Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 100: Phẩm Nhiếp Thọ 2

07/07/201516:59(Xem: 13311)
Quyển 100: Phẩm Nhiếp Thọ 2

Tập 02
Quyển 100
Phẩm Nhiếp Thọ 2
Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm
Diễn đọc: Cư Sĩ Chánh Trí

 

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn biết rõ bốn chúng, đó là: Bí-sô, Bí-sô-ni, Ô-ba-sách-ca, Ô-ba-tư-ca và đại Bồ-tát cùng với bốn đại vương, thiên chúng, trời Ba-mươi-ba, trời Dạ-mạ, trời Đổ-sử-đa, trời Lạc-biến-hóa, trời Tha-hóa-tự-tại, trời Phạm-chúng, trời Phạm-phụ, trời Phạm-hội, trời Đại-phạm, trời Quang, trời Thiểu-quang, trời Vô-lượng-quang, trời Cực-quang-tịnh, trời Tịnh, trời Thiểu-tịnh, trời Vô-lượng-tịnh, trời Biến-tịnh, trời Quảng, trời Thiểu-quảng, trời Vô-lượng-quảng, trời Quảng-quả, trời Vô-phiền, trời Vô-nhiệt, trời Thiện-hiện, trời Thiện-kiến, trời Sắc-cứu-cánh, đều tập hợp hòa hiệp để làm chúng, liền bảo trời Đế Thích:

Kiều Thi Ca! Hoặc đại Bồ-tát, hoặc Bí-sô, Bí-sô-ni, Ô-ba-sách-ca, Ô-ba-tư-ca, hoặc các Thiên tử, hoặc các Thiên nữ, hoặc thiện nam tử, hoặc thiện nữ nhơn, chẳng lìa tâm của trí nhất thiết trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu tập, như lý tư duy, vì người diễn thuyết, truyền bá rộng rãi, nên biết những người ấy không bị các ác ma vương và quyến thuộc của ma có thể làm não hại được. Vì sao? Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… ấy khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của sắc; khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của thọ, tưởng, hành, thức, chẳng thể dùng cái không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng cái vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng cái vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì sắc uẩn v.v… tự tánh đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại, sự não hại, chẳng thể nắm bắt được.

Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… ấy, khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của nhãn xứ; khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, chẳng thể dùng không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì nhãn xứ v.v... tự tánh của chúng đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại và sự não hại, chẳng thể nắm bắt được. 

Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… ấy, khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của sắc xứ; khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, chẳng thể dùng không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì sắc xứ v.v... tự tánh của chúng đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại và sự não hại, chẳng thể nắm bắt được. 

Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… ấy, khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của nhãn giới; khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, chẳng thể dùng không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì nhãn giới v.v... tự tánh của chúng đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại và sự não hại, chẳng thể nắm bắt được. 

Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… ấy, khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của nhĩ giới; khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra, chẳng thể dùng không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì nhĩ giới v.v... tự tánh của chúng đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại và sự não hại, chẳng thể nắm bắt được. 

Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… ấy, khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của tỷ giới; khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra, chẳng thể dùng không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì tỷ giới v.v... tự tánh của chúng đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại và sự não hại, chẳng thể nắm bắt được. 

Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… ấy, khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của thiệt giới; khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra, chẳng thể dùng không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì thiệt giới v.v... tự tánh của chúng đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại và sự não hại, chẳng thể nắm bắt được. 

Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… ấy, khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của thân giới; khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra, chẳng thể dùng không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì thân giới v.v... tự tánh của chúng đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại và sự não hại, chẳng thể nắm bắt được. 

Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… ấy, khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của ý giới; khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, chẳng thể dùng không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì ý giới v.v... tự tánh của chúng đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại và sự não hại, chẳng thể nắm bắt được. 

Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… ấy, khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của địa giới; khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của thủy, hỏa, phong, không, thức giới, chẳng thể dùng không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì địa giới v.v... tự tánh của chúng đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại và sự não hại, chẳng thể nắm bắt được. 

Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… ấy, khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của Thánh đế khổ; khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của thánh đế tập, diệt, đạo, chẳng thể dùng không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì Thánh đế khổ v.v... tự tánh của chúng đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại và sự não hại, chẳng thể nắm bắt được. 

Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… ấy, khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của vô minh; khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, chẳng thể dùng không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì vô minh v.v... tự tánh của chúng đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại và sự não hại, chẳng thể nắm bắt được. 

Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… ấy, khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của cái không nội; khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh, chẳng thể dùng không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì cái không nội v.v... tự tánh của chúng đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại và sự não hại, chẳng thể nắm bắt được. 

Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… ấy, khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của chơn như; khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, chẳng thể dùng không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì chơn như v.v... tự tánh của chúng đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại và sự não hại, chẳng thể nắm bắt được.

Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… ấy, khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của bố thí Ba-la-mật-đa; khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng thể dùng không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì bố thí Ba-la-mật-đa v.v... tự tánh của chúng đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại và sự não hại, chẳng thể nắm bắt được.  

Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… ấy, khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của bốn tịnh lự; khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của bốn vô lượng, bốn định vô sắc, chẳng thể dùng không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì bốn tịnh lự v.v... tự tánh của chúng đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại và sự não hại, chẳng thể nắm bắt được. 

Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… ấy, khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của tám giải thoát; khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, chẳng thể dùng không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì tám giải thoát v.v... tự tánh của chúng đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại và sự não hại, chẳng thể nắm bắt được. 

Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… ấy, khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của bốn niệm trụ; khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, chẳng thể dùng không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì bốn niệm trụ v.v... tự tánh của chúng đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại và sự não hại, chẳng thể nắm bắt được. 

Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… ấy, khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của pháp môn giải thoát không; khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, chẳng thể dùng không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì pháp môn giải thoát không v.v... tự tánh của chúng đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại và sự não hại, chẳng thể nắm bắt được. 

Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… ấy, khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của năm loại mắt; khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của sáu phép thần thông, chẳng thể dùng không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì năm loại mắt v.v... tự tánh của chúng đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại và sự não hại, chẳng thể nắm bắt được. 

Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… ấy, khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của mười lực của Phật; khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, chẳng thể dùng không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì mười lực của Phật v.v... tự tánh của chúng đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại và sự não hại, chẳng thể nắm bắt được. 

Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… ấy, khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của pháp không quên mất; khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của tánh luôn luôn xả, chẳng thể dùng không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì pháp không quên mất v.v... tự tánh của chúng đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại và sự não hại, chẳng thể nắm bắt được. 

Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… ấy, khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của trí nhất thiết; khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, chẳng thể dùng không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì trí nhất thiết v.v... tự tánh của chúng đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại và sự não hại, chẳng thể nắm bắt được. 

Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… ấy, khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của tất cả pháp môn Đà-la-ni; khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của tất cả pháp môn Tam-ma-địa, chẳng thể dùng không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni v.v... tự tánh của chúng đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại và sự não hại, chẳng thể nắm bắt được. 

Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… ấy, khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của Dự-lưu; khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán, chẳng thể dùng không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì Dự-lưu v.v... tự tánh của chúng đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại và sự não hại, chẳng thể nắm bắt được. 

Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… ấy, khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả; khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả, chẳng thể dùng không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả v.v... tự tánh của chúng đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại và sự não hại, chẳng thể nắm bắt được. 

Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… ấy, khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của Độc-giác; khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của Độc-giác hướng, Độc-giác quả, chẳng thể dùng không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì Độc-giác v.v... tự tánh của chúng đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại và sự não hại, chẳng thể nắm bắt được. 

Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… ấy, khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của đại Bồ-tát; khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của Tam-miệu-tam Phật-đà, chẳng thể dùng không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì đại Bồ-tát v.v... tự tánh của chúng đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại và sự não hại, chẳng thể nắm bắt được.

Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… ấy, khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của pháp của đại Bồ-tát; khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của quả vị giác ngộ cao tột, chẳng thể dùng không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì pháp của đại Bồ-tát v.v... tự tánh của chúng đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại và sự não hại, chẳng thể nắm bắt được.

Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… ấy, khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của Thanh-văn thừa; khéo an trụ không, vô tướng, vô nguyện của Độc-giác thừa, Vô-thượng thừa, chẳng thể dùng không để đạt được sự thông suốt của không, chẳng thể dùng vô tướng để đạt được sự thông suốt của vô tướng, chẳng thể dùng vô nguyện để đạt được sự thông suốt của vô nguyện. Vì sao? Vì Thanh-văn thừa v.v... tự tánh của chúng đều là không, nên người não hại, kẻ bị não hại và sự não hại, chẳng thể nắm bắt được.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… ấy là những người, mà loài người, chẳng phải người không thể dễ dàng làm hại được. Vì sao? Vì các thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… ấy lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với tất cả hữu tình, khéo tu tâm từ bi, hỷ xả.

Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… ấy chẳng bao giờ bị não hại bởi các sự kiện hiểm ác một cách bất ngờ, cũng chẳng chết đột ngột. Vì sao? Vì thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… ấy tu hành bố thí Ba-la-mật-đa, đối với các hữu tình cấp dưỡng bình an chơn chánh.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Ở thế giới ba lần ngàn này, có chúng trời Tứ-đại-vương,

trời Ba-mươi-ba, trời Dạ-mạ, trời Đổ-sử-đa, trời Lạc-biến-hóa, trời Tha-hóa-tự-tại, trời Phạm-chúng, trời Cực-quang-tịnh, trời Biến-tịnh, trời Quảng-quả v.v… đã phát tâm cầu sự giác ngộ cao tột, đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, nếu vị nào chưa được nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, chánh tư duy, thì nay nên chẳng lìa tâm trí nhất thiết trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa này chú tâm nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy.

Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… chẳng lìa tâm trí nhất thiết trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa này, chí tâm nghe, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, thì thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… ấy, hoặc tại nhà trống, hoặc tại đồng hoang, hoặc tại đường hiểm và nơi có tai nạn chẳng bao giờ sợ hãi, kinh khủng dựng lông. Vì sao? Vì thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… ấy chẳng lìa tâm trí nhất thiết trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, khéo tu cái không nội, khéo tu cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh.

Lúc bấy giờ, ở thế giới ba lần ngàn này có chúng trời Tứ-đại-vương, trời Ba-mươi-ba, trời Dạ-mạ, trời Đổ-sử-đa, trời Lạc-biến-hóa, trời Tha-hóa-tự-tại, trời Phạm-chúng, trời Phạm-phụ, trời Phạm-hội, trời Đại-phạm, trời Quang, trời Thiểu-quang, trời Vô-lượng-quang, trời Cực-quang-tịnh, trời Tịnh, trời Thiểu-tịnh, trời Vô-lượng-tịnh, trời Biến-tịnh, trời Quảng, trời Thiểu-quảng, trời Vô-lượng-quảng, trời Quảng-quả, trời Vô-phiền, trời Vô-nhiệt, trời Thiện-hiện, trời Thiện-kiến, trời Sắc-cứu-cánh v.v… cùng bạch Phật:

Bạch Thế Tôn! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… chẳng lìa tâm trí nhất thiết trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa thâm sâu này, thường hay thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, sao chép, giảng giải, truyền bá rộng rãi thì chúng con thường theo cung kính, hộ vệ chẳng để tất cả tai nạn xâm phạm bất ngờ. Vì sao? Vì thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… ấy chính là đại Bồ-tát.

Bạch Thế Tôn! Vì do đại Bồ-tát ấy nên khiến các hữu tình vĩnh viễn xa lìa các đường hiểm ác, địa ngục, bàng sanh, quỷ giới, A-tố-lạc.

Bạch Thế Tôn! Vì do đại Bồ-tát ấy nên các trời, người vĩnh viễn xa lìa tất cả các khổ về tai họa, tật dịch, bần cùng, đói khát, nóng lạnh v.v…

Bạch Thế Tôn! Vì do đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có mười thiện nghiệp đạo.

Bạch Thế Tôn! Vì do đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Bạch Thế Tôn! Vì do đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Bạch Thế Tôn! Vì do đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có bố thí Ba-la-mật-đa, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa. 

Bạch Thế Tôn! Vì do đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có cái không nội, cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh.

Bạch Thế Tôn! Vì do đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì.

Bạch Thế Tôn! Vì do đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có Thánh đế khổ, Thánh đế tập, diệt, đạo.

Bạch Thế Tôn! Vì do đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo.

Bạch Thế Tôn! Vì do đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.

Bạch Thế Tôn! Vì do đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có năm loại mắt, sáu phép thần thông.

Bạch Thế Tôn! Vì do đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng.

Bạch Thế Tôn! Vì do đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả.

Bạch Thế Tôn! Vì do đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Bạch Thế Tôn! Vì do đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Bạch Thế Tôn! Vì do đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có dòng họ lớn Sát-đế-lợi, dòng họ lớn Bà-la-môn, dòng họ lớn Trưởng giả, dòng họ lớn Cư sĩ, các tiểu quốc vương chuyển luân Thánh vương, Bề tôi phụ tá.

Bạch Thế Tôn! Vì do đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có chúng trời Tứ-đại-vương, trời Ba-mươi-ba, trời Dạ-mạ, trời Đổ-sử-đa, trời Lạc-biến-hóa, trời Tha-hóa-tự-tại.

Bạch Thế Tôn! Vì do đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có trời Phạm-chúng, trời Phạm-phụ, trời Phạm-hội, trời Đại-phạm, trời Quang, trời Thiểu-quang, trời Vô-lượng-quang, trời Cực-quang-tịnh, trời Tịnh, trời Thiểu-tịnh, trời Vô-lượng-tịnh, trời Biến-tịnh, trời Quảng, trời Thiểu-quảng, trời Vô-lượng-quảng, trời Quảng-quả.

Bạch Thế Tôn! Vì do đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có trời Vô-phiền, trời Vô-nhiệt, trời Thiện-hiện, trời Thiện-kiến, trời Sắc-cứu-cánh.

Bạch Thế Tôn! Vì do đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có trời Không-vô-biên-xứ, trời Thức-vô-biên-xứ, trời Vô-sở-hữu-xứ, trời Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ.

Bạch Thế Tôn! Vì do đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có Dự-lưu, Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán và Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả, Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả.

Bạch Thế Tôn! Vì do đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có Độc-giác và Độc-giác hướng, Độc-giác quả.

Bạch Thế Tôn! Vì do đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có đại Bồ-tát thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật.

Bạch Thế Tôn! Vì do đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, chuyển pháp luân nhiệm mầu, độ vô lượng chúng sanh.

Bạch Thế Tôn! Vì do đại Bồ-tát ấy nên thế gian mới có Phật bảo, Pháp bảo, Bí-sô Tăng bảo.

Bạch Thế Tôn! Vì nhơn duyên ấy nên chúng con: Thiên, Long và A-tố-lạc, Kiền-đạt-phược, Yết-lộ-trà, Khẩn-nại-lạc, Dược-xoa, La-sát-ba, Mạc-hô-lạc-già, nhơn phi nhơn v.v… thường theo cung kính ủng hộ đại Bồ-tát ấy, chẳng để cho tất cả tai họa xâm phạm não hại.

Lúc bấy giờ, Thế Tôn bảo trời Đế Thích và các Thiên, Long, A-tố-lạc v.v…: Đúng vậy! Đúng vậy! Như các ngươi đã nói. Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn … chẳng lìa tâm trí nhất thiết trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa thâm sâu này, thường thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, sao chép, giảng giải, truyền bá rộng rãi thì nên biết Thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… ấy chính là đại Bồ-tát.

Kiều Thi Ca! Vì do đại Bồ-tát ấy nên các hữu tình vĩnh viễn được dứt trừ địa ngục, bàng sanh, quỷ giới, A-tố-lạc v.v… Kiều Thi Ca! Vì do đại Bồ-tát ấy nên chư thiên, nhơn vĩnh viễn được xa lìa tất cả các khổ tai họa, bệnh tật, bần cùng, đói khát, nóng lạnh v.v…

Kiều Thi Ca! Vì do đại Bồ-tát ấy nên mười thiện nghiệp đạo xuất hiện ở thế gian.

Kiều Thi Ca! Vì do đại Bồ-tát ấy nên bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc xuất hiện ở thế gian.

Kiều Thi Ca! Vì do đại Bồ-tát ấy nên tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ xuất hiện ở thế gian.

Kiều Thi Ca! Vì do đại Bồ-tát ấy nên bố thí Ba-la-mật-đa, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa xuất hiện ở thế gian. 

Kiều Thi Ca! Vì do đại Bồ-tát ấy nên cái không nội, cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh xuất hiện ở thế gian.

Kiều Thi Ca! Vì do đại Bồ-tát ấy nên chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì xuất hiện ở thế gian.

Kiều Thi Ca! Vì do đại Bồ-tát ấy nên Thánh đế khổ, Thánh đế tập, diệt, đạo xuất hiện ở thế gian.

Kiều Thi Ca! Vì do đại Bồ-tát ấy nên bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo xuất hiện ở thế gian.

Kiều Thi Ca! Vì do đại Bồ-tát ấy nên pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện xuất hiện ở thế gian.

Kiều Thi Ca! Vì do đại Bồ-tát ấy nên năm loại mắt, sáu phép thần thông xuất hiện ở thế gian.

Kiều Thi Ca! Vì do đại Bồ-tát ấy nên mười lực của Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng xuất hiện ở thế gian.

Kiều Thi Ca! Vì do đại Bồ-tát ấy nên pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả xuất hiện ở thế gian.

Kiều Thi Ca! Vì do đại Bồ-tát ấy nên trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng xuất hiện ở thế gian.

Kiều Thi Ca! Vì do đại Bồ-tát ấy nên tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa xuất hiện ở thế gian.

Kiều Thi Ca! Vì do đại Bồ-tát ấy nên dòng họ lớn Sát-đế-lợi, dòng họ lớn Bà-la-môn, dòng họ lớn Trưởng giả, dòng họ lớn Cư sĩ, các tiểu quốc vương chuyển luân Thánh vương, Bề tôi phụ tá xuất hiện ở thế gian.

Kiều Thi Ca! Vì do đại Bồ-tát ấy nên chúng trời Tứ-đại-vương, trời Ba-mươi-ba, trời Dạ-mạ, trời Đổ-sử-đa, trời Lạc-biến-hóa, trời Tha-hóa-tự-tại xuất hiện ở thế gian.

Kiều Thi Ca! Vì do đại Bồ-tát ấy nên trời Phạm-chúng, trời Phạm-phụ, trời Phạm-hội, trời Đại-phạm, trời Quang, trời Thiểu-quang, trời Vô-lượng-quang, trời Cực-quang-tịnh, trời Tịnh, trời Thiểu-tịnh, trời Vô-lượng-tịnh, trời Biến-tịnh, trời Quảng, trời Thiểu-quảng, trời Vô-lượng-quảng, trời Quảng-quả xuất hiện ở thế gian.

Kiều Thi Ca! Vì do đại Bồ-tát ấy nên trời Vô-phiền, trời Vô-nhiệt, trời Thiện-hiện, trời Thiện-kiến, trời Sắc-cứu-cánh xuất hiện ở thế gian.

Kiều Thi Ca! Vì do đại Bồ-tát ấy nên trời Không-vô-biên-xứ, trời Thức-vô-biên-xứ, trời Vô-sở-hữu-xứ, trời Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ xuất hiện ở thế gian.

Kiều Thi Ca! Vì do đại Bồ-tát ấy nên Dự-lưu, Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán và Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả, Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả xuất hiện ở thế gian.

Kiều Thi Ca! Vì do đại Bồ-tát ấy nên Độc-giác và Độc-giác hướng, Độc-giác quả xuất hiện ở thế gian.

Kiều Thi Ca! Vì do đại Bồ-tát ấy nên đại Bồ-tát xuất hiện ở thế gian, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật.

Kiều Thi Ca! Vì do đại Bồ-tát ấy nên Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác xuất hiện ở thế gian, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, chuyển pháp luân nhiệm mầu, độ vô lượng chúng sanh.

Kiều Thi Ca! Vì do đại Bồ-tát ấy nên Phật bảo, Pháp bảo, Bí-sô Tăng bảo xuất hiện ở thế gian.

Kiều Thi Ca! Vì duyên cớ này, Thiên, Long, A-tố-lạc v.v… các ngươi thường nên theo cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen, và siêng năng ủng hộ đại Bồ-tát này, chớ để tất cả tai họa xâm phạm não hại.

Kiều Thi Ca! Nếu có người thường cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen đại Bồ-tát như vậy, thì nên biết chính là cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen ta và tất cả các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong mười phương. Vì vậy, nên tất cả Thiên, Long, A-tố-lạc v.v…các ngươi thường nên theo cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen và siêng năng ủng hộ đại Bồ-tát này, chớ để tất cả tai họa xâm phạm não hại.

Kiều Thi Ca! Giả sử Thanh-văn, Duyên-giác đầy khắp châu Nam Thiệm Bộ như rừng mía, lau, trúc, nếp, mè, rừng rậm dày đặc không hở, có thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… đối với ruộng phước ấy, dùng vô lượng các thứ đồ dùng tốt đẹp vừa ý, cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen, suốt cả cuộc đời, hoặc lại có người chỉ trong khoảnh khắc cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen một đại Bồ-tát sơ phát tâm chẳng lìa sáu phép Ba-la-mật-đa; nếu lấy công đức của những người trước so với phước đức của người này thì trăm phần chẳng bằng một, ngàn phần chẳng bằng một, trăm ngàn phần chẳng bằng một, ức phần chẳng bằng một, trăm ức phần chẳng bằng một, ngàn ức phần chẳng bằng một, trăm ngàn ức phần chẳng bằng một, phần tính đếm, phần thí dụ cho đến phần cực số cũng chẳng bằng một.

Kiều Thi Ca! Giả sử Thanh-văn, Độc-giác đầy khắp cả châu Nam Thiệm Bộ, châu Đông Thắng Thân như rừng mía, lau, trúc, nếp, mè, rừng rậm v.v… dày đặc không chỗ hở, có thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… đối với ruộng phước ấy, dùng vô lượng các thứ đồ dùng tốt đẹp vừa ý, cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen, suốt cả cuộc đời, hoặc lại có ngươi chỉ trong khoảnh khắc cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen một đại Bồ-tát sơ phát tâm chẳng lìa sáu phép Ba-la-mật-đa; nếu lấy công đức của những người trước so với phước đức của người này thì trăm phần chẳng bằng một, ngàn phần chẳng bằng một, trăm ngàn phần chẳng bằng một, cho đến phần cực số cũng chẳng bằng một.

Kiều Thi Ca! Giả sử Thanh-văn, Độc-giác đầy khắp cả châu Nam Thiệm Bộ, châu Đông Thắng Thân, châu Tây Ngưu Hóa như rừng mía, lau, trúc, nếp, mè, rừng rậm dày đặc không chỗ hở, có thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… đối với ruộng phước ấy, dùng vô lượng các thứ đồ dùng tốt đẹp vừa ý cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen, suốt cả cuộc đời, hoặc lại có ngươi chỉ trong khoảnh khắc cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen một đại Bồ-tát sơ phát tâm chẳng lìa sáu phép Ba-la-mật-đa; nếu lấy công đức của những người trước so với phước đức của người này thì trăm phần chẳng bằng một, ngàn phần chẳng bằng một, trăm ngàn phần chẳng bằng một, cho đến phần cực số cũng chẳng bằng một.

Kiều Thi Ca! Giả sử Thanh-văn, Độc-giác đầy khắp cả châu Nam Thiệm Bộ, châu Đông Thắng Thân, châu Tây Ngưu Hóa, châu Bắc Cu Lô như rừng mía, lau, trúc, nếp, mè, rừng rậm v.v… dày đặc không hở, có thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… đối với ruộng phước ấy, dùng vô lượng các thứ đồ dùng tốt đẹp, vừa ý cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen, suốt cả cuộc đời, hoặc lại có ngươi chỉ trong khoảnh khắc cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen một đại Bồ-tát sơ phát tâm chẳng lìa sáu phép Ba-la-mật-đa; nếu lấy công đức của những người trước so với phước đức của người này thì trăm phần chẳng bằng một, ngàn phần chẳng bằng một, trăm ngàn phần chẳng bằng một, cho đến phần cực số cũng chẳng bằng một.

Kiều Thi Ca! Giả sử Thanh-văn, Độc-giác đầy khắp cả bốn châu như rừng mía, lau, trúc, nếp, mè, rừng rậm dày đặc không chỗ hở, có thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… đối với ruộng phước ấy, dùng vô lượng các thứ đồ dùng tốt đẹp, vừa ý cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen, suốt cả cuộc đời, hoặc lại có ngươi chỉ trong khoảnh khắc cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen một đại Bồ-tát sơ phát tâm chẳng lìa sáu phép Ba-la-mật-đa; nếu lấy công đức của những người trước so với phước đức của người này thì trăm phần chẳng bằng một, ngàn phần chẳng bằng một, trăm ngàn phần chẳng bằng một, cho đến phần cực số cũng chẳng bằng một.

Kiều Thi Ca! Giả sử Thanh-văn, Độc-giác đầy khắp Tiểu Thiên thế giới như rừng mía, lau, trúc, nếp, mè, rừng rậm v.v… dày đặc không chỗ hở, có thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… đối với ruộng phước ấy, dùng vô lượng các thứ đồ dùng tốt đẹp, vừa ý cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen, suốt cả cuộc đời, hoặc lại có ngươi chỉ trong khoảnh khắc cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen một đại Bồ-tát sơ phát tâm chẳng lìa sáu phép Ba-la-mật-đa; nếu lấy công đức của những người trước so với phước đức của người này thì trăm phần chẳng bằng một, ngàn phần chẳng bằng một, trăm ngàn phần chẳng bằng một, cho đến phần cực số cũng chẳng bằng một.

Kiều Thi Ca! Giả sử Thanh-văn, Độc-giác đầy khắp Trung Thiên thế giới như rừng mía, lau, trúc, nếp, mè, rừng rậm v.v… dày đặc không chỗ hở, có thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… đối với ruộng phước ấy, dùng vô lượng các thứ đồ dùng tốt đẹp, vừa ý cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen, suốt cả cuộc đời, hoặc lại có ngươi chỉ trong khoảnh khắc cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen một đại Bồ-tát sơ phát tâm chẳng lìa sáu phép Ba-la-mật-đa; nếu lấy công đức của những người trước so với phước đức của người này thì trăm phần chẳng bằng một, ngàn phần chẳng bằng một, trăm ngàn phần chẳng bằng một, cho đến phần cực số cũng chẳng bằng một.

Kiều Thi Ca! Giả sử Thanh-văn, Độc-giác đầy khắp cảnh giới chư Phật trong thế giới ba lần ngàn như rừng mía, lau, trúc, nếp, mè, rừng rậm v.v… dày đặc không chỗ hở, có thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… đối với ruộng phước ấy, dùng vô lượng các thứ đồ dùng tốt đẹp, vừa ý cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen, suốt cả cuộc đời, hoặc lại có ngươi chỉ trong khoảnh khắc cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen một đại Bồ-tát sơ phát tâm chẳng lìa sáu phép Ba-la-mật-đa; nếu lấy công đức của những người trước so với phước đức của người này thì trăm phần chẳng bằng một, ngàn phần chẳng bằng một, trăm ngàn phần chẳng bằng một, cho đến phần cực số cũng chẳng bằng một.

Kiều Thi Ca! Giả sử Thanh-văn, Độc-giác đầy khắp vô lượng, vô biên thế giới trong mười phương như rừng mía, lau, trúc, nếp, mè, rừng rậm v.v… dày đặc không chỗ hở, có thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v… đối với ruộng phước ấy, dùng vô lượng các thứ đồ dùng tốt đẹp, vừa ý cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen, suốt cả cuộc đời, hoặc lại có ngươi chỉ trong khoảnh khắc cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen một đại Bồ-tát sơ phát tâm chẳng lìa sáu phép Ba-la-mật-đa; nếu lấy công đức của những người trước so với phước đức của người này thì trăm phần chẳng bằng một, ngàn phần chẳng bằng một, trăm ngàn phần chẳng bằng một, cho đến phần cực số cũng chẳng bằng một. Vì sao? Kiều Thi Ca! Vì chẳng do Thanh-văn và Độc-giác mà có đại Bồ-tát và các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác xuất hiện ở thế gian, chỉ do đại Bồ-tát mà có Thanh-văn, Độc-giác và các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác xuất hiện ở thế gian. Vì vậy nên các ngươi, tất cả Thiên, Long, A-tố-lạc, Kiền-đạt-phược, Yết-lộ-trà, Khẩn-nại-lạc, Dược-xoa, La-sát-ba, Mạc-hô-lạc-già, nhơn phi nhơn thường nên ủng hộ bảo vệ cung kính cúng dường, tôn trọng, ngợi khen đại Bồ-tát này, chớ để tất cả tai họa xâm phạm não hại.

Lúc bấy giờ, trời Đế Thích bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thật là hy hữu! Đại Bồ-tát ấy, đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa thâm sâu này, thọ trì, đọc tụng, tinh cần tu học, như lý tư duy, sao chép, giảng giải, truyền bá rộng rãi. Nhiếp thọ công đức của những việc cụ thể như vậy, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, thân cận, phụng sự chư Phật Thế Tôn. Theo đó sự vui vẻ, căn lành thù thắng, do đối với chư Phật cung kính, cúng dường, tôn trọng, ngợi khen, liền được viên mãn; đối với Chánh pháp của chư Phật đã được nghe, cho đến khi chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, không bao giờ quên. Những pháp yếu đã được nghe, có khả năng nhanh chóng nhiếp thọ, nên được dòng họ viên mãn, thân mẫu viên mãn, sự sanh viên mãn, quyến thuộc viên mãn, tướng hảo viên mãn, quang minh viên mãn, nhãn viên mãn, nhĩ viên mãn, âm thanh viên mãn Đà-la-ni viên mãn, Tam-ma-địa viên mãn. Lại dùng sức phương tiện thiện xảo, biến thân như Phật, từ thế giới này đến thế giới khác, đến nước không có Phật, giảng thuyết khen ngợi bố thí Ba-la-mật-đa, giảng thuyết khen ngợi tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; giảng thuyết khen ngợi cái không nội, giảng thuyết khen ngợi cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh; giảng thuyết khen ngợi chơn như, giảng thuyết khen ngợi pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; giảng thuyết khen ngợi Thánh đế khổ, giảng thuyết khen ngợi Thánh đế tập, diệt, đạo; giảng thuyết khen ngợi bốn tịnh lự, giảng thuyết khen ngợi bốn vô lượng, bốn định vô sắc; giảng thuyết khen ngợi tám giải thoát, giảng thuyết khen ngợi tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; giảng thuyết khen ngợi bốn niệm trụ, giảng thuyết khen ngợi bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; giảng thuyết khen ngợi pháp môn giải thoát không, giảng thuyết khen ngợi pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; giảng thuyết khen ngợi năm loại mắt, giảng thuyết khen ngợi sáu phép thần thông; giảng thuyết khen ngợi mười lực của Phật, giảng thuyết khen ngợi bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; giảng thuyết khen ngợi pháp không quên mất, giảng thuyết khen ngợi tánh luôn luôn xả; giảng thuyết khen ngợi trí nhất thiết, giảng thuyết khen ngợi trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; giảng thuyết khen ngợi tất cả pháp môn Đà-la-ni, giảng thuyết khen ngợi tất cả pháp môn Tam-ma-địa; giảng thuyết khen ngợi Phật bảo; giảng thuyết khen ngợi Pháp bảo, Bí-sô Tăng bảo. Lại dùng sức phương tiện thiện xảo, vì các hữu tình, tuyên thuyết pháp yếu, tùy nghi an trí trong pháp Ba-thừa, khiến vĩnh viễn giải thoát sanh, lão, bệnh, tử, chứng cảnh giới Vô-dư-y Niết-bàn; hoặc lại cứu giúp nỗi khổ trong các đường ác, khiến được vào cõi nhơn, thiên hưởng sự an lạc.

 
Quyển thứ 100

Hết

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/10/2010(Xem: 7445)
Truyện của tôi không đáng gì mà phải ghi. Chỉ vì truyện ấy, hơn vài thập kỷ trước thập kỷ 2530 (1975-1985), có liên quan đến Phật giáo VN, lại bị hư cấu truyện và phim sai quá nên phải ghi. Nhưng ghi như dưới đây thì chỉ là có còn hơn không mà thôi. Sinh chính quán của tôi là làng Diêm Điền, thuộc khu vực phía tây sông Nhật Lệ, nằm phía Bắc con đường cái quan nối liền cổng Quảng Bình, trung tâm thành phố Đồng Hới, đến tận của Vũ Thắng, ven chân dãy núi Hoành Sơn.
03/10/2010(Xem: 6469)
Đức Phật dạy: Ai muốn tin Ta, làm đệ tử Ta, cần phải đủ trí quán sát, mới tin; không rõ nguyên nhân Ta, mà tin Ta ấy là phỉ báng Ta. Ý câu này, Ngài bảo đệ tử của Ngài, ai muốn tu, muốn hành theo hạnh Ngài thì phải rõ các hành vi của ngài. Nghĩa là: xét rõ nguyên nhân của Ngài, sẽ tin và làm theo, chớ đừng làm càn, tin bướng thì khác nào không phải lương y mà giả xưng là lương y, cách đó rất tai hại. Chúng ta nên biết: "Bồ Tát thị hiện phàm phu, chính phàm phú đó là hóa thân Bồ tát; còn phàm phu giả xưng Bồ tát thì Bồ tát ấy là Bồ tát của phàm phu". Nếu đem tâm phàm phu đó hành xử thì chỉ chuốc lấy phiền não khổ đau.
03/10/2010(Xem: 9530)
HT Minh Tâm (Khinh Anh) , 50 năm một đời người - Một đời đạo Pháp - phần 1 - Ngày Vía Quan Âm sắp đến.. 19 tháng 2 năm Giáp Ngọ . Chùa Phật Ân Tổ chức lễ Hoàn Nguyện , sau hai năm trùng kiến Ngôi Chánh Điện lần cuối và một số hạng mục khác. Vì nhân duyên đó , xin giới thiệu đến với quý thiện nam tín nữ , Phật tử gần xa , các Bậc Thiện Tri Thức . Một chuỗi hình ảnh của thầy Minh Tâm đã chuyển thể qua video , từ năm 1963 - 2014 . với nhan đề : THẦY MINH TÂM , 50 NĂM MỘT ĐỜI NGƯỜI - MỘT ĐỜI VÌ ĐẠO PHÁP . Trong quá trình sưu tầm , dàn dựng . Sai sót là điều khó tránh khỏi , kính mong quý vị hoan hỷ . NAM MÔ HOANG HỶ TẠNG BỒ TÁT .
29/09/2010(Xem: 9958)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
28/09/2010(Xem: 7847)
Hòa Thượng THÍCH QUẢNG TÂM (1947 - 2010), húy Như Hảo, thế danh Lê Tấn Quang, sinh ngày 12 tháng 8 năm Đinh Hợi (1947) tại làng Thạch Trụ huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi trong một gia đình nhiều đời thâm tín Tam Bảo và có truyền thống xuất gia tu học.
23/09/2010(Xem: 6648)
Hòa Thượng Thích Phước Huệ sanh năm 1922, tại ấp Mỹ Thủy, xã Thạnh Mỹ Lợi, quận Thủ Đức, tỉnh Gia Định, miền Nam Việt Nam. Thân phụ là cụ ông Trần Văn Hoạch, thân mẫu là cụ bà Lê Thị Ngọc.
19/09/2010(Xem: 8199)
Ngay từ hồi nhỏ tâm hồn tôi đã hướng về đạo Phật. Tôi it nói, sống trong trầm lặng, ham đọc sách, nhất là những sách về đạo Phật viết cho trẻ em. Tôi chỉ có vài đứa bạn cũng giống tính tôi, gặp nhau thì vào buồng thủ thỉ thù thì nói chuyện với nhau. Cha tôi buôn bán lớn, giao thiệp nhiều, và cũng như phần đông các nhà kinh doanh hồi đó, đều quen biết các vị sư và đóng góp nhiều cho chùa chiền. Khi các thầy đến thăm cha tôi, lúc nào tôi cũng đứng gần nghe ngóng say sưa và dâng trà cho các thầy.
04/09/2010(Xem: 5904)
"Cây héo vào xuân hoa nỡ rộ Gió đưa nghìn dặm nức hương thần." Thiền Uyển Tập Anh ( Anh Tú Vườn Thiền) ghi về sư như sau: " Thiền Sư Viên Chiếu (999-1090) thuộc thế hệ thứ bảy dòng Vô Ngôn Thông.Thiền Sư họ Mai, tên Trực người huyện Long Đàm châu Phúc Điền, là con người anh thái hậu Linh Cảm đời Lý. Thuở nhỏ ông thông minh mẫn tuệ, hiếu học. Nghe tiếng trưỡng lão ở chùa Mật Nghiêm giỏi xem tướng, ông bèn đến nhờ xem hộ.
21/08/2010(Xem: 10495)
Tại một ngôi chùa Việt ở Bangkok (Thái Lan), nhục thân của Hòa thượng Thích Phổ Sái vẫn còn nguyên vẹn hình hài sau hơn 50 năm kể từ khi ngài viên tịch. Tọa lạc tại khu Yaowarat (khu phố Tàu) ở Bangkok, ngôi chùa mang tên rất Việt Nam là Khánh Vân có một lịch sử lâu đời do các Hòa thượng người Việt thành lập. Đây là một trong những ngôi chùa Việt thuộc hệ Annamnikaya hay còn gọi là An Nam Tông ở Bangkok. Chính tại chùa Khánh Vân này, nhục thân của Hòa thượng Thích Phổ Sái (pháp danh Giác Lượng), một nhà tu hành gốc Việt, được lưu giữ và thờ cúng.
18/07/2010(Xem: 7509)
Kính bạch Sư Tổ! Chúng con đang tập tiếp xúc với Người qua hình ảnh một bậc thầy già chốn núi rừng Dương Xuân. Một túp liều tranh, một bà mẹ già và với ba người đệ tử. Đó là khoảng thời gian hạnh phúc nhất của Sư Tổ. Người có thời gian chăm sóc mẹ già và trao truyền những hoa trái tu học cho những người học trò yêu quý. Xuất thân từ làng Trung Kiên – một vùng đất Phật giáo ở Quảng Trị, Sư Tổ đã đến chùa Thiên Thọ (Báo Quốc) núi Hàm Long – Huế, để xuất gia học đạo với Thiền sư Phổ Tịnh, lúc đó Người chỉ mới lên bảy tuổi. Đến năm 30 tuổi, nhận thấy nơi Sư Tổ có chí khí của một bậc Xuất trần nên Sư Tổ được Bổn sư phú pháp truyền đăng với bài kệ: Nhất Định chiếu quang minh Hư không nguyệt mãn viên Tổ tổ truyền phú chúc Đạo Minh kế Tánh Thiên.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]