắc. Như vậy, cho đến Như Lai địa, tánh của Như Lai địa là không, Như Lai địa đối với Như Lai địa vô sở hữu bất khả đắc. Như Lai địa đối với Tịnh quán địa cho đến Bồ-tát địa trong Như Lai địa cũng vô sở hữu bất khả đắc. Tịnh quán địa cho đến Bồ-tát địa trong Như Lai địa cũng vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Cực hỷ địa, tánh của Cực hỷ địa là không, Cực hỷ địa đối với Cực hỷ địa vô sở hữu bất khả đắc. Cực hỷ địa đối với Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm tuệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện tuệ địa, Pháp vân địa vô sở hữu bất khả đắc; Ly cấu địa cho đến Pháp vân địa trong Cực hỷ địa cũng vô sở hữu bất khả đắc. Như vậy, cho đến Pháp vân địa, tánh của Pháp vân địa là không, Pháp vân địa đối với Pháp vân địa vô sở hữu bất khả đắc. Pháp vân địa đối với Cực hỷ địa cho đến Thiện tuệ địa vô sở hữu bất khả đắc. Cực hỷ địa cho đến Thiện tuệ địa trong Pháp vân địa cũng vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Trí nhất thiết, tánh của trí nhất thiết là không, trí nhất thiết đối với trí nhất thiết vô sở hữu bất khả đắc. Trí nhất thiết đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng vô sở hữu bất khả đắc. Trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng trong trí nhất thiết cũng vô sở hữu bất khả đắc. Trí đạo tướng, tánh của trí đạo tướng là không, trí đạo tướng đối với trí đạo tướng vô sở hữu bất khả đắc. Trí đạo tướng đối với trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng vô sở hữu bất khả đắc. Trí nhất thiết, trí nhất thiết tướng trong trí đạo tướng cũng vô sở hữu bất khả đắc. Trí nhất thiết tướng, tánh của trí nhất thiết tướng là không, trí nhất thiết tướng đối với trí nhất thiết tướng vô sở hữu bất khả đắc. Trí nhất thiết tướng đối với trí nhất thiết, trí đạo tướng vô sở hữu bất khả đắc. Trí nhất thiết, trí đạo tướng trong trí nhất thiết tướng cũng vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Dự lưu, tánh của Dự lưu là không, Dự lưu đối với Dự lưu vô sở hữu bất khả đắc. Dự lưu đối với Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai vô sở hữu bất khả đắc. Nhất lai cho đến Như Lai trong Dự lưu cũng vô sở hữu bất khả đắc. Như vậy, cho đến Như Lai, tánh của Như Lai là không, Như Lai đối với Như Lai vô sở hữu bất khả đắc. Như Lai đối với Dự lưu cho đến Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc. Dự lưu cho đến Bồ-tát trong Như Lai cũng vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Đại Bồ-tát, tánh của Đại Bồ-tát là không, Đại Bồ-tát đối với Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc. Đại Bồ-tát đối với việc dạy bảo, truyền trao Bát-nhã Ba-la-mật-đa vô sở hữu bất khả đắc. Việc dạy bảo, truyền trao Bát-nhã Ba-la-mật-đa trong Đại Bồ-tát cũng vô sở hữu bất khả đắc. Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tánh của Bát-nhã Ba-la-mật-đa là không, Bát-nhã Ba-la-mật-đa đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa vô sở hữu bất khả đắc. Bát-nhã Ba-la-mật-đa đối với việc dạy bảo, truyền trao của Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc. Việc dạy bảo, truyền trao của Đại Bồ-tát trong Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng vô sở hữu bất khả đắc. Dạy bảo, truyền trao, tánh của dạy bảo, truyền trao là không, dạy bảo, truyền trao đối với dạy bảo, truyền trao vô sở hữu bất khả đắc. Dạy bảo, truyền trao đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát vô sở hữu bất khả đắc. Bát-nhã Ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát trong dạy bảo, truyền trao cũng vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Đối với tất cả pháp này tôi đem tất cả loại ở mọi nơi, mọi lúc mong cầu Đại Bồ-tát đều vô sở hữu, cũng bất khả đắc. Vì sao? Vì tự tánh là không.

Này Xá-lợi Tử! Do nhân duyên này tôi nói: Đối với tất cả pháp này, tôi đem tất cả loại ở mọi nơi, mọi lúc mong cầu các Đại Bồ-tát hoàn toàn bất khả đắc, làm thế nào bảo tôi đem Bát-nhã Ba-la-mật-đa dạy bảo, truyền trao cho các Đại Bồ-tát được.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Tôn giả đã hỏi do duyên nào nên nói: Các Đại Bồ-tát, các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh hoàn toàn không có tự tánh?

Này Xá-lợi Tử! Vì tên các Đại Bồ-tát chỉ là tạm mượn mà có.

Khi ấy, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Do duyên nào nên nói: Tên các Đại Bồ-tát chỉ là tạm mượn mà có?

Thiện Hiện đáp:

- Xá-lợi Tử! Như tên sắc chỉ là tạm mượn mà có, tên thọ, tưởng, hành, thức cũng chỉ là tạm mượn mà có. Vì sao? Vì sắc chẳng phải là tên, tên chẳng phải là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải là tên, tên chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức. Trong sắc v.v... không có tên, trong tên không có sắc v.v... Chẳng hợp, chẳng tan, chỉ là giả lập. Vì sao? Vì tự tánh của sắc v.v... và tên đều là không. Trong tự tánh không, hoặc sắc v.v... hoặc tên đều vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Tên các Đại Bồ-tát cũng như vậy, chỉ là tạm mượn mà có. Do đây nên nói các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh hoàn toàn không có tự tánh.

Này Xá-lợi Tử! Như tên của nhãn xứ chỉ là tạm mượn mà có, tên nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng chỉ là tạm mượn mà có. Vì sao? Vì nhãn xứ chẳng phải là tên, tên chẳng phải là nhãn xứ. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng phải là tên, tên chẳng phải là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Trong nhãn xứ v.v... không có tên, trong tên không có nhãn xứ v.v... Chẳng hợp, chẳng tan, chỉ là giả lập. Vì sao? Vì tự tánh nhãn xứ v.v... và tên đều là không. Trong tự tánh không, hoặc nhãn xứ v.v... hoặc tên đều vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Tên Đại Bồ-tát cũng như vậy, chỉ là tạm mượn mà có. Do đây nên nói các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh hoàn toàn không có tự tánh.

Này Xá-lợi Tử! Như tên của sắc xứ chỉ là tạm mượn mà có, tên thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng chỉ là tạm mượn mà có. Vì sao? Vì sắc xứ chẳng phải là tên, tên chẳng phải là sắc xứ. Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng phải là tên, tên chẳng phải là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Trong sắc xứ v.v... không có tên, trong tên không có sắc xứ v.v... Chẳng hợp, chẳng tan, chỉ là giả lập. Vì sao? Vì tự tánh sắc xứ v.v... và tên đều là không. Trong tự tánh không, hoặc sắc xứ v.v... hoặc tên đều vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Tên Đại Bồ-tát cũng như vậy, chỉ là tạm mượn mà có. Do đây nên nói các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh hoàn toàn không có tự tánh.

Này Xá-lợi Tử! Như tên của nhãn giới chỉ là tạm mượn mà có, tên nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng chỉ là tạm mượn mà có. Vì sao? Vì nhãn giới chẳng phải là tên, tên chẳng phải là nhãn giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới chẳng phải là tên, tên chẳng phải là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới. Trong nhãn giới v.v... không có tên, trong tên không có nhãn giới v.v... Chẳng hợp, chẳng tan, chỉ là giả lập. Vì sao? Vì tự tánh nhãn giới v.v... và tên đều là không. Trong tự tánh không, hoặc nhãn giới v.v... hoặc tên đều vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Tên Đại Bồ-tát cũng như vậy, chỉ là tạm mượn mà có. Do đây nên nói các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh hoàn toàn không có tự tánh.

Này Xá-lợi Tử! Như tên của sắc giới chỉ là tạm mượn mà có, tên thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng chỉ là tạm mượn mà có. Vì sao? Vì sắc giới chẳng phải là tên, tên chẳng phải là sắc giới. Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới chẳng phải là tên, tên chẳng phải là thanh, hương, vị, xúc, pháp giới. Trong sắc giới v.v... không có tên, trong tên không có sắc giới v.v... Chẳng hợp, chẳng tan, chỉ là giả lập. Vì sao? Vì tự tánh sắc giới v.v... và tên đều là không. Trong tự tánh không, hoặc sắc giới v.v... hoặc tên đều vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Tên Đại Bồ-tát cũng như vậy, chỉ là tạm mượn mà có. Do đây nên nói các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh hoàn toàn không có tự tánh.

Này Xá-lợi Tử! Như tên của nhãn thức giới chỉ là tạm mượn mà có, tên nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng chỉ là tạm mượn mà có. Vì sao? Vì nhãn thức giới chẳng phải là tên, tên chẳng phải là nhãn thức giới. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới chẳng phải là tên, tên chẳng phải là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới. Trong nhãn thức giới v.v... không có tên, trong tên không có nhãn thức giới v.v... Chẳng hợp, chẳng tan, chỉ là giả lập. Vì sao? Vì tự tánh nhãn thức giới v.v... và tên đều là không. Trong tự tánh không, hoặc nhãn thức giới v.v... hoặc tên đều vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Tên Đại Bồ-tát cũng như vậy, chỉ là tạm mượn mà có. Do đây nên nói các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh hoàn toàn không có tự tánh.

Này Xá-lợi Tử! Như tên của nhãn xúc chỉ là tạm mượn mà có, tên nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng chỉ là tạm mượn mà có. Vì sao? Vì nhãn xúc chẳng phải là tên, tên chẳng phải là nhãn xúc. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc chẳng phải là tên, tên chẳng phải là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc. Trong nhãn xúc v.v... không có tên, trong tên không có nhãn xúc v.v... Chẳng hợp, chẳng tan, chỉ là giả lập. Vì sao? Vì tự tánh nhãn xúc v.v... và tên đều là không. Trong tự tánh không, hoặc nhãn xúc v.v... hoặc tên đều vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Tên Đại Bồ-tát cũng như vậy, chỉ là tạm mượn mà có. Do đây nên nói các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh hoàn toàn không có tự tánh.

Này Xá-lợi Tử! Như tên của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chỉ là tạm mượn mà có, tên các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cũng chỉ là tạm mượn mà có. Vì sao? Vì Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng phải là tên, tên chẳng phải là các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra. Các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra chẳng phải là tên, tên chẳng phải là các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra. Trong các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra v.v... không có tên. Trong tên không có các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra v.v... Chẳng hợp, chẳng tan, chỉ là giả lập. Vì sao? Vì tự tánh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra v.v... và tên đều là không. Trong tự tánh không, hoặc các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra v.v... hoặc tên đều vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Tên Đại Bồ-tát cũng như vậy, chỉ là tạm mượn mà có. Do đây nên nói các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh hoàn toàn không có tự tánh.

Này Xá-lợi Tử! Như tên của bố thí Ba-la-mật-đa chỉ là tạm mượn mà có. Tên tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng chỉ tạm mượn mà có. Vì sao? Vì bố thí Ba-la-mật-đa chẳng phải tên, tên chẳng phải bố thí Ba-la-mật-đa; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự Bát-nhã Ba-la-mật-đa chẳng phải tên, tên chẳng phải tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Trong bố thí Ba-la-mật-đa v.v… không có tên, trong tên không có bố thí Ba-la-mật-đa v.v… Chẳng hợp, chẳng tan, chỉ là giả lập. Vì sao? Vì bố thí Ba-la-mật-đa cùng với tên tự tánh đều là không. Trong tự tánh không, hoặc bố thí Ba-la-mật-đa v.v… hoặc tên đều vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Tên Đại Bồ-tát cũng như vậy, chỉ là tạm mượn mà có. Do đây nên nói, các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh, hoàn toàn không có tự tánh.

Này Xá-lợi Tử! Như tên của pháp không nội, chỉ là tạm mượn mà có. Tên của pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tán vô tán, pháp không bổn tánh, pháp không tự cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không vô tánh, pháp không tự tánh, pháp không vô tánh tự tánh cũng chỉ là tạm mượn mà có. Vì sao? Vì Pháp không nội chẳng phải là tên, tên chẳng phải là pháp không nội. Pháp không ngoại cho đến pháp không vô tánh tự tánh chẳng phải là tên, tên chẳng phải là pháp không ngoại cho đến pháp không vô tánh tự tánh. Trong pháp không nội v.v... không có tên, trong tên không có pháp không nội v.v... Chẳng hợp, chẳng tan, chỉ là giả lập. Vì sao? Vì tự tánh pháp không nội v.v... và tên đều là không. Trong tự tánh không, hoặc pháp không nội v.v... hoặc tên đều vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Tên Đại Bồ-tát cũng như vậy, chỉ là tạm mượn mà có. Do đây nên nói, các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh hoàn toàn không có tự tánh.

Này Xá-lợi Tử! Như tên của bốn niệm trụ chỉ là tạm mượn mà có; tên bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo cũng chỉ là tạm mượn mà có. Vì sao? Vì Bốn niệm trụ chẳng phải là tên, tên chẳng phải là bốn niệm trụ. Bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo chẳng phải là tên, tên chẳng phải là bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo. Trong bốn niệm trụ v.v... không có tên, trong tên không có bốn niệm trụ v.v... Chẳng hợp, chẳng tan, chỉ là giả lập. Vì sao? Vì tự tánh bốn niệm trụ v.v... và tên đều là không. Trong tự tánh không, hoặc bốn niệm trụ v.v... hoặc tên đều vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Tên Đại Bồ-tát cũng như vậy, chỉ là tạm mượn mà có. Do đây nên nói, các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh hoàn toàn không có tự tánh.

Này Xá-lợi Tử! Như vậy, cho đến như tên mười lực của Phật chỉ là tạm mượn mà có; tên bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng chỉ là tạm mượn mà có. Vì sao? Vì mười lực của Phật chẳng phải là tên, tên chẳng phải là mười lực của Phật. Bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải là tên, tên chẳng phải là bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Trong mười lực của Phật v.v... không có tên, trong tên không có mười lực của Phật v.v... Chẳng hợp, chẳng tan, chỉ là giả lập. Vì sao? Vì tự tánh mười lực của Phật v.v... và tên đều là không. Trong tự tánh không, hoặc mười lực của Phật v.v... hoặc tên đều vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Tên Đại Bồ-tát cũng như vậy, chỉ là tạm mượn mà có. Do đây nên nói, các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh hoàn toàn không có tự tánh.

Này Xá-lợi Tử! Như tên của tất cả môn Tam-ma-địa chỉ là tạm mượn mà có, tên tất cả môn Đà-la-ni cũng chỉ là tạm mượn mà có. Vì sao? Vì tất cả môn Tam-ma-địa chẳng phải là tên, tên chẳng phải là tất cả môn Tam-ma-địa. Tất cả môn Đà-la-ni chẳng phải là tên, tên chẳng phải là tất cả môn Đà-la-ni. Trong tất cả môn Tam-ma-địa v.v... không có tên, trong tên không có tất cả môn Tam-ma-địa v.v... Chẳng hợp, chẳng tan, chỉ là giả lập. Vì sao? Vì tự tánh tất cả môn Tam-ma-địa v.v... và tên đều là không. Trong tự tánh không, hoặc tất cả môn Tam-ma-địa v.v... hoặc tên đều vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Tên Đại Bồ-tát cũng như vậy, chỉ là tạm mượn mà có. Do đây nên nói các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh hoàn toàn không có tự tánh.

Này Xá-lợi Tử! Cho đến như tên trí nhất thiết chỉ là tạm mượn mà có; tên trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng chỉ là tạm mượn mà có. Vì sao? Vì trí nhất thiết chẳng phải là tên, tên chẳng phải là trí nhất thiết. Trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng phải là tên, tên chẳng phải là trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Trong trí nhất thiết v.v... không có tên, trong tên không có trí nhất thiết v.v... Chẳng hợp, chẳng tan, chỉ là giả lập. Vì sao? Vì tự tánh trí nhất thiết v.v... và tên đều là không. Trong tự tánh không, hoặc trí nhất thiết v.v... hoặc tên đều vô sở hữu bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Tên Đại Bồ-tát cũng như vậy, chỉ là tạm mượn mà có. Do đây nên nói các Đại Bồ-tát chỉ có giả danh hoàn toàn không có tự tánh.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Theo lời Tôn giả hỏi:

Do duyên nào nên nói: Như ngã v.v... rốt ráo không sanh, chỉ có giả danh hoàn toàn không có tự tánh.

Này Xá-lợi Tử! Ngã rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh, cho đến người thấy cũng rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh?

Này Xá-lợi Tử! Sắc rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh; thọ, tưởng, hành, thức cũng rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh?

Này Xá-lợi Tử! Nhãn xứ rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh?

Này Xá-lợi Tử! Sắc xứ rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh?

Này Xá-lợi Tử! Nhãn giới rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh?

Này Xá-lợi Tử! Sắc giới rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh; thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh?

Này Xá-lợi Tử! Nhãn thức giới rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh?

Này Xá-lợi Tử! Nhãn xúc rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh?

Này Xá-lợi Tử! Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh; các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cũng rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh?

Này Xá-lợi Tử! Bố thí Ba-la-mật-đa rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh?

Này Xá-lợi Tử! Pháp không nội rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh; pháp không ngoại cho đến pháp không vô tánh tự tánh cũng rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh?

Này Xá-lợi Tử! Bốn niệm trụ rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh; bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo cũng rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh?

Này Xá-lợi Tử! Như vậy, cho đến mười lực của Phật rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh; bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh?

Này Xá-lợi Tử! Tất cả môn Tam-ma-địa rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh; tất cả môn Đà-la-ni cũng rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh?

Này Xá-lợi Tử! Cho đến Thanh văn thừa rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh; Độc giác thừa, Đại thừa cũng rốt ráo vô sở hữu bất khả đắc, làm sao có sanh?

Này Xá-lợi Tử! Do nhân duyên này tôi nói: Như ngã v.v... rốt ráo không sanh, chỉ có giả danh hoàn toàn không có tự tánh.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Theo lời Tôn giả hỏi:

Do duyên nào nên nói: Các pháp cũng vậy, rốt ráo không sanh, chỉ có giả danh hoàn toàn không có tự tánh.

Này Xá-lợi Tử! Tự tánh các pháp hoàn toàn không hòa hợp. Vì sao? Vì tự tánh pháp có hòa hợp là không.

Bấy giờ, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Tự tánh pháp nào hoàn toàn không có hòa hợp?

Thiện Hiện đáp:

- Xá-lợi Tử! Tự tánh của sắc hoàn toàn không có hòa hợp; tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức cũng hoàn toàn không có hòa hợp. Tự tánh của nhãn xứ hoàn toàn không có hòa hợp; tự tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng hoàn toàn không có hòa hợp. Tự tánh của sắc xứ hoàn toàn không có hòa hợp; tự tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng hoàn toàn không có hòa hợp. Tự tánh của nhãn giới hoàn toàn không có hòa hợp; tự tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng hoàn toàn không có hòa hợp.

Tự tánh của Sắc giới hoàn toàn không có hòa hợp; tự tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng hoàn toàn không có hòa hợp. Tự tánh của nhãn thức giới hoàn toàn không có hòa hợp; tự tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng hoàn toàn không có hòa hợp. Tự tánh của nhãn xúc hoàn toàn không có hòa hợp; tự tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng hoàn toàn không có hòa hợp. Tự tánh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoàn toàn không có hòa hợp; tự tánh của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cũng hoàn toàn không có hòa hợp. Tự tánh của bố thí Ba-la-mật-đa hoàn toàn không có hòa hợp; tự tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng hoàn toàn không có hòa hợp. Tự tánh của bốn niệm trụ hoàn toàn không có hòa hợp; tự tánh của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo cũng hoàn toàn không có hòa hợp. Cho đến tự tánh mười lực của Phật hoàn toàn không có hòa hợp; tự tánh của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng hoàn toàn không có hòa hợp. Cho đến tự tánh của Thanh văn thừa hoàn toàn không có hòa hợp; tự tánh của Độc giác thừa, Đại thừa cũng hoàn toàn không có hòa hợp.

Này Xá-lợi Tử! Do nhân duyên này tôi nói như vầy: Các pháp cũng vậy, rốt ráo không sanh, chỉ có giả danh hoàn toàn không có tự tánh.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Các pháp chẳng phải thường cũng không có chỗ đi.

Bấy giờ, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Pháp nào chẳng phải thường cũng không có chỗ đi?

Thiện Hiện đáp:

- Này Xá-lợi Tử! Sắc chẳng phải thường cũng không có chỗ đi, thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải thường cũng không có chỗ đi. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Vì tự tánh pháp nào chẳng thường là cùng tận.

Này Xá-lợi Tử! Do đây nên nói pháp nào chẳng phải thường cũng không có chỗ đi.

Này Xá-lợi Tử! Pháp hữu vi chẳng phải thường cũng không có chỗ đi, pháp vô vi chẳng phải thường cũng không có chỗ đi. Pháp hữu lậu chẳng phải thường cũng không có chỗ đi, pháp vô lậu chẳng phải thường cũng không có chỗ đi. Pháp thiện chẳng phải thường cũng không có chỗ đi, pháp chẳng thiện chẳng phải thường cũng không có chỗ đi. Pháp hữu ký chẳng phải thường cũng không có chỗ đi, pháp vô ký chẳng phải thường cũng không có chỗ đi. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Vì tự tánh pháp nào chẳng thường là cùng tận.

Này Xá-lợi Tử! Do đây nên nói nếu pháp chẳng phải thường cũng không có chỗ đi.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Các pháp chẳng thường cũng không hoại diệt.

Bấy giờ, Xá-lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- Pháp nào chẳng thường cũng không hoại diệt?

Thiện Hiện đáp:

- Này Xá-lợi Tử! Sắc chẳng thường cũng không hoại diệt, thọ, tưởng, hành, thức chẳng thường cũng không hoại diệt. Vì sao? Vì bản tánh như vậy.

Này Xá-lợi Tử! Pháp hữu vi chẳng thường cũng không hoại diệt, pháp vô vi chẳng thường cũng không hoại diệt. Pháp hữu lậu chẳng thường cũng không hoại diệt, pháp vô lậu chẳng thường cũng không hoại diệt. Pháp thiện chẳng thường cũng không hoại diệt, pháp chẳng phải thiện chẳng thường cũng không hoại diệt. Pháp hữu ký chẳng thường cũng không hoại diệt, pháp vô ký chẳng thường cũng không hoại diệt. Vì sao? Vì bản tánh như vậy.

Này Xá-lợi Tử! Do nhân duyên này tôi nói: Các pháp cũng vậy, rốt ráo không sanh, chỉ có giả danh hoàn toàn không có tự tánh.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Theo lời Tôn giả hỏi:

Do duyên nào nên nói: Những sắc nào rốt ráo không sanh, những thọ, tưởng, hành, thức nào rốt ráo không sanh, cho đến những Thanh văn thừa nào rốt ráo không sanh; những Độc giác thừa, Đại thừa nào rốt ráo không sanh.

Này Xá-lợi Tử! Bản tánh tất cả sắc không sanh, bản tánh tất cả thọ, tưởng, hành, thức không sanh. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Tất cả sắc cho đến thức không có sự tạo tác nên không có sự phát sanh. Vì sao? Vì tất cả sắc cho đến thức người tạo tác, người phát khởi bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Cho đến bản tánh tất cả Thanh văn thừa không sanh; bản tánh tất cả Độc giác thừa, Đại thừa không sanh. Vì sao? Này Xá-lợi Tử! Vì tất cả Thanh văn thừa, Độc giác thừa, Đại thừa không có sự tạo tác nên không có sự phát sanh. Vì sao? Vì tất cả Thanh văn thừa, Độc giác thừa, Đại thừa người tạo tác, người phát khởi bất khả đắc.

Này Xá-lợi Tử! Do nhân duyên này nên tôi nói: Những sắc nào rốt ráo không sanh, những thọ, tưởng, hành, thức nào rốt ráo không sanh, cho đến những Thanh văn thừa nào rốt ráo không sanh; những Độc giác thừa, Đại thừa nào rốt ráo không sanh.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Theo lời Tôn giả hỏi:

Do duyên nào nên nói: Nếu rốt ráo không sanh thì không gọi là sắc, cũng không gọi là thọ, tưởng, hành, thức, cho đến nếu rốt ráo không sanh thì không gọi là Thanh văn thừa; cũng không gọi là Độc giác thừa, Đại thừa.

Này Xá-lợi Tử! Bản tánh của sắc là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì không thể lập, hoặc sanh, hoặc diệt, hoặc an trụ, hoặc thay đổi. Do duyên này nên nói: Nếu rốt ráo không sanh thì không gọi là sắc. Vì sao? Vì không chẳng phải sắc.

Này Xá-lợi Tử! Bản tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì không thể lập, hoặc sanh, hoặc diệt, hoặc an trụ, hoặc thay đổi. Do duyên này nên nói: Nếu rốt ráo không sanh thì không gọi là thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì không chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức.

Này Xá-lợi Tử! Cho đến bản tánh của Thanh văn thừa là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì không thể lập, hoặc sanh, hoặc diệt, hoặc an trụ, hoặc thay đổi. Do duyên này nên nói: Nếu rốt ráo không sanh thì không gọi là Thanh văn thừa. Vì sao? Vì không chẳng phải Thanh văn thừa.

Này Xá-lợi Tử! Bản tánh của Độc giác thừa, Đại thừa là không. Nếu bản tánh của pháp là không, thì không thể lập, hoặc sanh, hoặc diệt, hoặc an trụ, hoặc thay đổi. Do duyên này nên nói: Nếu rốt ráo không sanh thì không gọi là Độc giác thừa, Đại thừa. Vì sao? Vì không chẳng phải Độc giác thừa, Đại thừa.

Này Xá-lợi Tử! Do nhân duyên này tôi nói: Nếu rốt ráo không sanh thì không gọi là sắc, cũng không gọi là thọ, tưởng, hành, thức, cho đến nếu rốt ráo không sanh thì không gọi là Thanh văn thừa, cũng không gọi là Độc giác thừa, Đại thừa.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Theo lời Tôn giả hỏi:

Do duyên nào nên nói: Lẽ nào tôi có thể đem Bát-nhã Ba-la-mật-đa rốt ráo không sanh, dạy bảo, truyền trao cho các Đại Bồ-tát rốt ráo không sanh.

Này Xá-lợi Tử! Rốt ráo không sanh tức là Bát-nhã Ba-la-mật-đa, Bát-nhã Ba-la-mật-đa tức rốt ráo không sanh. Vì sao? Vì rốt ráo không sanh và Bát-nhã Ba-la-mật-đa không hai, không hai phần.

Này Xá-lợi Tử! Rốt ráo không sanh tức là Đại Bồ-tát, Đại Bồ-tát tức là rốt ráo không sanh. Vì sao? Vì rốt ráo không sanh và Đại Bồ-tát cũng không hai, không hai phần.

Này Xá-lợi Tử! Do nhân duyên này tôi nói như vầy: Lẽ nào tôi có thể đem Bát-nhã Ba-la-mật-đa rốt ráo không sanh dạy bảo, truyền trao cho các Đại Bồ-tát rốt ráo không sanh.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Theo lời Tôn giả hỏi:

Do duyên nào nên nói: Lìa rốt ráo không sanh cũng không có Đại Bồ-tát có thể hành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không thấy lìa rốt ráo không sanh mà có Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Cũng không thấy lìa rốt ráo không sanh mà có Đại Bồ-tát. Vì sao? Vì hoặc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, hoặc Đại Bồ-tát cùng với rốt ráo không sanh, không hai, không hai chỗ.

Này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không thấy lìa rốt ráo không sanh có sắc, cũng không thấy lìa rốt ráo không sanh có thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì hoặc sắc, hoặc thọ, tưởng, hành, thức cùng với rốt ráo không sanh, không hai, không hai chỗ.

Này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không thấy lìa rốt ráo không sanh có nhãn xứ, cũng không thấy lìa rốt ráo không sanh có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Vì sao? Vì hoặc nhãn xứ, hoặc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cùng với rốt ráo không sanh, không hai, không hai chỗ.

Này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không thấy lìa rốt ráo không sanh có sắc xứ, cũng không thấy lìa rốt ráo không sanh có thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Vì sao? Vì hoặc sắc xứ, hoặc thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cùng với rốt ráo không sanh, không hai, không hai chỗ.

Này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không thấy lìa rốt ráo không sanh có nhãn giới, cũng không thấy lìa rốt ráo không sanh có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới. Vì sao? Vì hoặc nhãn giới, hoặc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cùng với rốt ráo không sanh, không hai, không hai chỗ.

Này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không thấy lìa rốt ráo không sanh có sắc giới, cũng không thấy lìa rốt ráo không sanh có thanh, hương, vị, xúc, pháp giới. Vì sao? Vì hoặc sắc giới, hoặc thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cùng với rốt ráo không sanh, không hai, không hai chỗ.

Này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không thấy lìa rốt ráo không sanh có nhãn thức giới, cũng không thấy lìa rốt ráo không sanh có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới. Vì sao? Vì hoặc nhãn thức giới, hoặc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cùng với rốt ráo không sanh, không hai, không hai chỗ.

Này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không thấy lìa rốt ráo không sanh có nhãn xúc, cũng không thấy lìa rốt ráo không sanh có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc. Vì sao? Vì hoặc nhãn xúc, hoặc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cùng với rốt ráo không sanh, không hai, không hai chỗ.

Này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không thấy lìa rốt ráo không sanh có các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cũng không thấy lìa rốt ráo không sanh có các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì hoặc các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, hoặc các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cùng với rốt ráo không sanh, không hai, không hai chỗ.

Này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không thấy lìa rốt ráo không sanh có bố thí Ba-la-mật-đa; cũng không thấy lìa rốt ráo không sanh có tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì hoặc bố thí Ba-la-mật-đa; hoặc tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa cùng với rốt ráo không sanh, không hai, không hai chỗ.

Này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không thấy lìa rốt ráo không sanh có bốn niệm trụ; cũng không thấy lìa rốt ráo không sanh có bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo. Vì sao? Vì hoặc bốn niệm trụ, hoặc bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo cùng với rốt ráo không sanh, không hai, không hai chỗ.

Này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không thấy lìa rốt ráo không sanh nói rộng cho đến có mười lực của Phật; cũng không thấy lìa rốt ráo không sanh có bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Vì sao? Vì hoặc mười lực của Phật, hoặc bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cùng với rốt ráo không sanh, không hai, không hai chỗ.

Này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không thấy lìa rốt ráo không sanh có tất cả môn Tam-ma-địa, cũng không thấy lìa rốt ráo không sanh có tất cả môn Đà-la-ni. Vì sao? Vì hoặc tất cả môn Tam-ma-địa, hoặc tất cả môn Đà-la-ni cùng với rốt ráo không sanh, không hai, không hai chỗ.

Này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không thấy lìa rốt ráo không sanh có trí nhất thiết; cũng không thấy lìa rốt ráo không sanh có trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Vì sao? Vì hoặc trí nhất thiết; hoặc trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cùng với rốt ráo không sanh, không hai, không hai chỗ.

Này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không thấy lìa rốt ráo không sanh có Thanh văn thừa, cũng không thấy lìa rốt ráo không sanh có Độc giác thừa, Đại thừa. Vì sao? Vì hoặc Thanh văn thừa, hoặc Độc giác thừa, Đại thừa cùng với rốt ráo không sanh, không hai, không hai chỗ.

Này Xá-lợi Tử! Do nhân duyên này tôi nói: Lìa rốt ráo không sanh cũng không có Đại Bồ-tát có thể hành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Lại nữa, này Xá-lợi Tử! Theo lời Tôn giả hỏi:

Do duyên nào nên nói: Đại Bồ-tát nào nghe nói như vậy, tâm không hoang mang, cũng chẳng lo lắng, hối hận, không kinh hãi, sợ sệt. Nên biết Đại Bồ-tát này có thể hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Xá-lợi Tử! Các Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không thấy các pháp có thật có tác dụng, chỉ thấy các pháp như mộng, như huyễn, như tiếng vang, như bóng sáng, như sóng nắng, như ảnh ảo, như thành Càn-thát-bà, như việc biến hóa, tuy hiện ra giống như là có mà thật không có. Nghe nói bản tánh các pháp đều không, sanh tâm rất hoan hỷ, xa lìa hoang mang.

Này Xá-lợi Tử! Do nhân duyên này tôi nói: Đại Bồ-tát nào nghe nói như vậy, tâm không hoang mang, cũng không lo lắng, hối hận, không kinh hãi, không sợ sệt. Nên biết Đại Bồ-tát này có thể hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

 

Quyển thứ 422

Hết

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/09/2013(Xem: 24014)
Trong khuôn khổ của chương trình Giáo dục thường xuyên thuộc ngành y (Continuing Medical Education) của Viện đại học Harvard. Được tổ chức bởi Trường đại học Y khoa Harvard (Harvard Medical School) mà đứng đầu là các Giáo sư danh tiếng như: Christopher Germer, Judy Reiner Platt và Ronald D. Siegel vào các ngày 11 và 12 tháng Chín 2013 tại thính đường lớn của Boston Park Plaza Hotel, với một ban Giảng huấn hùng hậu gồm 14 vị Giáo sư đứng đầu là Thiền sư Thích Nhất Hạnh, sau đó mới tới các vị Giáo sư danh giá như: Lilian Cheung, Alice Domar, Elissa Ely, Christopher Germer, Devon E. Hinton, Judith V. Jordan, Jon Kabat-Zinn, David Leisner, Judy Reiner Platt, Susan M. Pollak, Ronal Siegal, David A. Sieberweig và Barent Walsh.
14/09/2013(Xem: 20501)
Hòa thượng Thích Đạt Đạo, thế danh Huỳnh Văn Hà, sinh năm Tân Mão (1951) tại xã Hạnh Thông, Quận Gò Vấp, tỉnh Gia Định, nay là Thành phố Hồ Chí Minh. Thân phụ là Cụ Ông Huỳnh Văn Chánh. Thân mẫu là Cụ Bà Lê Thị Kia, pháp danh Diệu Ca. II. Thời kỳ xuất gia học Đạo Vốn sinh ra trong một gia đình Phật tử thuần thành, nhiều đời tin kính Tam bảo, từ nhỏ Hòa thượng đã có thiện duyên với Phật pháp, được Cụ Ông, Cụ Bà thường xuyên dẫn đi chùa chiêm bái và lễ Phật. Năm 11 tuổi, Hòa thượng quy y năm giới với Hòa thượng Bổn sư thượng Đức hạ Chơn, pháp danh là Quảng Trí và sinh hoạt Gia đình Phật tử Quảng Hương. Với tâm nguyện muốn xuất gia học đạo, năm 13 tuổi (1964), Hòa thượng được Hòa thượng Bổn sư cho phép thế phát xuất gia và hành điệu tại chùa Long Huê, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh. Sau đó, Hòa thượng vào tu học ở Tu viện Quảng Hương Già Lam, từ năm 1966 - 1968.
12/09/2013(Xem: 8748)
Tôi mới nhận được một tin đáng lưu tâm. Đó là Ông Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon(Phan Cơ Văn) là người gốc Việt Nam có dòng dõi với Phan Huy Chú. Trước đây tôi có đọc bộ sách lịch sử về VN của Bác Sĩ Trân Đại Sĩ ở Pháp viết về dòng dõi của Hoàng Tử Lý Long Tường vào giữa thế kỷ thứ 13 tại Bắc Hàn (rất hay), sau đó được biết Ông Lý Thừa Vãng Tổng Thống Nam Hàn cũng có nguồn gốc từ nhà Lý của VN và Tổng Thống Đài Laon Lý Kính Huy cũng dòng dõi nhà Lý nầy. Nay được biết thêm Ông Ban Ki Moon của Nam Hàn cũng gốc gác từ VN. Như vậy cũng là một niềm vui, nhưng xin kiểm điểm lại việc nầy. Ở Đức, tôi có thể liên lạc với Dr. Phan Huy Oánh là người nhà với Ông Phan Huy Qúat để dò hỏi thêm việc nầy. Đây là những chứng nhân của lịch sử cần nên quan tâm.
07/09/2013(Xem: 19683)
¨ THƯ TÒA SOẠN, trang 2 ¨ TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 ¨ CÁO BẠCH TANG LỄ HT. THÍCH MINH TÂM (GHPGVNTN Âu Châu), trang 7 ¨ ĐÔI LỜI CẢM NIỆM VỀ SỰ VIÊN TỊCH CỦA HT THÍCH MINH TÂM (thơ điếu của HT Thích Thắng Hoan), trang 8 ¨ TƯỞNG NIỆM HT. THÍCH MINH TÂM (thơ HT. Thích Nguyên An), trang 8 ¨ XƯNG TÁN CÔNG HẠNH CỦA CỐ TRƯỞNG LÃO HT. THÍCH MINH TÂM (HT. Thích Tín Nghĩa), trang 9 ¨ ĐIỆN THƯ PHÂN ƯU (GHPGVNTN Hoa Kỳ), trang 10 ¨ SƠ LƯỢC TIỂU SỬ HT. THÍCH MINH TÂM (GHPGVNTN Âu Châu và Môn đồ pháp quyến phụng soạn), trang 11 ¨ CẢM NIỆM ÂN SƯ (ai văn của Môn đồ pháp quyến HT. Thích Minh Tâm), trang 12
07/09/2013(Xem: 4574)
Vừa ở khóa Tu học về được 2 ngày, còn mang theo niềm vui, với những gương mặt thân yêu của Quí Thầy, hơi ấm của tình bạn đang vây quanh con; không ngờ chị bạn cùng khóa Tu học gọi điện thoại cho biết Thầy vừa viên tịch tại Phần Lan. Một hung tin như trong mộng làm con quá đỗi bàng hoàng! Làm sao con có thể tin được vì con vừa tham dự khóa Tu học Phật Pháp Âu Châu lần thứ 25 ở Turku- Finland về. Mới đó mà! Thầy mới khai thị cho khóa học, cấp lớp chúng con đã được Thầy giảng dạy một buổi và hằng ngày Thầy đã đến đạo tràng thọ trai cùng Tăng Chúng; động viên cho hàng Phật tử đang hiện diện. Thầy đã vui với thành quả số Phật tử tham dự: 837 người, ngoài sự dự đoán của ban tổ chức vì đường sá xa xôi và tốn kém. Vậy mà tinh thần học Phật vẫn dâng cao!
29/08/2013(Xem: 9843)
THẦY GIÁO LÀNG TÔI (Kính tặng TT.Thích Liễu Pháp, trụ trì chùa Thiên Xá, Đồng Đế, Nha Trang) TỊNH MINH
27/08/2013(Xem: 13697)
Thiền tông truyền sang Trung Hoa vào thế kỷ thứ VI, do Tổ Bồ-đề-đạt-ma (Bodhidharma). Đến thế kỷ thứ VII, Thiền tông truyền sang Việt Nam, do Tổ Tỳ-ni-đa-lưu-chi (Vinitaruci). Thế là, Thiền tông có mặt ở Việt Nam sau Trung Hoa một thế kỷ. Đến thế kỷ thứ XII, Thiền tông mới truyền vào Nhật Bản. So Việt Nam với Nhật Bản, Thiền tông truyền bá ở Việt Nam trước Nhật Bản đến năm thế kỷ. Song ở Trung Hoa, Nhật Bản về sử liệu Thiền tông rất dồi dào, còn ở Việt Nam thật là nghèo nàn đáo để. Sự nghèo nàn ấy, không phải Thiền tông Việt Nam truyền bá kém cỏi hơn các nước Phật giáo bạn. Bởi vì nhìn theo dòng lịch sử, từ thế kỷ thứ VII cho đến thế kỷ thứ XIV, chúng ta thấy Thiền tông đã nắm trọn vẹn tinh thần truyền bá Phật giáo và cả văn hóa dân tộc Việt Nam. Những sách vở của người Việt Nam sáng tác hoặc ghi chép lại, không kém gì các nước Phật giáo bạn. Nào là Đại Nam Thiền Uyển Truyền Đăng Lục, Liệt Tổ Truyện, Nam Minh Thiền Lục, Thánh Đăng Thực Lục, Liệt Tổ Yếu Ngữ, Kế Đăng Lục, Tam Tổ T
22/08/2013(Xem: 7827)
Tin buồn do HT Như Điển gởi đi từ Phần Lan vào chiều ngày 8-8-2013, đã làm bàng hoàng và xúc động đối với Tăng Ni và Phật tử gần xa. Ôn đã ra đi trong lúc Phật sự còn ngổn ngang, bỏ lại phía sau mình niềm tiếc nhớ kính thương khôn nguôi của tất cả mọi người.
18/08/2013(Xem: 7427)
Hồi nhỏ ba tôi đưa tôi lên qui y với Hoà thượng Đôn Hậu tại chùa Thiên Mụ (1956), nhưng sau lớn lên học Đại học, vào Đoàn Sinh viên Phật tử (1963), tôi lại tham gia "tranh đấu Phật giáo" tại chùa Từ Đàm (1963-1966). Hoà thượng Thích Thiện Siêu là một trong những vị lãnh đạo của tôi lúc ấy.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]