Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 353: Phẩm Đa Vấn Bất Nhị 03

15/07/201519:38(Xem: 12870)
Quyển 353: Phẩm Đa Vấn Bất Nhị 03

Tập 07

Quyển 353

Phẩm Đa Vấn Bất Nhị 03
Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm
Diễn đọc: Cư Sĩ Chánh Trí


 

 

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy sắc, tư duy thọ, tưởng, hành, thức, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy sắc, chẳng tư duy thọ, tưởng, hành, thức, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy nhãn xứ, tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy nhãn xứ, chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy sắc xứ, tư duy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy sắc xứ, chẳng tư duy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy nhãn giới, tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy nhãn giới, chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy sắc giới, tư duy thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy sắc giới, chẳng tư duy thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy nhãn thức giới, tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy nhãn thức giới, chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy nhãn xúc, tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy nhãn xúc, chẳng tư duy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, tư duy các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, chẳng tư duy các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy địa giới, tư duy thủy, hỏa, phong, không, thức giới, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy địa giới, chẳng tư duy thủy, hỏa, phong, không, thức giới, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy vô minh, tư duy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy vô minh, chẳng tư duy hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy bố thí Ba-la-mật-đa, tư duy tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng tư duy tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy pháp không nội, tư duy pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy pháp không nội, chẳng tư duy pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy chơn như, tư duy pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy chơn như, chẳng tư duy pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy Thánh đế khổ, tư duy Thánh đế tập, diệt, đạo, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy Thánh đế khổ, chẳng tư duy Thánh đế tập, diệt, đạo, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy bốn tịnh lự, tư duy bốn vô lượng, bốn định vô sắc, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy bốn tịnh lự, chẳng tư duy bốn vô lượng, bốn định vô sắc, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy tám giải thoát, tư duy tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng đủ khả năng tu đầy đủ các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy tám giải thoát, chẳng tư duy tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có khả năng tu đầy đủ các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy bốn niệm trụ, tư duy bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy bốn niệm trụ, chẳng tư duy bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy pháp môn giải thoát không, tư duy pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy pháp môn giải thoát không, chẳng tư duy pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy năm loại mắt, tư duy sáu phép thần thông, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy năm loại mắt, chẳng tư duy sáu phép thần thông, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy mười lực Phật, tư duy bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy mười lực Phật, chẳng tư duy bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy pháp không quên mất, tư duy tánh luôn luôn xả, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy pháp không quên mất, chẳng tư duy tánh luôn luôn xả, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy trí nhất thiết, tư duy trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy trí nhất thiết, chẳng tư duy trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy tất cả pháp môn Đà-la-ni, tư duy tất cả pháp môn Tam-ma-địa, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng tư duy tất cả pháp môn Tam-ma-địa, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy quả Dự lưu, tư duy quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy quả Dự lưu, chẳng tư duy quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy quả vị Độc giác, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy quả vị Độc giác, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy tất cả hạnh Đại Bồ-tát, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy tất cả hạnh Đại Bồ-tát, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tư duy quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, thì nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì chẳng có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Nếu Đại Bồ-tát chẳng tư duy quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, thì chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới. Nếu chẳng nhiễm trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới, thì có đủ khả năng tu các hạnh Đại Bồ-tát, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát muốn tu hạnh Đại Bồ-tát, muốn chứng quả vị giác ngộ cao tột, thì phải siêng năng tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên tư duy, nhiễm trước các pháp.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì nên an trụ ở đâu?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ sắc, cũng chẳng nên trụ thọ, tưởng, hành, thức.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ nhãn xứ, cũng chẳng nên trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ sắc xứ, cũng chẳng nên trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ nhãn giới, cũng chẳng nên trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ sắc giới, cũng chẳng nên trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp giới.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ nhãn thức giới, cũng chẳng nên trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ nhãn xúc, cũng chẳng nên trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng nên trụ các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ địa giới, cũng chẳng nên trụ thủy, hỏa, phong, không, thức giới.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ vô minh, cũng chẳng nên trụ hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ bố thí Ba-la-mật-đa, cũng chẳng nên trụ tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ pháp không nội, cũng chẳng nên trụ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ chơn như, cũng chẳng nên trụ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ Thánh đế khổ, cũng chẳng nên trụ Thánh đế tập, diệt, đạo.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ bốn tịnh lự, cũng chẳng nên trụ bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ tám giải thoát, cũng chẳng nên trụ tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ bốn niệm trụ, cũng chẳng nên trụ bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ pháp môn giải thoát không, cũng chẳng nên trụ pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ năm loại mắt, cũng chẳng nên trụ sáu phép thần thông.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ mười lực Phật, cũng chẳng nên trụ bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ pháp không quên mất, cũng chẳng nên trụ tánh luôn luôn xả.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ trí nhất thiết, cũng chẳng nên trụ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ tất cả pháp môn Đà-la-ni, cũng chẳng nên trụ tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ quả Dự lưu, cũng chẳng nên trụ quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ quả vị Độc giác.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ tất cả hạnh Đại Bồ-tát.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, thì chẳng nên trụ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ sắc, cũng chẳng nên trụ thọ, tưởng, hành, thức?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ nhãn xứ, cũng chẳng nên trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ sắc xứ, cũng chẳng nên trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ nhãn giới, cũng chẳng nên trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ sắc giới, cũng chẳng nên trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp giới?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ nhãn thức giới, cũng chẳng nên trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ nhãn xúc, cũng chẳng nên trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng nên trụ các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ địa giới, cũng chẳng nên trụ thủy, hỏa, phong, không, thức giới?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ vô minh, cũng chẳng nên trụ hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ bố thí Ba-la-mật-đa, cũng chẳng nên trụ tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ pháp không nội, cũng chẳng nên trụ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ chơn như, cũng chẳng nên trụ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ Thánh đế khổ, cũng chẳng nên trụ Thánh đế tập, diệt, đạo?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ bốn tịnh lự, cũng chẳng nên trụ bốn vô lượng, bốn định vô sắc?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ tám giải thoát, cũng chẳng nên trụ tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ bốn niệm trụ, cũng chẳng nên trụ bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ pháp môn giải thoát không, cũng chẳng nên trụ pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ năm loại mắt, cũng chẳng nên trụ sáu phép thần thông?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ mười lực Phật, cũng chẳng nên trụ bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ pháp không quên mất, cũng chẳng nên trụ tánh luôn luôn xả?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ trí nhất thiết, cũng chẳng nên trụ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ tất cả pháp môn Đà-la-ni, cũng chẳng nên trụ tất cả pháp môn Tam-ma-địa?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ quả Dự lưu, cũng chẳng nên trụ quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ quả vị Độc giác?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ tất cả hạnh Đại Bồ-tát?

Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, chẳng nên trụ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tinh cần tu học Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, vì đối với tất cả pháp, không chấp trước nên chẳng nên trụ sắc, cũng chẳng nên trụ thọ, tưởng, hành, thức; chẳng nên trụ nhãn xứ, cũng chẳng nên trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; chẳng nên trụ sắc xứ, cũng chẳng nên trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; chẳng nên trụ nhãn giới, cũng chẳng nên trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới; chẳng nên trụ sắc giới, cũng chẳng nên trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp giới; chẳng nên trụ nhãn thức giới, cũng chẳng nên trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới; chẳng nên trụ nhãn xúc, cũng chẳng nên trụ nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc; chẳng nên trụ các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cũng chẳng nên trụ các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra; chẳng nên trụ địa giới, cũng chẳng nên trụ thủy, hỏa, phong, không, thức giới; chẳng nên trụ vô minh, cũng chẳng nên trụ hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; chẳng nên trụ bố thí Ba-la-mật-đa, cũng chẳng nên trụ tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; chẳng nên trụ pháp không nội, cũng chẳng nên trụ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; chẳng nên trụ chơn như, cũng chẳng nên trụ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; chẳng nên trụ Thánh đế khổ, cũng chẳng nên trụ Thánh đế tập, diệt, đạo; chẳng nên trụ bốn tịnh lự, cũng chẳng nên trụ bốn vô lượng, bốn định vô sắc; chẳng nên trụ tám giải thoát, cũng chẳng nên trụ tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; chẳng nên trụ bốn niệm trụ, cũng chẳng nên trụ bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; chẳng nên trụ pháp môn giải thoát không, cũng chẳng nên trụ pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; chẳng nên trụ năm loại mắt, cũng chẳng nên trụ sáu phép thần thông; chẳng nên trụ mười lực Phật, cũng chẳng nên trụ bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; chẳng nên trụ pháp không quên mất, cũng chẳng nên trụ tánh luôn luôn xả; chẳng nên trụ trí nhất thiết, cũng chẳng nên trụ trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; chẳng nên trụ tất cả pháp môn Đà-la-ni, cũng chẳng nên trụ tất cả pháp môn Tam-ma-địa; chẳng nên trụ quả Dự lưu, cũng chẳng nên trụ quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán; chẳng nên trụ quả vị Độc giác; chẳng nên trụ tất cả hạnh Đại Bồ-tát; chẳng nên trụ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật. Vì sao? Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy chẳng thấy có pháp nào có thể ở trong đó mà khởi chấp trước và an trụ.

Này Thiện Hiện! Như vậy là Đại Bồ-tát dùng sự không chấp trước và không an trụ mà làm phương tiện để tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát nghĩ thề này: Nếu có khả năng không chấp trước, không an trụ như thế mà hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa là hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu có khả năng không chấp trước, không an trụ như thế mà tu sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa là tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Ta nên hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa như thế; ta nên tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa như thế.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, do nghĩ như thế, nên thủ tướng chấp trước, xa lìa Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu xa lìa Bát-nhã Ba-la-mật-đa thì xa lìa tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa; cũng xa lìa pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; cũng xa lìa chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; cũng xa lìa Thánh đế khổ, Thánh đế tập, diệt, đạo; cũng xa lìa bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; cũng xa lìa tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; cũng xa lìa bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; cũng xa lìa pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; cũng xa lìa năm loại mắt, sáu phép thần thông; cũng xa lìa mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; cũng xa lìa pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; cũng xa lìa trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; cũng xa lìa tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa; cũng xa lìa tất cả hạnh Đại Bồ-tát; cũng xa lìa quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với tất cả pháp không có sự chấp trước, chẳng phải là tánh có chấp trước của Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa hoàn toàn không có tự tánh để có thể đối với các pháp có sự chấp trước. Vì vậy, này Thiện Hiện! Các Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa đối với tất cả pháp và Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, đều không chấp trước.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa khởi tưởng như thế này: Đây là Bát-nhã Ba-la-mật-đa; ta hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa tức là hành khắp thật tướng các pháp.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, do khởi tưởng này nên từ bỏ Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu từ bỏ Bát-nhã Ba-la-mật-đa thì từ bỏ tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa; cũng từ bỏ pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; cũng từ bỏ chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; cũng từ bỏ Thánh đế khổ, Thánh đế tập, diệt, đạo; cũng từ bỏ bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; cũng từ bỏ tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; cũng từ bỏ bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; cũng từ bỏ pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; cũng từ bỏ năm loại mắt, sáu phép thần thông; cũng từ bỏ mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; cũng từ bỏ pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; cũng từ bỏ trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; cũng từ bỏ tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa; cũng từ bỏ tất cả hạnh Đại Bồ-tát; cũng từ bỏ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa là tất cả hạt giống của bạch pháp. Nếu từ  bỏ Bát-nhã Ba-la-mật-đa tức là từ  bỏ tất cả bạch pháp.

 

Quyển thứ 353

Hết

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/10/2010(Xem: 7445)
Truyện của tôi không đáng gì mà phải ghi. Chỉ vì truyện ấy, hơn vài thập kỷ trước thập kỷ 2530 (1975-1985), có liên quan đến Phật giáo VN, lại bị hư cấu truyện và phim sai quá nên phải ghi. Nhưng ghi như dưới đây thì chỉ là có còn hơn không mà thôi. Sinh chính quán của tôi là làng Diêm Điền, thuộc khu vực phía tây sông Nhật Lệ, nằm phía Bắc con đường cái quan nối liền cổng Quảng Bình, trung tâm thành phố Đồng Hới, đến tận của Vũ Thắng, ven chân dãy núi Hoành Sơn.
03/10/2010(Xem: 6469)
Đức Phật dạy: Ai muốn tin Ta, làm đệ tử Ta, cần phải đủ trí quán sát, mới tin; không rõ nguyên nhân Ta, mà tin Ta ấy là phỉ báng Ta. Ý câu này, Ngài bảo đệ tử của Ngài, ai muốn tu, muốn hành theo hạnh Ngài thì phải rõ các hành vi của ngài. Nghĩa là: xét rõ nguyên nhân của Ngài, sẽ tin và làm theo, chớ đừng làm càn, tin bướng thì khác nào không phải lương y mà giả xưng là lương y, cách đó rất tai hại. Chúng ta nên biết: "Bồ Tát thị hiện phàm phu, chính phàm phú đó là hóa thân Bồ tát; còn phàm phu giả xưng Bồ tát thì Bồ tát ấy là Bồ tát của phàm phu". Nếu đem tâm phàm phu đó hành xử thì chỉ chuốc lấy phiền não khổ đau.
03/10/2010(Xem: 9529)
HT Minh Tâm (Khinh Anh) , 50 năm một đời người - Một đời đạo Pháp - phần 1 - Ngày Vía Quan Âm sắp đến.. 19 tháng 2 năm Giáp Ngọ . Chùa Phật Ân Tổ chức lễ Hoàn Nguyện , sau hai năm trùng kiến Ngôi Chánh Điện lần cuối và một số hạng mục khác. Vì nhân duyên đó , xin giới thiệu đến với quý thiện nam tín nữ , Phật tử gần xa , các Bậc Thiện Tri Thức . Một chuỗi hình ảnh của thầy Minh Tâm đã chuyển thể qua video , từ năm 1963 - 2014 . với nhan đề : THẦY MINH TÂM , 50 NĂM MỘT ĐỜI NGƯỜI - MỘT ĐỜI VÌ ĐẠO PHÁP . Trong quá trình sưu tầm , dàn dựng . Sai sót là điều khó tránh khỏi , kính mong quý vị hoan hỷ . NAM MÔ HOANG HỶ TẠNG BỒ TÁT .
29/09/2010(Xem: 9957)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
28/09/2010(Xem: 7845)
Hòa Thượng THÍCH QUẢNG TÂM (1947 - 2010), húy Như Hảo, thế danh Lê Tấn Quang, sinh ngày 12 tháng 8 năm Đinh Hợi (1947) tại làng Thạch Trụ huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi trong một gia đình nhiều đời thâm tín Tam Bảo và có truyền thống xuất gia tu học.
23/09/2010(Xem: 6647)
Hòa Thượng Thích Phước Huệ sanh năm 1922, tại ấp Mỹ Thủy, xã Thạnh Mỹ Lợi, quận Thủ Đức, tỉnh Gia Định, miền Nam Việt Nam. Thân phụ là cụ ông Trần Văn Hoạch, thân mẫu là cụ bà Lê Thị Ngọc.
19/09/2010(Xem: 8198)
Ngay từ hồi nhỏ tâm hồn tôi đã hướng về đạo Phật. Tôi it nói, sống trong trầm lặng, ham đọc sách, nhất là những sách về đạo Phật viết cho trẻ em. Tôi chỉ có vài đứa bạn cũng giống tính tôi, gặp nhau thì vào buồng thủ thỉ thù thì nói chuyện với nhau. Cha tôi buôn bán lớn, giao thiệp nhiều, và cũng như phần đông các nhà kinh doanh hồi đó, đều quen biết các vị sư và đóng góp nhiều cho chùa chiền. Khi các thầy đến thăm cha tôi, lúc nào tôi cũng đứng gần nghe ngóng say sưa và dâng trà cho các thầy.
04/09/2010(Xem: 5904)
"Cây héo vào xuân hoa nỡ rộ Gió đưa nghìn dặm nức hương thần." Thiền Uyển Tập Anh ( Anh Tú Vườn Thiền) ghi về sư như sau: " Thiền Sư Viên Chiếu (999-1090) thuộc thế hệ thứ bảy dòng Vô Ngôn Thông.Thiền Sư họ Mai, tên Trực người huyện Long Đàm châu Phúc Điền, là con người anh thái hậu Linh Cảm đời Lý. Thuở nhỏ ông thông minh mẫn tuệ, hiếu học. Nghe tiếng trưỡng lão ở chùa Mật Nghiêm giỏi xem tướng, ông bèn đến nhờ xem hộ.
21/08/2010(Xem: 10495)
Tại một ngôi chùa Việt ở Bangkok (Thái Lan), nhục thân của Hòa thượng Thích Phổ Sái vẫn còn nguyên vẹn hình hài sau hơn 50 năm kể từ khi ngài viên tịch. Tọa lạc tại khu Yaowarat (khu phố Tàu) ở Bangkok, ngôi chùa mang tên rất Việt Nam là Khánh Vân có một lịch sử lâu đời do các Hòa thượng người Việt thành lập. Đây là một trong những ngôi chùa Việt thuộc hệ Annamnikaya hay còn gọi là An Nam Tông ở Bangkok. Chính tại chùa Khánh Vân này, nhục thân của Hòa thượng Thích Phổ Sái (pháp danh Giác Lượng), một nhà tu hành gốc Việt, được lưu giữ và thờ cúng.
18/07/2010(Xem: 7509)
Kính bạch Sư Tổ! Chúng con đang tập tiếp xúc với Người qua hình ảnh một bậc thầy già chốn núi rừng Dương Xuân. Một túp liều tranh, một bà mẹ già và với ba người đệ tử. Đó là khoảng thời gian hạnh phúc nhất của Sư Tổ. Người có thời gian chăm sóc mẹ già và trao truyền những hoa trái tu học cho những người học trò yêu quý. Xuất thân từ làng Trung Kiên – một vùng đất Phật giáo ở Quảng Trị, Sư Tổ đã đến chùa Thiên Thọ (Báo Quốc) núi Hàm Long – Huế, để xuất gia học đạo với Thiền sư Phổ Tịnh, lúc đó Người chỉ mới lên bảy tuổi. Đến năm 30 tuổi, nhận thấy nơi Sư Tổ có chí khí của một bậc Xuất trần nên Sư Tổ được Bổn sư phú pháp truyền đăng với bài kệ: Nhất Định chiếu quang minh Hư không nguyệt mãn viên Tổ tổ truyền phú chúc Đạo Minh kế Tánh Thiên.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]