Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 106: Phẩm So Sánh Công Đức 4

07/07/201523:02(Xem: 13598)
Quyển 106: Phẩm So Sánh Công Đức 4


httringhiem-qd

Tập 03

Quyển 106
Phẩm So Sánh Công Đức 4
Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm
Diễn đọc: Cư Sĩ Chánh Trí



 

Lúc bấy giờ, trong hội có chúng trời Tứ-đại-vương cho đến trời Sắc-cứu-cánh, cùng lúc biến hóa ra các thứ hoa, y phục, anh lạc và hương vòng v.v… vui mừng ở giữa hư không, rải hoa cúng Phật, chấp tay cung kính cùng bạch Phật: Nguyện cho Bát-nhã-ba-la-mật-đa này tồn tại lâu dài trong cõi người châu Thiệm bộ. Vì sao? Vì nếu như Bát-nhã-ba-la-mật-đa được truyền bá rộng rãi trong cõi người châu Thiệm bộ, thì nên biết, chẳng những ở nơi này Phật bảo, Pháp bảo và Bí-sô Tăng bảo tồn tại lâu dài chẳng diệt mà đối với thế giới ba lần ngàn này cho đến vô lượng, vô số, vô biên cõi Phật trong mười phương cũng lại như vậy. Do đó, chúng đại Bồ-tát và hạnh thù thắng cũng có thể biết rõ.

Bạch Thế Tôn! Tùy theo địa phương có thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... đem lòng tin thanh tịnh sao chép, thọ trì Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm như thế, rồi cung kính, cúng dường, nên biết, xứ ấy có ánh sáng mầu nhiệm, trừ diệt mê mờ, sanh các điều lợi ích thù thắng.

Lúc bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích và các thiên chúng: Đúng vậy! Đúng vậy! Như các ông đã nói. Nếu như Bát-nhã-ba-la-mật-đa được truyền bá rộng rãi trong cõi người châu Thiệm bộ, thì nên biết, chẳng những ở nơi này Phật bảo, pháp bảo, Bí-sô Tăng bảo, tồn tại lâu dài, chẳng diệt mà đối với thế giới ba lần ngàn này cho đến vô lượng, vô số, vô biên cõi Phật trong mười phương cũng lại như vậy. Do đó, chúng đại Bồ-tát và hạnh thù thắng cũng có thể biết rõ. Địa phương nào có thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... đem lòng tin thanh tịnh, sao chép, thọ trì Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm như thế, rồi cung kính cúng dường, nên biết, ở nơi ấy có ánh sáng nhiệm mầu, trừ diệt mê mờ, sanh các điều lợi ích thù thắng.

Khi ấy, các chúng trời lại biến hóa ra các thứ hoa, y phục, anh lạc và hương vòng tuyệt diệu của cõi trời để rải cúng Phật, rồi lại bạch Phật: Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, vì loài hữu tình, tuyên thuyết, truyền bá rộng rãi thì thiện nam tử, thiên nữ nhơn v.v… ấy, chẳng bị ma và quyến thuộc của ma dễ dàng làm hại. Chư thiên chúng con thường đi theo thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy, hết lòng ủng hộ khiến không tổn hại. Vì sao? Vì thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy, chư thiên chúng con cung kính phụng sự như Phật, hoặc như thân cận Phật, như tôn trọng Pháp.

Lúc bấy giờ, trời Đế Thích bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa này chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, vì loài hữu tình, tuyên thuyết, truyền bá rộng rãi thì thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... ấy, chẳng phải chỉ một ít thiện căn có thể làm được việc ấy mà nhất định những đời trước ở chỗ vô lượng các đức Phật đã tu tập nhiều thiện căn, phát nhiều chánh nguyện, cúng dường nhiều đức Phật, được nhiều thiện tri thức hỗ trợ, mới có thể đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa thậm thâm này, chí tâm lắng nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, vì loài hữu tình, tuyên thuyết, truyền bá rộng rãi.

Bạch Thế Tôn! Muốn chứng đắc trí nhất thiết trí của chư Phật, phải cầu Bát-nhã-ba-la-mật-đa; muốn chứng đắc Bát-nhã-ba-la-mật-đa, phải cầu trí nhất thiết trí của chư Phật. Vì sao? Vì trí nhất thiết trí của chư Phật đã chứng đắc, đều được phát sanh từ Bát-nhã-ba-la-mật-đa; vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế đều được phát sanh từ trí nhất thiết trí của chư Phật. Vì sao? Vì trí nhất thiết trí của chư Phật đã chứng đắc chẳng khác Bát-nhã-ba-la-mật-đa; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế chẳng khác trí nhất thiết trí của chư Phật; trí nhất thiết trí của chư Phật đã chứng đắc cùng với Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, nên biết, không hai, cũng không hai phần.

Lúc bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích: Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như ông đã nói! Kiều Thi Ca! Muốn chứng đắc trí nhất thiết trí của chư Phật, phải cầu Bát-nhã-ba-la-mật-đa; muốn chứng đắc Bát-nhã-ba-la-mật-đa, phải cầu trí nhất thiết trí của chư Phật. Vì sao? Vì trí nhất thiết trí của chư Phật đã chứng đắc, đều được phát sanh từ Bát-nhã-ba-la-mật-đa; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế đều được phát sanh từ trí nhất thiết trí của chư Phật. Vì sao? Vì trí nhất thiết trí của chư Phật đã chứng đắc chẳng khác Bát-nhã-ba-la-mật-đa; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế chẳng khác trí nhất thiết trí của chư Phật. Trí nhất thiết trí của chư Phật đã chứng đắc cùng với Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, nên biết, không hai, cũng không hai phần. Vì vậy nên công đức oai thần của Bát-nhã-ba-la-mật-đa thật là hy hữu.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Khánh Hỷ bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì duyên cớ gì chẳng xưng tán rộng rãi bố thí Ba-la-mật-đa, tịnh giới Ba-la-mật-đa, an nhẫn Ba-la-mật-đa, tinh tấn Ba-la-mật-đa, tịnh lự Ba-la-mật-đa mà chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa?

Bạch Thế Tôn! Vì duyên cớ gì chẳng xưng tán rộng rãi cái không nội, cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh mà chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa?

Bạch Thế Tôn! Vì duyên cớ gì chẳng xưng tán rộng rãi chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì mà chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa?

Bạch Thế Tôn! Vì duyên cớ gì chẳng xưng tán rộng rãi Thánh đế khổ, Thánh đế tập, Thánh đế diệt, Thánh đế đạo mà chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa?

Bạch Thế Tôn! Vì duyên cớ gì chẳng xưng tán rộng rãi bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc mà chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa?

Bạch Thế Tôn! Vì duyên cớ gì chẳng xưng tán rộng rãi tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mà chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa?

Bạch Thế Tôn! Vì duyên cớ gì chẳng xưng tán rộng rãi bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo mà chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa?

Bạch Thế Tôn! Vì duyên cớ gì chẳng xưng tán rộng rãi pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, pháp môn giải thoát vô nguyện mà chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa?

Bạch Thế Tôn! Vì duyên cớ gì chẳng xưng tán rộng rãi năm loại mắt, sáu phép thần thông mà chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa?

Bạch Thế Tôn! Vì duyên cớ gì chẳng xưng tán rộng rãi mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng mà chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa?

Bạch Thế Tôn! Vì duyên cớ gì chẳng xưng tán rộng rãi pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả mà chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa?

Bạch Thế Tôn! Vì duyên cớ gì chẳng xưng tán rộng rãi trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mà chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa?

Bạch Thế Tôn! Vì duyên cớ gì chẳng xưng tán rộng rãi tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa mà chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa?

Bạch Thế Tôn! Vì duyên cớ gì chẳng xưng tán rộng rãi hạnh của đại Bồ-tát mà chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa?

Bạch Thế Tôn! Vì duyên cớ gì chẳng xưng tán rộng rãi quả vị giác ngộ cao tột mà chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa?

Phật dạy; Khánh Hỷ! Ngươi nay nên biết, vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa này đối với bố thí Ba-la-mật-đa, tịnh giới Ba-la-mật-đa, an nhẫn Ba-la-mật-đa, tinh tấn Ba-la-mật-đa, tịnh lự Ba-la-mật-đa kia là pháp tôn quí, là pháp hướng dẫn cho nên ta chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Khánh Hỷ! Nên biết, vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa này đối với cái không nội, cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh kia là pháp tôn quí, là pháp hướng dẫn cho nên ta chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Khánh Hỷ! Nên biết, vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa này đối với chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì kia là pháp tôn quí, là pháp hướng dẫn cho nên ta chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Khánh Hỷ! Nên biết, vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa này đối với Thánh đế khổ, Thánh đế tập, Thánh đế diệt, Thánh đế đạo kia là pháp tôn quí, là pháp hướng dẫn cho nên ta chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Khánh Hỷ! Nên biết, vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa này đối với bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc kia là pháp tôn quí, là pháp hướng dẫn cho nên ta chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Khánh Hỷ! Nên biết, vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa này đối với tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ kia là pháp tôn quí, là pháp hướng dẫn cho nên ta chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Khánh Hỷ! Nên biết, vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa này đối với bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo kia là pháp tôn quí, là pháp hướng dẫn cho nên ta chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Khánh Hỷ! Nên biết, vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa này đối với pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, pháp môn giải thoát vô nguyện kia là pháp tôn quí, là pháp hướng dẫn cho nên ta chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Khánh Hỷ! Nên biết, vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa này đối với năm loại mắt, sáu phép thần thông kia là pháp tôn quí, là pháp hướng dẫn cho nên ta chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Khánh Hỷ! Nên biết, vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa này đối với mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng kia là pháp tôn quí, là pháp hướng dẫn cho nên ta chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Khánh Hỷ! Nên biết, vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa này đối với pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả kia là pháp tôn quí, là pháp hướng dẫn cho nên ta chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Khánh Hỷ! Nên biết, vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa này đối với trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng kia là pháp tôn quí, là pháp hướng dẫn cho nên ta chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Khánh Hỷ! Nên biết, vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa này đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa kia là pháp tôn quí, là pháp hướng dẫn cho nên ta chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Khánh Hỷ! Nên biết, vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa này đối với hạnh của đại Bồ-tát kia là pháp tôn quí, là pháp hướng dẫn cho nên ta chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Khánh Hỷ! Nên biết, vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa này đối với quả vị giác ngộ cao tột kia là pháp tôn quí, là pháp hướng dẫn cho nên ta chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Phật dạy; Khánh Hỷ! Theo ý ông thì sao, nếu chẳng hồi hướng trí nhất thiết trí mà tu bố thí Ba-la-mật-đa thì có thể gọi là tu hành đúng đắn bố thí Ba-la-mật-đa chăng?

Khánh Hỷ đáp: Bạch Thế Tôn! Không!

Phật dạy: Khánh Hỷ! Cốt yếu là do hồi hướng trí nhất thiết trí mà tu bố thí Ba-la-mật-đa thì mới có thể gọi là tu hành đúng đắn bố thí Ba-la-mật-đa.

Phật dạy: Khánh Hỷ! Theo ý ông thì sao, nếu chẳng hồi hướng trí nhất thiết trí mà tu tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì có thể gọi là tu hành đúng đắn tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa chăng?

Khánh Hỷ đáp: Bạch Thế Tôn! Không!

Phật dạy: Khánh Hỷ! Cốt yếu là do hồi hướng trí nhất thiết trí mà tu tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-Ba-la-mật-đa thì mới có thể gọi là tu hành đúng đắn tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Cho nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa này đối với bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự Ba-la-mật-đa kia là pháp tôn quí, là pháp hướng dẫn nên ta chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Phật dạy: Khánh Hỷ! Theo ý ông thì sao, nếu chẳng hồi hướng trí nhất thiết trí mà an trụ pháp không nội thì có thể gọi là chơn an trụ pháp không nội chăng?

Khánh Hỷ đáp: Bạch Thế Tôn! Không!

Phật dạy: Khánh Hỷ! Cốt yếu là do hồi hướng trí nhất thiết trí mà an trụ pháp không nội thì mới có thể gọi là chơn an trụ pháp không nội.

Phật dạy: Khánh Hỷ! Theo ý ông thì sao, nếu chẳng hồi hướng trí nhất thiết trí mà an trụ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh thì có thể gọi là chơn an trụ pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh chăng?

Khánh Hỷ đáp: Bạch Thế Tôn! Không!

Phật dạy: Khánh Hỷ! Cốt yếu là do hồi hướng trí nhất thiết trí mà an trụ pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh thì mới có thể gọi là chơn an trụ pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh. Cho nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa này đối với pháp không nội cho đến pháp không không tánh tự tánh kia là pháp tôn quí, là pháp hướng dẫn nên ta chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Phật dạy: Khánh Hỷ! Theo ý ông thì sao, nếu chẳng hồi hướng trí nhất thiết trí mà an trụ chơn như thì có thể gọi là chơn an trụ chơn như chăng?

Khánh Hỷ đáp: Bạch Thế Tôn! Không!

Phật dạy: Khánh Hỷ! Cốt yếu là do hồi hướng trí nhất thiết trí mà an trụ chơn như thì mới có thể gọi là chơn an trụ chơn như.

Phật dạy: Khánh Hỷ! Theo ý ông thì sao, nếu chẳng hồi hướng trí nhất thiết trí mà an trụ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì thì có thể gọi là chơn an trụ pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì chăng?

Khánh Hỷ đáp: Bạch Thế Tôn! Không!

Phật dạy: Khánh Hỷ! Cốt yếu là do hồi hướng trí nhất thiết trí mà an trụ pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì thì mới có thể gọi là chơn an trụ pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì. Cho nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa này đối với chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì kia là pháp tôn quí, là pháp hướng dẫn nên ta chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Phật dạy: Khánh Hỷ! Theo ý ông thì sao, nếu chẳng hồi hướng trí nhất thiết trí mà an trụ Thánh đế khổ thì có thể gọi là chơn an trụ Thánh đế khổ chăng?

Khánh Hỷ đáp: Bạch Thế Tôn! Không!

Phật dạy: Khánh Hỷ! Cốt yếu là do hồi hướng trí nhất thiết trí mà an trụ Thánh đế khổ thì mới có thể gọi là chơn an trụ Thánh đế khổ.

Phật dạy: Khánh Hỷ! Theo ý ông thì sao, nếu chẳng hồi hướng trí nhất thiết trí mà an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo thì có thể gọi là chơn an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo chăng?

Khánh Hỷ đáp: Bạch Thế Tôn! Không!

Phật dạy: Khánh Hỷ! Cốt yếu là do hồi hướng trí nhất thiết trí mà an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo thì mới có thể gọi là chơn an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo. Cho nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa này đối với Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo kia là pháp tôn quí, là pháp hướng dẫn nên ta chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Phật dạy: Khánh Hỷ! Theo ý ông thì sao, nếu chẳng hồi hướng trí nhất thiết trí mà tu bốn tịnh lự thì có thể gọi là tu hành đúng đắn bốn tịnh lự chăng?

Khánh Hỷ đáp: Bạch Thế Tôn! Không!

Phật dạy: Khánh Hỷ! Cốt yếu là do hồi hướng trí nhất thiết trí mà tu bốn tịnh lự thì mới có thể gọi là tu hành đúng đắn bốn tịnh lự.

Phật dạy: Khánh Hỷ! Theo ý ông thì sao, nếu chẳng hồi hướng trí nhất thiết trí mà tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc thì có thể gọi là tu hành đúng đắn bốn vô lượng, bốn định vô sắc chăng?

Khánh Hỷ đáp: Bạch Thế Tôn! Không!

Phật dạy: Khánh Hỷ! Cốt yếu là do hồi hướng trí nhất thiết trí mà tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc thì mới có thể gọi là tu hành đúng đắn bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Cho nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa này đối với bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc kia là pháp tôn quí, là pháp hướng dẫn nên ta chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Phật dạy: Khánh Hỷ! Theo ý ông thì sao, nếu chẳng hồi hướng trí nhất thiết trí mà tu tám giải thoát thì có thể gọi là tu hành đúng đắn tám giải thoát chăng?

Khánh Hỷ đáp: Bạch Thế Tôn! Không!

Phật dạy: Cốt yếu là do hồi hướng trí nhất thiết trí mà tu tám giải thoát thì mới có thể gọi là tu hành đúng đắn tám giải thoát.

Phật dạy: Khánh Hỷ! Theo ý ông thì sao, nếu chẳng hồi hướng trí nhất thiết trí mà tu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ thì có thể gọi là tu hành đúng đắn tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chăng?

Khánh Hỷ đáp: Bạch Thế Tôn! Không!

Phật dạy: Khánh Hỷ! Cốt yếu là do hồi hướng trí nhất thiết trí mà tu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ thì mới có thể gọi là tu hành đúng đắn tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ. Cho nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa này đối với tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ kia là pháp tôn quí, pháp hướng dẫn, nên ta chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Phật dạy: Khánh Hỷ! Theo ý ông thì sao, nếu chẳng hồi hướng trí nhất thiết trí mà tu bốn niệm trụ thì có thể gọi là tu hành đúng đắn bốn niệm trụ chăng?

Khánh Hỷ đáp: Bạch Thế Tôn! Không!

Phật dạy: Khánh Hỷ! Cốt yếu là do hồi hướng trí nhất thiết trí mà tu bốn niệm trụ thì mới có thể gọi là tu hành đúng đắn bốn niệm trụ.

Phật dạy: Khánh Hỷ! Theo ý ông thì sao, nếu chẳng hồi hướng trí nhất thiết trí mà tu bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo thì có thể gọi là tu hành đúng đắn bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, chăng?

Khánh Hỷ đáp: Bạch Thế Tôn! Không!

Phật dạy: Khánh Hỷ! Cốt yếu là do hồi hướng trí nhất thiết trí mà tu bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo thì mới có thể gọi là tu hành đúng đắn bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo. Cho nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa này đối với bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo kia là pháp tôn quí, pháp hướng dẫn, nên ta chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Phật dạy: Khánh Hỷ! Theo ý ông thì sao, nếu chẳng hồi hướng trí nhất thiết trí mà tu pháp môn giải thoát không thì có thể gọi là tu hành đúng đắn pháp môn giải thoát không chăng?

Khánh Hỷ đáp: Bạch Thế Tôn! Không!

Phật dạy: Khánh Hỷ! Cốt yếu là do hồi hướng trí nhất thiết trí mà tu pháp môn giải thoát không, thì mới có thể gọi là tu hành đúng đắn pháp môn giải thoát không.

Phật dạy: Khánh Hỷ! Theo ý ông thì sao, nếu chẳng hồi hướng trí nhất thiết trí mà tu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, thì mới có thể gọi là tu hành đúng đắn pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chăng?

Khánh Hỷ đáp: Bạch Thế Tôn! Không!

Phật dạy: Khánh Hỷ! Cốt yếu là do hồi hướng trí nhất thiết trí mà tu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, thì mới có thể gọi là tu hành đúng đắn pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Cho nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa này đối với Pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, pháp môn giải thoát vô nguyện kia là pháp tôn quí, pháp hướng dẫn, nên ta chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Phật dạy: Khánh Hỷ! Theo ý ông thì sao, nếu chẳng hồi hướng trí nhất thiết trí mà tu năm loại mắt thì có thể gọi là tu hành đúng đắn năm loại mắt chăng?

Khánh Hỷ đáp: Bạch Thế Tôn! Không!

Phật dạy: Khánh Hỷ! Cốt yếu là do hồi hướng trí nhất thiết trí mà tu năm loại mắt thì mới có thể gọi là tu hành đúng đắn năm loại mắt.

Phật dạy: Khánh Hỷ! Theo ý ông thì sao, nếu chẳng hồi hướng trí nhất thiết trí mà tu sáu phép thần thông thì có thể gọi là tu hành đúng đắn sáu phép thần thông chăng?

Khánh Hỷ đáp: Bạch Thế Tôn! Không!

Phật dạy: Khánh Hỷ! Cốt yếu là do hồi hướng trí nhất thiết trí mà tu sáu phép thần thông, thì mới có thể gọi là tu hành đúng đắn sáu phép thần thông. Cho nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa này đối với năm loại mắt, sáu phép thần thông kia, là pháp tôn quí, pháp hướng dẫn, nên ta chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Phật dạy: Khánh Hỷ! Theo ý ông thì sao, nếu chẳng hồi hướng trí nhất thiết trí mà tu mười lực của Phật thì có thể gọi là tu hành đúng đắn mười lực của Phật chăng?

Khánh Hỷ đáp: Bạch Thế Tôn! Không!

Phật dạy: Khánh Hỷ! Cốt yếu là do hồi hướng trí nhất thiết trí mà tu mười lực của Phật, thì mới có thể gọi là tu hành đúng đắn mười lực của Phật.

 

Phật dạy: Khánh Hỷ! Theo ý ông thì sao, nếu chẳng hồi hướng trí nhất thiết trí mà tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng thì có thể gọi là tu hành đúng đắn bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng chăng?

Khánh Hỷ đáp: Bạch Thế Tôn! Không!

Phật dạy: Khánh Hỷ! Cốt yếu là do hồi hướng trí nhất thiết trí mà tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, thì mới có thể gọi là tu hành đúng đắn bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Cho nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa này đối với mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng kia là pháp tôn quí, pháp hướng dẫn, nên ta chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Phật dạy: Khánh Hỷ! Theo ý ông thì sao, nếu chẳng hồi hướng trí nhất thiết trí mà tu pháp không quên mất thì có thể gọi là tu hành đúng đắn pháp không quên mất chăng?

Khánh Hỷ đáp: Bạch Thế Tôn! Không!

Phật dạy: Khánh Hỷ! Cốt yếu là do hồi hướng trí nhất thiết trí mà tu pháp không quên mất, thì mới có thể gọi là tu hành đúng đắn pháp không quên mất.

Phật dạy: Khánh Hỷ! Theo ý ông thì sao, nếu chẳng hồi hướng trí nhất thiết trí mà tu tánh luôn luôn xả thì có thể gọi là tu hành đúng đắn tánh luôn luôn xả chăng?

Khánh Hỷ đáp: Bạch Thế Tôn! Không!

Phật dạy: Khánh Hỷ! Cốt yếu là do hồi hướng trí nhất thiết trí mà tu tánh luôn luôn xả, thì mới có thể gọi là tu hành đúng đắn tánh luôn luôn xả. Cho nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa này đối với pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả kia là pháp tôn quí, pháp hướng dẫn, nên ta chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Phật dạy: Khánh Hỷ! Theo ý ông thì sao, nếu chẳng hồi hướng trí nhất thiết trí mà tu trí nhất thiết thì có thể gọi là tu hành đúng đắn trí nhất thiết chăng?

Khánh Hỷ đáp: Bạch Thế Tôn! Không!

Phật dạy: Khánh Hỷ! Cốt yếu là do hồi hướng trí nhất thiết trí mà tu trí nhất thiết thì mới có thể gọi là tu hành đúng đắn trí nhất thiết.

Phật dạy: Khánh Hỷ! Theo ý ông thì sao, nếu chẳng hồi hướng trí nhất thiết trí mà tu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng thì có thể gọi là tu hành đúng đắn trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chăng?

Khánh Hỷ đáp: Bạch Thế Tôn! Không!

Phật dạy: Khánh Hỷ! Cốt yếu là do hồi hướng trí nhất thiết trí mà tu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, thì mới có thể gọi là tu hành đúng đắn trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Cho nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa này đối với trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng kia là pháp tôn quí, pháp hướng dẫn cho nên ta chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Phật dạy: Khánh Hỷ! Theo ý ông thì sao, nếu chẳng hồi hướng trí nhất thiết trí mà tu tất cả pháp môn Đà-la-ni thì có thể gọi là tu hành đúng đắn tất cả pháp môn Đà-la-ni chăng?

Khánh Hỷ đáp: Bạch Thế Tôn! Không!

Phật dạy: Khánh Hỷ! Cốt yếu là do hồi hướng trí nhất thiết trí mà tu tất cả pháp môn Đà-la-ni, thì mới có thể gọi là tu hành đúng đắn tất cả pháp môn Đà-la-ni.

Phật dạy: Khánh Hỷ! Theo ý ông thì sao, nếu chẳng hồi hướng trí nhất thiết trí mà tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa thì có thể gọi là tu hành đúng đắn tất cả pháp môn Tam-ma-địa chăng?

Khánh Hỷ đáp: Bạch Thế Tôn! Không!

Phật dạy: Khánh Hỷ! Cốt yếu là do hồi hướng trí nhất thiết trí mà tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa, thì mới có thể gọi là tu hành đúng đắn tất cả pháp môn Tam-ma-địa. Cho nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa này đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa kia là pháp tôn quí, pháp hướng dẫn, nên ta chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Phật dạy: Khánh Hỷ! Theo ý ông thì sao, nếu chẳng hồi hướng trí nhất thiết trí mà tu hạnh đại Bồ-tát thì có thể gọi là tu hành đúng đắn hạnh đại Bồ-tát chăng?

Khánh Hỷ đáp: Bạch Thế Tôn! Không!

Phật dạy: Khánh Hỷ! Cốt yếu là do hồi hướng trí nhất thiết trí mà tu hạnh đại Bồ-tát, thì mới có thể gọi là tu hành đúng đắn hạnh đại Bồ-tát. Cho nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa này đối với hạnh đại Bồ-tát kia là pháp tôn quí, pháp hướng dẫn, nên ta chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Phật dạy: Khánh Hỷ! Theo ý ông thì sao, nếu chẳng hồi hướng trí nhất thiết trí mà tu quả vị giác ngộ cao tột thì có thể gọi là tu hành đúng đắn quả vị giác ngộ cao tột chăng?

Khánh Hỷ đáp: Bạch Thế Tôn! Không!

Phật dạy: Khánh Hỷ! Cốt yếu là do hồi hướng trí nhất thiết trí mà tu quả vị giác ngộ cao tột, thì mới có thể gọi là tu hành đúng đắn quả vị giác ngộ cao tột. Cho nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa này đối với quả vị giác ngộ cao tột kia là pháp tôn quí, pháp hướng dẫn, nên ta chỉ xưng tán rộng rãi Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Cụ thọ Khánh Hỷ lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là hồi hướng trí nhất thiết trí để tu bố thí Ba-la-mật-đa?

Phật dạy: Khánh Hỷ! Lấy vô nhị làm phương tiện, vô sanh làm phương tiện, vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bố thí Ba-la-mật-đa thì gọi là hồi hướng trí nhất thiết trí để tu bố thí Ba-la-mật-đa.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là hồi hướng trí nhất thiết trí để tu tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa?

Khánh Hỷ! Lấy vô nhị làm phương tiện, vô sanh làm phương tiện, vô sở đắc làm phương tiện, tu tập tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì gọi là hồi hướng trí nhất thiết trí để tu tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là hồi hướng trí nhất thiết trí để an trụ pháp không nội?

Khánh Hỷ! Lấy vô nhị làm phương tiện, vô sanh làm phương tiện, vô sở đắc làm phương tiện an trụ pháp không nội thì gọi là hồi hướng trí nhất thiết trí để an trụ pháp không nội.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là hồi hướng trí nhất thiết trí để an trụ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh?

Khánh Hỷ! Lấy vô nhị làm phương tiện, vô sanh làm phương tiện, vô sở đắc làm phương tiện an trụ pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh, thì gọi là hồi hướng trí nhất thiết trí để an trụ pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là hồi hướng trí nhất thiết trí để an trụ chơn như?

Khánh Hỷ! Lấy vô nhị làm phương tiện, vô sanh làm phương tiện, vô sở đắc làm phương tiện an trụ chơn như thì gọi là hồi hướng trí nhất thiết trí để an trụ chơn như.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là hồi hướng trí nhất thiết trí để an trụ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì?

Khánh Hỷ! Lấy vô nhị làm phương tiện, vô sanh làm phương tiện, vô sở đắc làm phương tiện, an trụ pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì thì gọi là hồi hướng trí nhất thiết trí để an trụ pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là hồi hướng trí nhất thiết trí để an trụ Thánh đế khổ?

Khánh Hỷ! Lấy vô nhị làm phương tiện, vô sanh làm phương tiện, vô sở đắc làm phương tiện an trụ Thánh đế khổ thì gọi là hồi hướng trí nhất thiết trí để an trụ Thánh đế khổ.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là hồi hướng trí nhất thiết trí để an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo?

Khánh Hỷ! Lấy vô nhị làm phương tiện, vô sanh làm phương tiện, vô sở đắc làm phương tiện, an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo thì gọi là hồi hướng trí nhất thiết trí để an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là hồi hướng trí nhất thiết trí để tu bốn tịnh lự?

Khánh Hỷ! Lấy vô nhị làm phương tiện, vô sanh làm phương tiện, vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bốn tịnh lự thì gọi là hồi hướng trí nhất thiết trí để tu bốn tịnh lự.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là hồi hướng trí nhất thiết trí để tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc?

Khánh Hỷ! Lấy vô nhị làm phương tiện, vô sanh làm phương tiện, vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bốn vô lượng, bốn định vô sắc thì gọi là hồi hướng trí nhất thiết trí để tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là hồi hướng trí nhất thiết trí để tu tám giải thoát?

Khánh Hỷ! Lấy vô nhị làm phương tiện, vô sanh làm phương tiện, vô sở đắc làm phương tiện, tu tập tám giải thoát thì gọi là hồi hướng trí nhất thiết trí để tu tám giải thoát.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là hồi hướng trí nhất thiết trí để tu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ ?

Khánh Hỷ! Lấy vô nhị làm phương tiện, vô sanh làm phương tiện, vô sở đắc làm phương tiện, tu tập tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ thì gọi là hồi hướng trí nhất thiết trí để tu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là hồi hướng trí nhất thiết trí để tu bốn niệm trụ?

Khánh Hỷ! Lấy vô nhị làm phương tiện, vô sanh làm phương tiện, vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bốn niệm trụ thì gọi là hồi hướng trí nhất thiết trí để tu bốn niệm trụ.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là hồi hướng trí nhất thiết trí để tu bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo?

Khánh Hỷ! Lấy vô nhị làm phương tiện, vô sanh làm phương tiện, vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo thì gọi là hồi hướng trí nhất thiết trí để tu bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là hồi hướng trí nhất thiết trí để tu pháp môn giải thoát không?

Khánh Hỷ! Lấy vô nhị làm phương tiện, vô sanh làm phương tiện, vô sở đắc làm phương tiện, tu tập pháp môn giải thoát không, thì gọi là hồi hướng trí nhất thiết trí để tu pháp môn giải thoát không.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là hồi hướng trí nhất thiết trí để tu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện?

Khánh Hỷ! Lấy vô nhị làm phương tiện, vô sanh làm phương tiện, vô sở đắc làm phương tiện, tu tập pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện thì gọi là hồi hướng trí nhất thiết trí để tu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là hồi hướng trí nhất thiết trí để tu năm loại mắt?

Khánh Hỷ! Lấy vô nhị làm phương tiện, vô sanh làm phương tiện, vô sở đắc làm phương tiện, tu tập năm loại mắt thì gọi là hồi hướng trí nhất thiết trí để tu năm loại mắt.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là hồi hướng trí nhất thiết trí để tu sáu phép thần thông?

Khánh Hỷ! Lấy vô nhị làm phương tiện, vô sanh làm phương tiện, vô sở đắc làm phương tiện, tu tập sáu phép thần thông thì gọi là hồi hướng trí nhất thiết trí để tu sáu phép thần thông.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là hồi hướng trí nhất thiết trí để tu mười lực của Phật?

Khánh Hỷ! Lấy vô nhị làm phương tiện, vô sanh làm phương tiện, vô sở đắc làm phương tiện, tu tập mười lực của Phật thì gọi là hồi hướng trí nhất thiết trí để tu mười lực của Phật.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là hồi hướng trí nhất thiết trí để tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng?

Khánh Hỷ! Lấy vô nhị làm phương tiện, vô sanh làm phương tiện, vô sở đắc làm phương tiện, tu tập bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng thì gọi là hồi hướng trí nhất thiết trí để tu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là hồi hướng trí nhất thiết trí để tu pháp không quên mất?

Khánh Hỷ! Lấy vô nhị làm phương tiện, vô sanh làm phương tiện, vô sở đắc làm phương tiện, tu tập pháp không quên mất thì gọi là hồi hướng trí nhất thiết trí để tu pháp không quên mất.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là hồi hướng trí nhất thiết trí để tu tánh luôn luôn xả?

Khánh Hỷ! Lấy vô nhị làm phương tiện, vô sanh làm phương tiện, vô sở đắc làm phương tiện, tu tập tánh luôn luôn xả thì gọi là hồi hướng trí nhất thiết trí để tu tánh luôn luôn xả.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là hồi hướng trí nhất thiết trí để tu trí nhất thiết?

Khánh Hỷ! Lấy vô nhị làm phương tiện, vô sanh làm phương tiện, vô sở đắc làm phương tiện, tu tập trí nhất thiết thì gọi là hồi hướng trí nhất thiết trí để tu trí nhất thiết.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là hồi hướng trí nhất thiết trí để tu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng?

Khánh Hỷ! Lấy vô nhị làm phương tiện, vô sanh làm phương tiện, vô sở đắc làm phương tiện, tu tập trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng thì gọi là hồi hướng trí nhất thiết trí để tu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là hồi hướng trí nhất thiết trí để tu tất cả pháp môn Đà-la-ni?

Khánh Hỷ! Lấy vô nhị làm phương tiện, vô sanh làm phương tiện, vô sở đắc làm phương tiện, tu tất cả pháp môn Đà-la-ni thì gọi là hồi hướng trí nhất thiết trí để tu tất cả pháp môn Đà-la-ni.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là hồi hướng trí nhất thiết trí để tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa?

Khánh Hỷ! Lấy vô nhị làm phương tiện, vô sanh làm phương tiện, vô sở đắc làm phương tiện, tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa thì gọi là hồi hướng trí nhất thiết trí để tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là hồi hướng trí nhất thiết trí để tu hạnh đại Bồ-tát?

Khánh Hỷ! Lấy vô nhị làm phương tiện, vô sanh làm phương tiện, vô sở đắc làm phương tiện, tu tập hạnh đại Bồ-tát thì gọi là hồi hướng trí nhất thiết trí để tu hạnh đại Bồ-tát.

Bạch Thế Tôn! Thế nào là hồi hướng trí nhất thiết trí để tu quả vị giác ngộ cao tột?

Khánh Hỷ! Lấy vô nhị làm phương tiện, vô sanh làm phương tiện, vô sở đắc làm phương tiện, tu tập quả vị giác ngộ cao tột thì gọi là hồi hướng trí nhất thiết trí để tu quả vị giác ngộ cao tột.

Cụ Thọ Khánh Hỷ lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Lấy vô nhị nào làm phương tiện, hồi hướng trí nhất thiết trí, tu tập bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa? Lấy vô sanh nào làm phương tiện, vô sở đắc nào làm phương tiện, hồi hướng trí nhất thiết trí, tu tập bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa?

Bạch Thế Tôn! Lấy vô nhị nào làm phương tiện, hồi hướng trí nhất thiết trí, an trụ pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh? Lấy vô sanh nào làm phương tiện, vô sở đắc nào làm phương tiện, hồi hướng trí nhất thiết trí, an trụ pháp không nội cho đến pháp không không tánh tự tánh.

Bạch Thế Tôn! Lấy vô nhị nào làm phương tiện, hồi hướng trí nhất thiết trí, an trụ chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì? Lấy vô sanh nào làm phương tiện, vô sở đắc nào làm phương tiện, hồi hướng trí nhất thiết trí, an trụ chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì?

Bạch Thế Tôn! Lấy vô nhị nào làm phương tiện, hồi hướng trí nhất thiết trí, an trụ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo? Lấy vô sanh nào làm phương tiện, vô sở đắc nào làm phương tiện, hồi hướng trí nhất thiết trí, an trụ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo?

Bạch Thế Tôn! Lấy vô nhị nào làm phương tiện, hồi hướng trí nhất thiết trí, tu tập bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc? Lấy vô sanh nào làm phương tiện, vô sở đắc nào làm phương tiện, hồi hướng trí nhất thiết trí, tu tập bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc?

Bạch Thế Tôn! Lấy vô nhị nào làm phương tiện, hồi hướng trí nhất thiết trí, tu tập tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ? Lấy vô sanh nào làm phương tiện, vô sở đắc nào làm phương tiện, hồi hướng trí nhất thiết trí, tu tập tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ ?

Bạch Thế Tôn! Lấy vô nhị nào làm phương tiện, hồi hướng trí nhất thiết trí, tu tập bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo? Lấy vô sanh nào làm phương tiện, vô sở đắc nào làm phương tiện, hồi hướng trí nhất thiết trí, tu tập bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo?

Bạch Thế Tôn! Lấy vô nhị nào làm phương tiện, hồi hướng trí nhất thiết trí, tu tập pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, pháp môn giải thoát vô nguyện? Lấy vô sanh nào làm phương tiện, vô sở đắc nào làm phương tiện, hồi hướng trí nhất thiết trí, tu tập pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, pháp môn giải thoát vô nguyện?

Bạch Thế Tôn! Lấy vô nhị nào làm phương tiện, hồi hướng trí nhất thiết trí, tu tập năm loại mắt, sáu phép thần thông? Lấy vô sanh nào làm phương tiện, vô sở đắc nào làm phương tiện, hồi hướng trí nhất thiết trí, tu tập năm loại mắt, sáu phép thần thông?

 

Quyển thứ 106

Hết

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/09/2013(Xem: 24014)
Trong khuôn khổ của chương trình Giáo dục thường xuyên thuộc ngành y (Continuing Medical Education) của Viện đại học Harvard. Được tổ chức bởi Trường đại học Y khoa Harvard (Harvard Medical School) mà đứng đầu là các Giáo sư danh tiếng như: Christopher Germer, Judy Reiner Platt và Ronald D. Siegel vào các ngày 11 và 12 tháng Chín 2013 tại thính đường lớn của Boston Park Plaza Hotel, với một ban Giảng huấn hùng hậu gồm 14 vị Giáo sư đứng đầu là Thiền sư Thích Nhất Hạnh, sau đó mới tới các vị Giáo sư danh giá như: Lilian Cheung, Alice Domar, Elissa Ely, Christopher Germer, Devon E. Hinton, Judith V. Jordan, Jon Kabat-Zinn, David Leisner, Judy Reiner Platt, Susan M. Pollak, Ronal Siegal, David A. Sieberweig và Barent Walsh.
14/09/2013(Xem: 20501)
Hòa thượng Thích Đạt Đạo, thế danh Huỳnh Văn Hà, sinh năm Tân Mão (1951) tại xã Hạnh Thông, Quận Gò Vấp, tỉnh Gia Định, nay là Thành phố Hồ Chí Minh. Thân phụ là Cụ Ông Huỳnh Văn Chánh. Thân mẫu là Cụ Bà Lê Thị Kia, pháp danh Diệu Ca. II. Thời kỳ xuất gia học Đạo Vốn sinh ra trong một gia đình Phật tử thuần thành, nhiều đời tin kính Tam bảo, từ nhỏ Hòa thượng đã có thiện duyên với Phật pháp, được Cụ Ông, Cụ Bà thường xuyên dẫn đi chùa chiêm bái và lễ Phật. Năm 11 tuổi, Hòa thượng quy y năm giới với Hòa thượng Bổn sư thượng Đức hạ Chơn, pháp danh là Quảng Trí và sinh hoạt Gia đình Phật tử Quảng Hương. Với tâm nguyện muốn xuất gia học đạo, năm 13 tuổi (1964), Hòa thượng được Hòa thượng Bổn sư cho phép thế phát xuất gia và hành điệu tại chùa Long Huê, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh. Sau đó, Hòa thượng vào tu học ở Tu viện Quảng Hương Già Lam, từ năm 1966 - 1968.
12/09/2013(Xem: 8748)
Tôi mới nhận được một tin đáng lưu tâm. Đó là Ông Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon(Phan Cơ Văn) là người gốc Việt Nam có dòng dõi với Phan Huy Chú. Trước đây tôi có đọc bộ sách lịch sử về VN của Bác Sĩ Trân Đại Sĩ ở Pháp viết về dòng dõi của Hoàng Tử Lý Long Tường vào giữa thế kỷ thứ 13 tại Bắc Hàn (rất hay), sau đó được biết Ông Lý Thừa Vãng Tổng Thống Nam Hàn cũng có nguồn gốc từ nhà Lý của VN và Tổng Thống Đài Laon Lý Kính Huy cũng dòng dõi nhà Lý nầy. Nay được biết thêm Ông Ban Ki Moon của Nam Hàn cũng gốc gác từ VN. Như vậy cũng là một niềm vui, nhưng xin kiểm điểm lại việc nầy. Ở Đức, tôi có thể liên lạc với Dr. Phan Huy Oánh là người nhà với Ông Phan Huy Qúat để dò hỏi thêm việc nầy. Đây là những chứng nhân của lịch sử cần nên quan tâm.
07/09/2013(Xem: 19683)
¨ THƯ TÒA SOẠN, trang 2 ¨ TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 ¨ CÁO BẠCH TANG LỄ HT. THÍCH MINH TÂM (GHPGVNTN Âu Châu), trang 7 ¨ ĐÔI LỜI CẢM NIỆM VỀ SỰ VIÊN TỊCH CỦA HT THÍCH MINH TÂM (thơ điếu của HT Thích Thắng Hoan), trang 8 ¨ TƯỞNG NIỆM HT. THÍCH MINH TÂM (thơ HT. Thích Nguyên An), trang 8 ¨ XƯNG TÁN CÔNG HẠNH CỦA CỐ TRƯỞNG LÃO HT. THÍCH MINH TÂM (HT. Thích Tín Nghĩa), trang 9 ¨ ĐIỆN THƯ PHÂN ƯU (GHPGVNTN Hoa Kỳ), trang 10 ¨ SƠ LƯỢC TIỂU SỬ HT. THÍCH MINH TÂM (GHPGVNTN Âu Châu và Môn đồ pháp quyến phụng soạn), trang 11 ¨ CẢM NIỆM ÂN SƯ (ai văn của Môn đồ pháp quyến HT. Thích Minh Tâm), trang 12
07/09/2013(Xem: 4574)
Vừa ở khóa Tu học về được 2 ngày, còn mang theo niềm vui, với những gương mặt thân yêu của Quí Thầy, hơi ấm của tình bạn đang vây quanh con; không ngờ chị bạn cùng khóa Tu học gọi điện thoại cho biết Thầy vừa viên tịch tại Phần Lan. Một hung tin như trong mộng làm con quá đỗi bàng hoàng! Làm sao con có thể tin được vì con vừa tham dự khóa Tu học Phật Pháp Âu Châu lần thứ 25 ở Turku- Finland về. Mới đó mà! Thầy mới khai thị cho khóa học, cấp lớp chúng con đã được Thầy giảng dạy một buổi và hằng ngày Thầy đã đến đạo tràng thọ trai cùng Tăng Chúng; động viên cho hàng Phật tử đang hiện diện. Thầy đã vui với thành quả số Phật tử tham dự: 837 người, ngoài sự dự đoán của ban tổ chức vì đường sá xa xôi và tốn kém. Vậy mà tinh thần học Phật vẫn dâng cao!
29/08/2013(Xem: 9843)
THẦY GIÁO LÀNG TÔI (Kính tặng TT.Thích Liễu Pháp, trụ trì chùa Thiên Xá, Đồng Đế, Nha Trang) TỊNH MINH
27/08/2013(Xem: 13697)
Thiền tông truyền sang Trung Hoa vào thế kỷ thứ VI, do Tổ Bồ-đề-đạt-ma (Bodhidharma). Đến thế kỷ thứ VII, Thiền tông truyền sang Việt Nam, do Tổ Tỳ-ni-đa-lưu-chi (Vinitaruci). Thế là, Thiền tông có mặt ở Việt Nam sau Trung Hoa một thế kỷ. Đến thế kỷ thứ XII, Thiền tông mới truyền vào Nhật Bản. So Việt Nam với Nhật Bản, Thiền tông truyền bá ở Việt Nam trước Nhật Bản đến năm thế kỷ. Song ở Trung Hoa, Nhật Bản về sử liệu Thiền tông rất dồi dào, còn ở Việt Nam thật là nghèo nàn đáo để. Sự nghèo nàn ấy, không phải Thiền tông Việt Nam truyền bá kém cỏi hơn các nước Phật giáo bạn. Bởi vì nhìn theo dòng lịch sử, từ thế kỷ thứ VII cho đến thế kỷ thứ XIV, chúng ta thấy Thiền tông đã nắm trọn vẹn tinh thần truyền bá Phật giáo và cả văn hóa dân tộc Việt Nam. Những sách vở của người Việt Nam sáng tác hoặc ghi chép lại, không kém gì các nước Phật giáo bạn. Nào là Đại Nam Thiền Uyển Truyền Đăng Lục, Liệt Tổ Truyện, Nam Minh Thiền Lục, Thánh Đăng Thực Lục, Liệt Tổ Yếu Ngữ, Kế Đăng Lục, Tam Tổ T
22/08/2013(Xem: 7827)
Tin buồn do HT Như Điển gởi đi từ Phần Lan vào chiều ngày 8-8-2013, đã làm bàng hoàng và xúc động đối với Tăng Ni và Phật tử gần xa. Ôn đã ra đi trong lúc Phật sự còn ngổn ngang, bỏ lại phía sau mình niềm tiếc nhớ kính thương khôn nguôi của tất cả mọi người.
18/08/2013(Xem: 7427)
Hồi nhỏ ba tôi đưa tôi lên qui y với Hoà thượng Đôn Hậu tại chùa Thiên Mụ (1956), nhưng sau lớn lên học Đại học, vào Đoàn Sinh viên Phật tử (1963), tôi lại tham gia "tranh đấu Phật giáo" tại chùa Từ Đàm (1963-1966). Hoà thượng Thích Thiện Siêu là một trong những vị lãnh đạo của tôi lúc ấy.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]