Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 84: Phẩm Thọ Giáo 3, Phẩm Tán Hoa

07/07/201516:25(Xem: 14429)
Quyển 84: Phẩm Thọ Giáo 3, Phẩm Tán Hoa

Kinh Dai Bat Nha- HT Thich Tri Nghiem_2_b
Tập 02
Quyển 84
Phẩm Thọ Giáo 3
Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm
Diễn đọc: Cư Sĩ Chánh Trí


 

Những người như vậy, hoàn toàn chẳng lấy không, bất không để phân biệt pháp của bậc Cực hỷ, cũng chẳng lấy pháp của bậc Cực hỷ để phân biệt không, bất không; chẳng lấy không, bất không để phân biệt pháp của bậc Ly cấu, bậc Phát quang cho đến bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân, cũng chẳng lấy pháp của bậc Ly cấu, bậc Phát quang cho đến bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân để phân biệt không, bất không; chẳng lấy hữu tướng, vô tướng để phân biệt pháp của bậc Cực hỷ, cũng chẳng lấy pháp của bậc Cực hỷ để phân biệt hữu tướng, vô tướng; chẳng lấy hữu tướng, vô tướng để phân biệt pháp của bậc Ly cấu, bậc Phát quang cho đến bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân, cũng chẳng lấy pháp của bậc Ly cấu, bậc Phát quang cho đến bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân để phân biệt hữu tướng, vô tướng; chẳng lấy hữu nguyện, vô nguyện để phân biệt pháp của bậc Cực hỷ, cũng chẳng lấy pháp của bậc Cực hỷ để phân biệt hữu nguyện, vô nguyện; chẳng lấy hữu nguyện, vô nguyện để phân biệt pháp của bậc Ly cấu, bậc Phát quang cho đến bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân, cũng chẳng lấy pháp của bậc Ly cấu, bậc Phát quang cho đến bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân để phân biệt hữu nguyện, vô nguyện; chẳng lấy sanh, bất sanh để phân biệt pháp của bậc Cực hỷ, cũng chẳng lấy pháp của bậc Cực hỷ để phân biệt sanh, bất sanh; chẳng lấy sanh, bất sanh để phân biệt pháp của bậc Ly cấu, bậc Phát quang cho đến bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân, cũng chẳng lấy pháp của bậc Ly cấu, bậc Phát quang cho đến bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân để phân biệt sanh, bất sanh; chẳng lấy diệt, bất diệt để phân biệt pháp của bậc Cực hỷ, cũng chẳng lấy pháp của bậc Cực hỷ để phân biệt diệt, bất diệt; chẳng lấy diệt, bất diệt để phân biệt pháp của bậc Ly cấu, bậc Phát quang cho đến bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân, cũng chẳng lấy pháp của bậc Ly cấu, bậc Phát quang cho đến bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân để phân biệt diệt, bất diệt; chẳng lấy tịch tịnh, bất tịch tịnh để phân biệt pháp của bậc Cực hỷ, cũng chẳng lấy pháp của bậc Cực hỷ để phân biệt tịch tịnh, bất tịch tịnh; chẳng lấy tịch tịnh, bất tịch tịnh để phân biệt pháp của bậc Ly cấu, bậc Phát quang cho đến bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân, cũng chẳng lấy pháp của bậc Ly cấu, bậc Phát quang cho đến bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân để phân biệt tịch tịnh, bất tịch tịnh; chẳng lấy viễn ly, bất viễn ly để phân biệt pháp của bậc Cực hỷ, cũng chẳng lấy pháp của bậc Cực hỷ để phân biệt viễn ly, bất viễn ly; chẳng lấy viễn ly, bất viễn ly để phân biệt pháp của bậc Ly cấu, bậc Phát quang cho đến bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân, cũng chẳng lấy pháp của bậc Ly cấu, bậc Phát quang cho đến bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân để phân biệt viễn ly, bất viễn ly.

Những người như vậy, hoàn toàn chẳng lấy không, bất không để phân biệt bậc phàm phu, cũng chẳng lấy bậc phàm phu để phân biệt không, bất không; chẳng lấy không, bất không để phân biệt bậc chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Cụ kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Độc-giác, bậc Bồ-tát, bậc Như Lai, cũng chẳng lấy bậc chủng tánh, bậc Đệ bát cho đến bậc Bồ-tát, bậc Như Lai để phân biệt không, bất không; chẳng lấy hữu tướng, vô tướng để phân biệt bậc phàm phu, cũng chẳng lấy bậc phàm phu để phân biệt hữu tướng, vô tướng; chẳng lấy hữu tướng, vô tướng để phân biệt bậc chủng tánh, bậc Đệ bát cho đến bậc Bồ-tát, bậc Như Lai, cũng chẳng lấy bậc chủng tánh, bậc Đệ bát cho đến bậc Bồ-tát, bậc Như Lai để phân biệt hữu tướng, vô tướng; chẳng lấy hữu nguyện, vô nguyện để phân biệt bậc phàm phu, cũng chẳng lấy bậc phàm phu để phân biệt hữu nguyện, vô nguyện; chẳng lấy hữu nguyện, vô nguyện để phân biệt bậc chủng tánh, bậc Đệ bát cho đến bậc Bồ-tát, bậc Như Lai, cũng chẳng lấy bậc chủng tánh, bậc Đệ bát cho đến bậc Bồ-tát, bậc Như Lai để phân biệt hữu nguyện, vô nguyện; chẳng lấy sanh, bất sanh để phân biệt bậc phàm phu, cũng chẳng lấy bậc phàm phu để phân biệt sanh, bất sanh; chẳng lấy sanh, bất sanh để phân biệt bậc chủng tánh, bậc Đệ bát cho đến bậc Bồ-tát, bậc Như Lai, cũng chẳng lấy bậc chủng tánh, bậc Đệ bát cho đến bậc Bồ-tát, bậc Như Lai để phân biệt sanh, bất sanh; chẳng lấy diệt, bất diệt để phân biệt bậc phàm phu, cũng chẳng lấy bậc phàm phu để phân biệt diệt, bất diệt; chẳng lấy diệt, bất diệt để phân biệt bậc chủng tánh, bậc Đệ bát cho đến bậc Bồ-tát, bậc Như Lai, cũng chẳng lấy bậc chủng tánh, bậc Đệ bát cho đến bậc Bồ-tát, bậc Như Lai để phân biệt diệt, bất diệt; chẳng lấy tịch tịnh, bất tịch tịnh để phân biệt bậc phàm phu, cũng chẳng lấy bậc phàm phu để phân biệt tịch tịnh, bất tịch tịnh; chẳng lấy tịch tịnh, bất tịch tịnh để phân biệt bậc chủng tánh, bậc Đệ bát cho đến bậc Bồ-tát, bậc Như Lai, cũng chẳng lấy bậc chủng tánh, bậc Đệ bát cho đến bậc Bồ-tát, bậc Như Lai để phân biệt tịch tịnh, bất tịch tịnh; chẳng lấy viễn ly, bất viễn ly để phân biệt bậc phàm phu, cũng chẳng lấy bậc phàm phu để phân biệt viễn ly, bất viễn ly; chẳng lấy viễn ly, bất viễn ly để phân biệt bậc chủng tánh, bậc Đệ bát cho đến bậc Bồ-tát, bậc Như Lai, cũng chẳng lấy bậc chủng tánh, bậc Đệ bát cho đến bậc Bồ-tát, bậc Như Lai để phân biệt viễn ly, bất viễn ly.

Những người như vậy, hoàn toàn chẳng lấy không, bất không để phân biệt pháp của bậc phàm phu, cũng chẳng lấy pháp của bậc phàm phu để phân biệt không, bất không; chẳng lấy không, bất không để phân biệt pháp của bậc chủng tánh, bậc Đệ bát cho đến bậc Bồ-tát, bậc Như Lai, cũng chẳng lấy pháp của bậc chủng tánh, bậc Đệ bát cho đến bậc Bồ-tát, bậc Như Lai để phân biệt không, bất không; chẳng lấy hữu tướng, vô tướng để phân biệt pháp của bậc phàm phu, cũng chẳng lấy pháp của bậc phàm phu để phân biệt hữu tướng, vô tướng; chẳng lấy hữu tướng, vô tướng để phân biệt pháp của bậc chủng tánh, bậc Đệ bát cho đến bậc Bồ-tát, bậc Như Lai, cũng chẳng lấy pháp của bậc chủng tánh, bậc Đệ bát cho đến bậc Bồ-tát, bậc Như Lai để phân biệt hữu tướng, vô tướng; chẳng lấy hữu nguyện, vô nguyện để phân biệt pháp của bậc phàm phu, cũng chẳng lấy pháp của bậc phàm phu để phân biệt hữu nguyện, vô nguyện; chẳng lấy hữu nguyện, vô nguyện để phân biệt pháp của bậc chủng tánh, bậc Đệ bát cho đến bậc Bồ-tát, bậc Như Lai, cũng chẳng lấy pháp của bậc chủng tánh, bậc Đệ bát cho đến bậc Bồ-tát, bậc Như Lai để phân biệt hữu nguyện, vô nguyện; chẳng lấy sanh, bất sanh để phân biệt pháp của bậc phàm phu, cũng chẳng lấy pháp của bậc phàm phu để phân biệt sanh, bất sanh; chẳng lấy sanh, bất sanh để phân biệt pháp của bậc chủng tánh, bậc Đệ bát cho đến bậc Bồ-tát, bậc Như Lai, cũng chẳng lấy pháp của bậc chủng tánh, bậc Đệ bát cho đến bậc Bồ-tát, bậc Như Lai để phân biệt sanh, bất sanh; chẳng lấy diệt, bất diệt để phân biệt pháp của bậc phàm phu, cũng chẳng lấy pháp của bậc phàm phu để phân biệt diệt, bất diệt; chẳng lấy diệt, bất diệt để phân biệt pháp của bậc chủng tánh, bậc Đệ bát cho đến bậc Bồ-tát, bậc Như Lai, cũng chẳng lấy pháp của bậc chủng tánh, bậc Đệ bát cho đến bậc Bồ-tát, bậc Như Lai để phân biệt diệt, bất diệt; chẳng lấy tịch tịnh, bất tịch tịnh để phân biệt pháp của bậc phàm phu, cũng chẳng lấy pháp của bậc phàm phu để phân biệt tịch tịnh, bất tịch tịnh; chẳng lấy tịch tịnh, bất tịch tịnh để phân biệt pháp của bậc chủng tánh, bậc Đệ bát cho đến bậc Bồ-tát, bậc Như Lai, cũng chẳng lấy pháp của bậc chủng tánh, bậc Đệ bát cho đến bậc Bồ-tát, bậc Như Lai để phân biệt tịch tịnh, bất tịch tịnh; chẳng lấy viễn ly, bất viễn ly để phân biệt pháp của bậc phàm phu, cũng chẳng lấy pháp của bậc phàm phu để phân biệt viễn ly, bất viễn ly; chẳng lấy viễn ly, bất viễn ly để phân biệt pháp của bậc chủng tánh, bậc Đệ bát cho đến bậc Bồ-tát, bậc Như Lai, cũng chẳng lấy pháp của bậc chủng tánh, bậc Đệ bát cho đến bậc Bồ-tát, bậc Như Lai để phân biệt viễn ly, bất viễn ly.

Những người như vậy, hoàn toàn chẳng lấy không, bất không để phân biệt cảnh giới hữu vi, cũng chẳng lấy cảnh giới hữu vi để phân biệt không, bất không; chẳng lấy không, bất không để phân biệt cảnh giới vô vi, cũng chẳng lấy cảnh giới vô vi để phân biệt không, bất không; chẳng lấy hữu tướng, vô tướng để phân biệt cảnh giới hữu vi, cũng chẳng lấy cảnh giới hữu vi để phân biệt hữu tướng, vô tướng; chẳng lấy hữu tướng, vô tướng để phân biệt cảnh giới vô vi, cũng chẳng lấy cảnh giới vô vi để phân biệt hữu tướng, vô tướng; chẳng lấy hữu nguyện, vô nguyện để phân biệt cảnh giới hữu vi, cũng chẳng lấy cảnh giới hữu vi để phân biệt hữu nguyện, vô nguyện; chẳng lấy hữu nguyện, vô nguyện để phân biệt cảnh giới vô vi, cũng chẳng lấy cảnh giới vô vi để phân biệt hữu nguyện, vô nguyện; chẳng lấy sanh, bất sanh để phân biệt cảnh giới hữu vi, cũng chẳng lấy cảnh giới hữu vi để phân biệt sanh, bất sanh; chẳng lấy sanh, bất sanh để phân biệt cảnh giới vô vi, cũng chẳng lấy cảnh giới vô vi để phân biệt sanh, bất sanh; chẳng lấy diệt, bất diệt để phân biệt cảnh giới hữu vi, cũng chẳng lấy cảnh giới hữu vi để phân biệt diệt, bất diệt; chẳng lấy diệt, bất diệt để phân biệt cảnh giới vô vi, cũng chẳng lấy cảnh giới vô vi để phân biệt diệt, bất diệt; chẳng lấy tịch tịnh, bất tịch tịnh để phân biệt cảnh giới hữu vi, cũng chẳng lấy cảnh giới hữu vi để phân biệt tịch tịnh, bất tịch tịnh; chẳng lấy tịch tịnh, bất tịch tịnh để phân biệt cảnh giới vô vi, cũng chẳng lấy cảnh giới vô vi để phân biệt tịch tịnh, bất tịch tịnh; chẳng lấy viễn ly, bất viễn ly để phân biệt cảnh giới hữu vi, cũng chẳng lấy cảnh giới hữu vi để phân biệt viễn ly, bất viễn ly; chẳng lấy viễn ly, bất viễn ly để phân biệt cảnh giới vô vi, cũng chẳng lấy cảnh giới vô vi để phân biệt viễn ly, bất viễn ly.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bảo các Thiên tử: Như vậy, Bát-nhã-ba-la-mật-đa đã nói là pháp sâu xa khó thấy, khó biết, chẳng phải là đối tượng tầm tư, là cảnh siêu tầm tư, vi diệu, tịch tịnh, tối thắng đệ nhất, chỉ có bậc Cực thánh tự nội chứng, kẻ thông tuệ trong thế gian chẳng có thể suy lường tới được; trong đó, thật không có kẻ có khả năng tín thọ. Vì sao? Vì trong đó, không có pháp có thể hiển thị, vì không có pháp có thể hiển thị, nên kẻ thật tín thọ cũng chẳng thể nắm bắt được.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Ở trong giáo pháp thâm sâu của Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, đâu chẳng rộng nói giáo pháp ba thừa, đó là pháp của Thanh-văn, Độc-giác, Vô-thượng thừa, rộng nói bao gồm đạo Bồ-tát của các đại Bồ-tát, từ Sơ phát tâm cho đến Thập địa, đó là bố thí Ba-la-mật-đa, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cái không nội, cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh; hoặc chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì; hoặc Thánh đế khổ, Thánh đế tập, diệt, đạo; hoặc bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; hoặc tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; hoặc bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; hoặc pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; hoặc năm loại mắt, sáu phép thần thông; hoặc mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; hoặc trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; hoặc tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa; rộng nói bao gồm thắng sự công đức của đại Bồ-tát, đó là đại Bồ-tát đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, siêng năng tu hành, cho nên tùy nơi sanh ra thường thọ hóa sanh, với thần thông bất thối, có thể dạo chơi tự tại, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen chư Phật Thế Tôn, tùy theo sở nguyện, ưa gieo trồng thiện căn, đều có thể  tu tập, mau được viên mãn, ở chỗ các đức Phật nghe và thọ trì chánh pháp cho đến chứng quả vị giác ngộ cao tột, thường không quên mất cũng không biếng lười, bỏ phế, thường trụ định thù thắng, xa lìa tâm tán loạn; do vì duyên này, nên được biện tài vô ngại, biện tài không chấm dứt, biện tài không sai lầm, biện tài nhạy bén, biện tài thích ứng, biện tài có nghĩa lý phong phú ý vị khi diễn thuyết một vấn đề gì, biện tài thù thắng tối diệu đối với tất cả thế gian.

Thiện Hiện đáp: Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời Ngài nói, ở trong giáo pháp thâm sâu của Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, rộng nói pháp ba thừa, đó là pháp Thanh-văn, Độc-giác, Vô-thượng thừa; rộng nói bao gồm đạo Bồ-tát của các đại Bồ-tát, từ Sơ phát tâm cho đến Thập địa, đó là bố thí Ba-la-mật-đa cho đến tất cả pháp môn Tam-ma-địa; rộng nói bao gồm thắng sự công đức của đại Bồ-tát, đó là đại Bồ-tát đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa, siêng năng tu hành, cho nên tùy nơi sanh ra thường thọ hóa sanh cho đến đắc biện tài tối thắng vi diệu trong tất cả thế gian. Giáo pháp thậm thâm như vậy, hễ có nói thì lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Xá Lợi Tử hỏi: Pháp này đối với pháp nào, lấy vô sở đắc làm phương tiện?

Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Pháp này đối với ngã lấy vô sở đắc làm phương tiện; pháp này đối với hữu tình, dòng sinh mạng, sự sanh, sự dưỡng, sự trưởng thành, chủ thể luân hồi, người do người sanh, ngã tối thắng, khả năng làm việc, khả năng khiến người làm việc, khả năng tạo nghiệp, khả năng khiến người tạo nghiệp, tự thọ quả báo, khiến người thọ quả báo, cái biết, cái thấy lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Xá Lợi Tử! Pháp này đối với sắc, lấy vô sở đắc làm phương tiện; pháp này đối với thọ, tưởng, hành, thức, lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Xá Lợi Tử! Pháp này đối với nhãn xứ, lấy vô sở đắc làm phương tiện; pháp này đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Xá Lợi Tử! Pháp này đối với sắc xứ, lấy vô sở đắc làm phương tiện; pháp này đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Xá Lợi Tử! Pháp này đối với nhãn giới, lấy vô sở đắc làm phương tiện; pháp này đối với sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Xá Lợi Tử! Pháp này đối với nhĩ giới, lấy vô sở đắc làm phương tiện; pháp này đối với thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra, lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Xá Lợi Tử! Pháp này đối với tỷ giới, lấy vô sở đắc làm phương tiện; pháp này đối với hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra, lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Xá Lợi Tử! Pháp này đối với thiệt giới, lấy vô sở đắc làm phương tiện; pháp này đối với vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra, lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Xá Lợi Tử! Pháp này đối với thân giới, lấy vô sở đắc làm phương tiện; pháp này đối với xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra, lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Xá Lợi Tử! Pháp này đối với ý giới, lấy vô sở đắc làm phương tiện; pháp này đối với pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Xá Lợi Tử! Pháp này đối với địa giới, lấy vô sở đắc làm phương tiện; pháp này đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới, lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Xá Lợi Tử! Pháp này đối với Thánh đế khổ, lấy vô sở đắc làm phương tiện; pháp này đối với Thánh đế tập, diệt, đạo, lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Xá Lợi Tử! Pháp này đối với vô minh, lấy vô sở đắc làm phương tiện; pháp này đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Xá Lợi Tử! Pháp này đối với cái không nội, lấy vô sở đắc làm phương tiện; pháp này đối với cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh, lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Xá Lợi Tử! Pháp này đối với chơn như, lấy vô sở đắc làm phương tiện; pháp này đối với pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Xá Lợi Tử! Pháp này đối với bố thí Ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện; pháp này đối với tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Xá Lợi Tử! Pháp này đối với bốn tịnh lự, lấy vô sở đắc làm phương tiện; pháp này đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc, lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Xá Lợi Tử! Pháp này đối với tám giải thoát, lấy vô sở đắc làm phương tiện; pháp này đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Xá Lợi Tử! Pháp này đối với bốn niệm trụ, lấy vô sở đắc làm phương tiện; pháp này đối với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Xá Lợi Tử! Pháp này đối với pháp môn giải thoát không, lấy vô sở đắc làm phương tiện; pháp này đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Xá Lợi Tử! Pháp này đối với năm loại mắt, lấy vô sở đắc làm phương tiện; pháp này đối với sáu phép thần thông, lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Xá Lợi Tử! Pháp này đối với mười lực của Phật, lấy vô sở đắc làm phương tiện; pháp này đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Xá Lợi Tử! Pháp này đối với pháp không quên mất, lấy vô sở đắc làm phương tiện; pháp này đối với tánh luôn luôn xả, lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Xá Lợi Tử! Pháp này đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni, lấy vô sở đắc làm phương tiện; pháp này đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa, lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Xá Lợi Tử! Pháp này đối với trí nhất thiết, lấy vô sở đắc làm phương tiện; pháp này đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Xá Lợi Tử! Pháp này đối với Thanh-văn thừa, lấy vô sở đắc làm phương tiện; pháp này đối với Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa, lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Xá Lợi Tử! Pháp này đối với Dự-lưu, lấy vô sở đắc làm phương tiện; pháp này đối với Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán, lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Xá Lợi Tử! Pháp này đối với Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả, lấy vô sở đắc làm phương tiện; pháp này đối với Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả, lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Xá Lợi Tử! Pháp này đối với Độc-giác, lấy vô sở đắc làm phương tiện; pháp này đối với Độc-giác hướng, Độc-giác quả, lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Xá Lợi Tử! Pháp này đối với đại Bồ-tát, lấy vô sở đắc làm phương tiện; pháp này đối với Tam-miệu-tam Phật-đà, lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Xá Lợi Tử! Pháp này đối với pháp của đại Bồ-tát, lấy vô sở đắc làm phương tiện; pháp này đối với pháp của quả vị giác ngộ cao tột, lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Xá Lợi Tử! Pháp này đối với bậc Cực hỷ, lấy vô sở đắc làm phương tiện; pháp này đối với bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân, lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Xá Lợi Tử! Pháp này đối với pháp của bậc Cực hỷ, lấy vô sở đắc làm phương tiện; pháp này đối với pháp của bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân, lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Xá Lợi Tử! Pháp này đối với bậc phàm phu, lấy vô sở đắc làm phương tiện; pháp này đối với bậc chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Cụ kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Độc-giác, bậc Bồ-tát, bậc Như Lai, lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Xá Lợi Tử! Pháp này đối với pháp của bậc phàm phu, lấy vô sở đắc làm phương tiện; pháp này đối với pháp của bậc chủng tánh, bậc Đệ bát, bậc Cụ kiến, bậc Bạc, bậc Ly dục, bậc Dĩ biện, bậc Độc-giác, bậc Bồ-tát, bậc Như Lai, lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Xá Lợi Tử! Pháp này đối với cảnh giới hữu vi, lấy vô sở đắc làm phương tiện; pháp này đối với cảnh giới vô vi, lấy vô sở đắc làm phương tiện.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Vì nhân duyên gì ở trong giáo pháp thâm sâu của Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, lấy vô sở đắc làm phương tiện, rộng nói giáo pháp ba thừa, đó là pháp Thanh-văn, Độc-giác, Vô-thượng thừa? Vì nhân duyên gì ở trong giáo pháp thâm sâu của Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, lấy vô sở đắc làm phương tiện, rộng nói bao gồm đạo Bồ-tát của các đại Bồ-tát, từ Sơ phát tâm cho đến Thập địa, đó là bố thí Ba-la-mật-đa cho đến tất cả pháp môn Tam-ma-địa? Vì nhân duyên gì ở trong giáo pháp thâm sâu của Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, lấy vô sở đắc làm phương tiện, rộng nói bao gồm thắng sự công đức của đại Bồ-tát, đó là đại Bồ-tát đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, siêng năng tu hành, cho nên tùy nơi sanh ra, thường thọ hóa sanh cho đến được biện tài thù thắng tối diệu trong tất cả thế gian?

Thiện Hiện đáp: Xá Lợi Tử! Do cái không nội nên ở trong giáo pháp thâm sâu của Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, lấy vô sở đắc làm phương tiện, rộng nói pháp ba thừa, đó là pháp Thanh-văn, Độc-giác, Vô-thượng thừa.

Xá Lợi Tử! Do cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bổn tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh, nên ở trong giáo pháp thâm sâu của Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, lấy vô sở đắc làm phương tiện, rộng nói pháp ba thừa, đó là pháp Thanh-văn, Độc-giác, Vô-thượng thừa.

Xá Lợi Tử! Do cái không nội nên ở trong giáo pháp thâm sâu của Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, lấy vô sở đắc làm phương tiện, rộng nói bao gồm đạo Bồ-tát của các đại Bồ-tát, từ Sơ phát tâm cho đến Thập địa, đó là bố thí Ba-la-mật-đa, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa; hoặc cái không nội, cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh; hoặc chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; hoặc Thánh đế khổ, Thánh đế tập, diệt, đạo; hoặc bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; hoặc tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; hoặc bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; hoặc pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; hoặc năm loại mắt, sáu phép thần thông; hoặc mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; hoặc trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; hoặc tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Xá Lợi Tử! Do cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh, nên ở trong giáo pháp thâm sâu của Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, lấy vô sở đắc làm phương tiện, rộng nói bao gồm đạo Bồ-tát của các đại Bồ-tát, từ Sơ phát tâm cho đến Thập địa, đó là bố thí Ba-la-mật-đa cho đến tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Xá Lợi Tử! Do cái không nội nên ở trong giáo pháp thâm sâu của Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, lấy vô sở đắc làm phương tiện, rộng nói bao gồm thắng sự công đức của đại Bồ-tát, đó là đại Bồ-tát đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, siêng năng tu hành, nên tùy nơi sanh ra, thường thọ hóa sanh với thần thông bất thối, có khả năng dạo chơi tự tại, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen chư Phật Thế Tôn, tùy theo sở nguyện, ưa gieo trồng các căn lành, đều có khả năng tu tập, mau được viên mãn. Ở chỗ các đức Phật, nghe và thọ trì chánh pháp cho đến chứng quả vị giác ngộ cao tột, thường không quên mất cũng không biếng lười, bỏ phế, thường trụ định thù thắng, xa lìa tâm tán loạn; do vì duyên cớ này, nên được biện tài vô ngại, biện tài không chấm dứt, biện tài không sai lầm, rối loạn, biện tài nhạy bén, biện tài thích ứng, biện tài có nghĩa lý phong phú, ý vị khi diễn thuyết một vấn đề gì, biện tài thù thắng tối diệu đối với tất cả thế gian.

Xá Lợi Tử! Do cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh, nên ở trong giáo pháp thâm sâu của Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, lấy vô sở đắc làm phương tiện, rộng nói bao gồm thắng sự công đức của đại Bồ-tát, đó là đại Bồ-tát đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, siêng năng tu hành, nên tùy nơi sanh ra, thường thọ hóa sanh cho đến được biện tài thù thắng tối diệu đối với tất cả thế gian.

 

Tập 02
Quyển 84
Phẩm Tán Hoa

Lúc bấy giờ, Trời Đế Thích và thế giới ba lần ngàn này có chúng trời Tứ-đại-vương, trời Ba-mươi-ba, trời Dạ-mạ, trời Đổ-sử-đa, trời Lạc-biến-hóa, trời Tha-hóa-tự-tại, trời Phạm-chúng, trời Phạm-phụ, trời Phạm-hội, trời Đại-phạm, trời Quang, trời Thiểu-Quang, trời Vô-lượng-quang, trời Cực-quang-tịnh, trời Tịnh, trời Thiểu-tịnh, trời Vô-lượng-tịnh, trời Biến-tịnh, trời Quảng, trời Thiểu-quảng, trời Vô-lượng-quảng, trời Quảng-quả, trời Vô-phiền, trời Vô-nhiệt, trời Thiện Hiện, trời Thiện-kiến, trời Sắc-cứu-cánh đều khởi ý nghĩ thế này: Nay Tôn giả Thiện Hiện nương thần lực Phật vì tất cả hữu tình tuôn mưa pháp lớn. Nay đây, chúng tôi vì sự cúng dường nên đều hóa ra các thứ hoa trời vi diệu, rải cúng Thích Ca Như Lai và đại Bồ-tát cùng Bí-sô tăng, Tôn giả Thiện Hiện, cũng rải cúng dường Bát-nhã-ba-la-mật-đa thâm sâu đã nói.

Khi ấy, các chúng trời khởi lên ý nghĩ ấy rồi, liền hóa ra các thứ hương hoa vi diệu rải cúng Như Lai và các Bồ-tát v.v…

Khi ấy, ở thế giới các đức Phật trong cõi ba lần ngàn này, đều tràn đầy hoa, do thần lực Phật, ở giữa hư không, kết thành đài hoa trang nghiêm đẹp đẽ, che khắp thế giới ba lần ngàn.

Cu thọ Thiện Hiện thấy hiện tượng này rồi, khởi lên ý nghĩ thế này: Hoa rải cúng hôm nay, ở các cõi trời chưa từng thấy có; hoa ấy đẹp đẽ thật chẳng phải sanh ra từ cỏ cây trên đất, dưới nước, đúng là chư Thiên, vì sự cúng dường mà từ tâm biến hóa ra.

Khi ấy, trời Đế Thích đã biết điều tâm niệm của Thiện Hiện, nên nói với Thiện Hiện: Hoa rải cúng này thật chẳng phải từ cỏ cây trên đất dưới nước sanh ra, thật cũng chẳng phải từ tâm có thể biến hóa ra, mà chỉ biến hiện vậy.

Cụ thọ Thiện Hiện nói với Đế Thích: Hoa ấy chẳng sanh thì chẳng phải là hoa.

Khi ấy, trời Đế Thích hỏi Thiện Hiện: Chỉ có hoa ấy chẳng sanh, hay là các pháp khác cũng vậy?

Thiện Hiện đáp: Chẳng phải chỉ có hoa ấy chẳng sanh mà các pháp khác cũng vậy. Những pháp nào?

Kiều Thi Ca! Sắc cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là sắc; thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức. Vì sao? Vì pháp bất sanh, xa lìa các hý luận nên chẳng thể đặt bày ra là sắc v.v…

Kiều Thi Ca! Nhãn xứ cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là nhãn xứ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, xa lìa các hý luận, chẳng thể đặt bày ra là nhãn xứ v.v... 

Kiều Thi Ca! Sắc xứ cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là sắc xứ; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, xa lìa các hý luận, chẳng thể đặt bày ra là sắc xứ v.v... 

Kiều Thi Ca! Nhãn giới cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là nhãn giới; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, xa lìa các hý luận, chẳng thể đặt bày ra là nhãn giới v.v...

Kiều Thi Ca! Nhĩ giới cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là nhĩ giới; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, xa lìa các hý luận, chẳng thể đặt bày ra là nhĩ giới v.v... 

Kiều Thi Ca! Tỷ giới cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là tỷ giới; hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, xa lìa các hý luận, chẳng thể đặt bày ra là tỷ giới v.v... 

Kiều Thi Ca! Thiệt giới cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là thiệt giới; vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, xa lìa các hý luận, chẳng thể đặt bày ra là thiệt giới v.v... 

Kiều Thi Ca! Thân giới cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là thân giới; xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, xa lìa các hý luận, chẳng thể đặt bày ra là thân giới v.v... 

Kiều Thi Ca! Ý giới cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là ý giới; pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, xa lìa các hý luận, chẳng thể đặt bày ra là ý giới v.v... 

Kiều Thi Ca! Địa giới cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là địa giới; thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, xa lìa các hý luận, chẳng thể đặt bày ra là địa giới v.v... 

Kiều Thi Ca! Thánh đế khổ cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là Thánh đế khổ; Thánh đế tập, diệt, đạo cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là Thánh đế tập, diệt, đạo. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, xa lìa các hý luận, chẳng thể đặt bày ra là Thánh đế khổ v.v... 

Kiều Thi Ca! Vô minh cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là vô minh; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, xa lìa các hý luận, chẳng thể đặt bày ra là vô minh v.v... 

Kiều Thi Ca! Cái không nội cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là cái không nội; cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, xa lìa các hý luận, chẳng thể đặt bày ra là cái không nội v.v... 

Kiều Thi Ca! Chơn như cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là chơn như; pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, xa lìa các hý luận, chẳng thể đặt bày ra là chơn như v.v... 

Kiều Thi Ca! Bố thí Ba-la-mật-đa cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là bố thí Ba-la-mật-đa; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, xa lìa các hý luận, chẳng thể đặt bày ra là bố thí Ba-la-mật-đa v.v... 

Kiều Thi Ca! Bốn tịnh lự cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là bốn tịnh lự; bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, xa lìa các hý luận, chẳng thể đặt bày ra là bốn tịnh lự v.v... 

Kiều Thi Ca! Tám giải thoát cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là tám giải thoát; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, xa lìa các hý luận, chẳng thể đặt bày ra là tám giải thoát v.v... 

Kiều Thi Ca! Bốn niệm trụ cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là bốn niệm trụ; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, xa lìa các hý luận, chẳng thể đặt bày ra là bốn niệm trụ v.v... 

Kiều Thi Ca! Pháp môn giải thoát không cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là pháp môn giải thoát không; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, xa lìa các hý luận, chẳng thể đặt bày ra là pháp môn giải thoát không v.v... 

Kiều Thi Ca! Năm loại mắt cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là năm loại mắt; sáu phép thần thông cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là sáu phép thần thông. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, xa lìa các hý luận, chẳng thể đặt bày ra là năm loại mắt v.v... 

Kiều Thi Ca! Mười lực của Phật cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là mười lực của Phật; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, xa lìa các hý luận, chẳng thể đặt bày ra là mười lực của Phật v.v... 

Kiều Thi Ca! Pháp không quên mất cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là pháp không quên mất; tánh luôn luôn xả cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là tánh luôn luôn xả. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, xa lìa các hý luận, chẳng thể đặt bày ra là pháp không quên mất v.v... 

Kiều Thi Ca! Trí nhất thiết cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là trí nhất thiết; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, xa lìa các hý luận, chẳng thể đặt bày ra là trí nhất thiết v.v...

Kiều Thi Ca! Tất cả pháp môn Đà-la-ni cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là tất cả pháp môn Đà-la-ni; tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là tất cả pháp môn Tam-ma-địa. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, xa lìa các hý luận, chẳng thể đặt bày ra là tất cả pháp môn Đà-la-ni v.v... 

Kiều Thi Ca! Dự-lưu cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là Dự-lưu; Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, xa lìa các hý luận, chẳng thể đặt bày ra là Dự-lưu v.v... 

Kiều Thi Ca! Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả; Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, xa lìa các hý luận, chẳng thể đặt bày ra là Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả v.v... 

Kiều Thi Ca! Độc-giác cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là Độc-giác; Độc-giác hướng, Độc-giác quả cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là Độc-giác hướng, Độc-giác quả. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, xa lìa các hý luận, chẳng thể đặt bày ra là Độc-giác v.v... 

Kiều Thi Ca! Đại Bồ-tát cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là đại Bồ-tát; Tam-miệu-tam Phật-đà cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là Tam-miệu-tam Phật-đà. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, xa lìa các hý luận, chẳng thể đặt bày ra là đại Bồ-tát v.v... 

Kiều Thi Ca! Pháp của đại Bồ-tát cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là pháp của đại Bồ-tát; quả vị giác ngộ cao tột cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, xa lìa các hý luận, chẳng thể đặt bày ra là pháp của đại Bồ-tát v.v... 

Kiều Thi Ca! Thanh-văn thừa cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là Thanh-văn thừa; Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa cũng chẳng sanh, mà đã chẳng sanh thì chẳng phải là Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh, xa lìa các hý luận, chẳng thể đặt bày ra là Thanh-văn thừa v.v... 

 

Quyển thứ 84

Hết

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/09/2013(Xem: 24014)
Trong khuôn khổ của chương trình Giáo dục thường xuyên thuộc ngành y (Continuing Medical Education) của Viện đại học Harvard. Được tổ chức bởi Trường đại học Y khoa Harvard (Harvard Medical School) mà đứng đầu là các Giáo sư danh tiếng như: Christopher Germer, Judy Reiner Platt và Ronald D. Siegel vào các ngày 11 và 12 tháng Chín 2013 tại thính đường lớn của Boston Park Plaza Hotel, với một ban Giảng huấn hùng hậu gồm 14 vị Giáo sư đứng đầu là Thiền sư Thích Nhất Hạnh, sau đó mới tới các vị Giáo sư danh giá như: Lilian Cheung, Alice Domar, Elissa Ely, Christopher Germer, Devon E. Hinton, Judith V. Jordan, Jon Kabat-Zinn, David Leisner, Judy Reiner Platt, Susan M. Pollak, Ronal Siegal, David A. Sieberweig và Barent Walsh.
14/09/2013(Xem: 20501)
Hòa thượng Thích Đạt Đạo, thế danh Huỳnh Văn Hà, sinh năm Tân Mão (1951) tại xã Hạnh Thông, Quận Gò Vấp, tỉnh Gia Định, nay là Thành phố Hồ Chí Minh. Thân phụ là Cụ Ông Huỳnh Văn Chánh. Thân mẫu là Cụ Bà Lê Thị Kia, pháp danh Diệu Ca. II. Thời kỳ xuất gia học Đạo Vốn sinh ra trong một gia đình Phật tử thuần thành, nhiều đời tin kính Tam bảo, từ nhỏ Hòa thượng đã có thiện duyên với Phật pháp, được Cụ Ông, Cụ Bà thường xuyên dẫn đi chùa chiêm bái và lễ Phật. Năm 11 tuổi, Hòa thượng quy y năm giới với Hòa thượng Bổn sư thượng Đức hạ Chơn, pháp danh là Quảng Trí và sinh hoạt Gia đình Phật tử Quảng Hương. Với tâm nguyện muốn xuất gia học đạo, năm 13 tuổi (1964), Hòa thượng được Hòa thượng Bổn sư cho phép thế phát xuất gia và hành điệu tại chùa Long Huê, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh. Sau đó, Hòa thượng vào tu học ở Tu viện Quảng Hương Già Lam, từ năm 1966 - 1968.
12/09/2013(Xem: 8748)
Tôi mới nhận được một tin đáng lưu tâm. Đó là Ông Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon(Phan Cơ Văn) là người gốc Việt Nam có dòng dõi với Phan Huy Chú. Trước đây tôi có đọc bộ sách lịch sử về VN của Bác Sĩ Trân Đại Sĩ ở Pháp viết về dòng dõi của Hoàng Tử Lý Long Tường vào giữa thế kỷ thứ 13 tại Bắc Hàn (rất hay), sau đó được biết Ông Lý Thừa Vãng Tổng Thống Nam Hàn cũng có nguồn gốc từ nhà Lý của VN và Tổng Thống Đài Laon Lý Kính Huy cũng dòng dõi nhà Lý nầy. Nay được biết thêm Ông Ban Ki Moon của Nam Hàn cũng gốc gác từ VN. Như vậy cũng là một niềm vui, nhưng xin kiểm điểm lại việc nầy. Ở Đức, tôi có thể liên lạc với Dr. Phan Huy Oánh là người nhà với Ông Phan Huy Qúat để dò hỏi thêm việc nầy. Đây là những chứng nhân của lịch sử cần nên quan tâm.
07/09/2013(Xem: 19682)
¨ THƯ TÒA SOẠN, trang 2 ¨ TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 ¨ CÁO BẠCH TANG LỄ HT. THÍCH MINH TÂM (GHPGVNTN Âu Châu), trang 7 ¨ ĐÔI LỜI CẢM NIỆM VỀ SỰ VIÊN TỊCH CỦA HT THÍCH MINH TÂM (thơ điếu của HT Thích Thắng Hoan), trang 8 ¨ TƯỞNG NIỆM HT. THÍCH MINH TÂM (thơ HT. Thích Nguyên An), trang 8 ¨ XƯNG TÁN CÔNG HẠNH CỦA CỐ TRƯỞNG LÃO HT. THÍCH MINH TÂM (HT. Thích Tín Nghĩa), trang 9 ¨ ĐIỆN THƯ PHÂN ƯU (GHPGVNTN Hoa Kỳ), trang 10 ¨ SƠ LƯỢC TIỂU SỬ HT. THÍCH MINH TÂM (GHPGVNTN Âu Châu và Môn đồ pháp quyến phụng soạn), trang 11 ¨ CẢM NIỆM ÂN SƯ (ai văn của Môn đồ pháp quyến HT. Thích Minh Tâm), trang 12
07/09/2013(Xem: 4571)
Vừa ở khóa Tu học về được 2 ngày, còn mang theo niềm vui, với những gương mặt thân yêu của Quí Thầy, hơi ấm của tình bạn đang vây quanh con; không ngờ chị bạn cùng khóa Tu học gọi điện thoại cho biết Thầy vừa viên tịch tại Phần Lan. Một hung tin như trong mộng làm con quá đỗi bàng hoàng! Làm sao con có thể tin được vì con vừa tham dự khóa Tu học Phật Pháp Âu Châu lần thứ 25 ở Turku- Finland về. Mới đó mà! Thầy mới khai thị cho khóa học, cấp lớp chúng con đã được Thầy giảng dạy một buổi và hằng ngày Thầy đã đến đạo tràng thọ trai cùng Tăng Chúng; động viên cho hàng Phật tử đang hiện diện. Thầy đã vui với thành quả số Phật tử tham dự: 837 người, ngoài sự dự đoán của ban tổ chức vì đường sá xa xôi và tốn kém. Vậy mà tinh thần học Phật vẫn dâng cao!
29/08/2013(Xem: 9843)
THẦY GIÁO LÀNG TÔI (Kính tặng TT.Thích Liễu Pháp, trụ trì chùa Thiên Xá, Đồng Đế, Nha Trang) TỊNH MINH
27/08/2013(Xem: 13697)
Thiền tông truyền sang Trung Hoa vào thế kỷ thứ VI, do Tổ Bồ-đề-đạt-ma (Bodhidharma). Đến thế kỷ thứ VII, Thiền tông truyền sang Việt Nam, do Tổ Tỳ-ni-đa-lưu-chi (Vinitaruci). Thế là, Thiền tông có mặt ở Việt Nam sau Trung Hoa một thế kỷ. Đến thế kỷ thứ XII, Thiền tông mới truyền vào Nhật Bản. So Việt Nam với Nhật Bản, Thiền tông truyền bá ở Việt Nam trước Nhật Bản đến năm thế kỷ. Song ở Trung Hoa, Nhật Bản về sử liệu Thiền tông rất dồi dào, còn ở Việt Nam thật là nghèo nàn đáo để. Sự nghèo nàn ấy, không phải Thiền tông Việt Nam truyền bá kém cỏi hơn các nước Phật giáo bạn. Bởi vì nhìn theo dòng lịch sử, từ thế kỷ thứ VII cho đến thế kỷ thứ XIV, chúng ta thấy Thiền tông đã nắm trọn vẹn tinh thần truyền bá Phật giáo và cả văn hóa dân tộc Việt Nam. Những sách vở của người Việt Nam sáng tác hoặc ghi chép lại, không kém gì các nước Phật giáo bạn. Nào là Đại Nam Thiền Uyển Truyền Đăng Lục, Liệt Tổ Truyện, Nam Minh Thiền Lục, Thánh Đăng Thực Lục, Liệt Tổ Yếu Ngữ, Kế Đăng Lục, Tam Tổ T
22/08/2013(Xem: 7827)
Tin buồn do HT Như Điển gởi đi từ Phần Lan vào chiều ngày 8-8-2013, đã làm bàng hoàng và xúc động đối với Tăng Ni và Phật tử gần xa. Ôn đã ra đi trong lúc Phật sự còn ngổn ngang, bỏ lại phía sau mình niềm tiếc nhớ kính thương khôn nguôi của tất cả mọi người.
18/08/2013(Xem: 7427)
Hồi nhỏ ba tôi đưa tôi lên qui y với Hoà thượng Đôn Hậu tại chùa Thiên Mụ (1956), nhưng sau lớn lên học Đại học, vào Đoàn Sinh viên Phật tử (1963), tôi lại tham gia "tranh đấu Phật giáo" tại chùa Từ Đàm (1963-1966). Hoà thượng Thích Thiện Siêu là một trong những vị lãnh đạo của tôi lúc ấy.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]