Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 354: Phẩm Đa Vấn Bất Nhị 04

15/07/201519:40(Xem: 12910)
Quyển 354: Phẩm Đa Vấn Bất Nhị 04

Tập 07

Quyển 354

Phẩm Đa Vấn Bất Nhị 04
Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm
Diễn đọc: Cư Sĩ Chánh Trí

 

 

- Lại nữa, Thiện Hiện! Hoặc Đại Bồ-tát nghĩ như thế này: Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa có khả năng nhiếp thọ khắp bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; cũng nhiếp thọ khắp pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; cũng nhiếp thọ khắp chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; cũng nhiếp thọ khắp Thánh đế khổ, Thánh đế tập, diệt, đạo; cũng nhiếp thọ khắp bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; cũng nhiếp thọ khắp tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; cũng nhiếp thọ khắp bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; cũng nhiếp thọ khắp pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; cũng nhiếp thọ khắp năm loại mắt, sáu phép thần thông; cũng nhiếp thọ khắp mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; cũng nhiếp thọ khắp pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; cũng nhiếp thọ khắp trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; cũng nhiếp thọ khắp tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa; cũng nhiếp thọ khắp tất cả hạnh Đại Bồ-tát; cũng nhiếp thọ khắp quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật.

Này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát ấy nghĩ như thế thì thối thất Bát-nhã Ba-la-mật-đa; nếu thối thất Bát-nhã Ba-la-mật-đa thì chẳng có khả năng nhiếp thọ bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; cũng chẳng có khả năng nhiếp thọ pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; cũng chẳng có khả năng nhiếp thọ chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; cũng chẳng có khả năng nhiếp thọ Thánh đế khổ, Thánh đế tập, diệt, đạo; cũng chẳng có khả năng nhiếp thọ bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; cũng chẳng có khả năng nhiếp thọ tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; cũng chẳng có khả năng nhiếp thọ bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; cũng chẳng có khả năng nhiếp thọ pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; cũng chẳng có khả năng nhiếp thọ năm loại mắt, sáu phép thần thông; cũng chẳng có khả năng nhiếp thọ mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; cũng chẳng có khả năng nhiếp thọ pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; cũng chẳng có khả năng nhiếp thọ trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; cũng chẳng có khả năng nhiếp thọ tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa; cũng chẳng có khả năng nhiếp thọ tất cả hạnh Đại Bồ-tát; cũng chẳng có khả năng nhiếp thọ quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì chẳng phải lìa Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà có thể nhiếp thọ khắp thiện pháp thù thắng và chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Hoặc Đại Bồ-tát nghĩ như thế này: An trụ Bát-nhã Ba-la-mật-đa thì đối với quả vị giác ngộ cao tột, nhất định được thọ ký.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy nếu nghĩ như thế thì bị thối thất Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa; nếu thối thất Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thì đối với quả vị giác ngộ cao tột chẳng được thọ ký. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì chẳng phải lìa Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà đối với quả vị giác ngộ cao tột có thể được thọ ký.

Lại nữa, Thiện Hiện! Hoặc Đại Bồ-tát nghĩ như thế này: An trụ Bát-nhã Ba-la-mật-đa thì dẫn phát khắp bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; cũng an trụ khắp pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; cũng an trụ khắp chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; cũng an trụ khắp Thánh đế khổ, Thánh đế tập, diệt, đạo; cũng dẫn phát khắp bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; cũng dẫn phát khắp tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; cũng dẫn phát khắp bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; cũng dẫn phát khắp pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; cũng dẫn phát khắp năm loại mắt, sáu phép thần thông; cũng dẫn phát khắp mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng; cũng dẫn phát khắp pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; cũng dẫn phát khắp tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa; cũng dẫn phát khắp trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; cũng dẫn phát khắp đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, nếu nghĩ như thế thì thối thất Bát-nhã Ba-la-mật-đa; nếu thối thất Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thì chẳng có khả năng dẫn phát bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa; cũng chẳng có khả năng an trụ pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; cũng chẳng có khả năng an trụ chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; cũng chẳng có khả năng an trụ Thánh đế khổ, Thánh đế tập, diệt, đạo; cũng chẳng có khả năng dẫn phát bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; cũng chẳng có khả năng dẫn phát tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; cũng chẳng có khả năng dẫn phát bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; cũng chẳng có khả năng dẫn phát pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; cũng chẳng có khả năng dẫn phát năm loại mắt, sáu phép thần thông; cũng chẳng có khả năng dẫn phát mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng; cũng chẳng có khả năng dẫn phát pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; cũng chẳng có khả năng dẫn phát tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa; cũng chẳng có khả năng dẫn phát trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; cũng chẳng có khả năng dẫn phát đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì chẳng phải lìa Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà có khả năng dẫn phát an trụ thiện pháp.

Lại nữa, Thiện Hiện! Hoặc Đại Bồ-tát nghĩ thế này:

- Phật biết các pháp không có tướng nhiếp thọ, tự chứng quả vị giác ngộ cao tột, đã đắc Bồ-đề rồi, vì các hữu tình tuyên thuyết, khai thị thật tướng các pháp.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, nếu nghĩ như thế thì bị thối thất Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Như Lai đối với pháp, không biết, không hiểu, không tuyên thuyết, không khai thị. Vì sao? Vì thật tướng các pháp chẳng thể hiểu biết, chẳng thể an lập, thì làm sao đạt được cái có hiểu, có biết, có tuyên thuyết, có khai thị, đối với tất cả pháp. Nếu nói thật có cái hiểu, biết, tuyên thuyết, khai thị tất cả pháp, thì không có việc đó.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa thì làm sao xa lìa các thứ lầm lỗi như thế?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Hoặc Đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa nghĩ thế này: Các pháp không có sở hữu, chẳng thể nắm bắt; nếu pháp không có sở hữu, chẳng thể nắm bắt được thì không có khả năng biểu hiện sự hiểu biết, cũng không có khả năng tuyên thuyết, khai thị. Nếu hành như thế là hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, xa lìa các lầm lỗi. Nếu Đại Bồ-tát chấp trước pháp không có sở hữu, chẳng thể nắm bắt, thì xa lìa Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa đối với tất cả pháp, không có sự chấp trước, không có sự nhiếp thọ. Nếu đối với các pháp có sự chấp trước, có sự nhiếp thọ thì xa lìa Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát-nhã Ba-la-mật-đa đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa là xa lìa hay chẳng xa lìa? tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa đối với tịnh lự cho đến bố thí Ba-la-mật-đa là xa lìa hay chẳng xa lìa?

Bạch Thế Tôn! Pháp không nội đối với pháp không nội là xa lìa hay chẳng xa lìa? Pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh đối với pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh là xa lìa hay chẳng xa lìa?

Bạch Thế Tôn! Chơn như đối với chơn như là xa lìa hay chẳng xa lìa? Pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì đối với pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì là xa lìa hay chẳng xa lìa?

Bạch Thế Tôn! Thánh đế khổ đối với Thánh đế khổ là xa lìa hay chẳng xa lìa? Thánh đế tập, diệt, đạo đối với Thánh đế tập, diệt, đạo là xa lìa hay chẳng xa lìa?

Bạch Thế Tôn! Bốn tịnh lự đối với bốn tịnh lự là xa lìa hay chẳng xa lìa? Bốn vô lượng, bốn định vô sắc đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc là xa lìa hay chẳng xa lìa?

Bạch Thế Tôn! Tám giải thoát đối với tám giải thoát là xa lìa hay chẳng xa lìa? Tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là xa lìa hay chẳng xa lìa?

Bạch Thế Tôn! Bốn niệm trụ đối với bốn niệm trụ là xa lìa hay chẳng xa lìa? Bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo đối với bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo là xa lìa hay chẳng xa lìa?

Bạch Thế Tôn! Pháp môn giải thoát không đối với pháp môn giải thoát không là xa lìa hay chẳng xa lìa? Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là xa lìa hay chẳng xa lìa?

Bạch Thế Tôn! Năm loại mắt đối với năm loại mắt là xa lìa hay chẳng xa lìa? Sáu phép thần thông đối với sáu phép thần thông là xa lìa hay chẳng xa lìa?

Bạch Thế Tôn! Mười lực Phật đối với mười lực Phật là xa lìa hay chẳng xa lìa? Bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng đối với bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là xa lìa hay chẳng xa lìa?

Bạch Thế Tôn! Pháp không quên mất đối với pháp không quên mất là xa lìa hay chẳng xa lìa? Tánh luôn luôn xả đối với tánh luôn luôn xả là xa lìa hay chẳng xa lìa?

Bạch Thế Tôn! Tất cả pháp môn Đà-la-ni đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni là xa lìa hay chẳng xa lìa? Tất cả pháp môn Tam-ma-địa đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa là xa lìa hay chẳng xa lìa?

Bạch Thế Tôn! Trí nhất thiết đối với trí nhất thiết là xa lìa hay chẳng xa lìa? Trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là xa lìa hay chẳng xa lìa?

Bạch Thế Tôn! Nếu Bát-nhã Ba-la-mật-đa đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát Bát-nhã Ba-la-mật-đa?

Bạch Thế Tôn! Nếu tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa đối với tịnh lự cho đến bố thí Ba-la-mật-đa dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát tịnh lự cho đến bố thí Ba-la-mật-đa?

Bạch Thế Tôn! Nếu pháp không nội đối với pháp không nội dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà an trụ pháp không nội?

Bạch Thế Tôn! Nếu pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, đối với pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà an trụ pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh?

Bạch Thế Tôn! Nếu chơn như đối với chơn như dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà an trụ chơn như?

Bạch Thế Tôn! Nếu pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì đối với pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà an trụ pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì?

Bạch Thế Tôn! Nếu Thánh đế khổ đối với Thánh đế khổ dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà an trụ Thánh đế khổ?

Bạch Thế Tôn! Nếu Thánh đế tập, diệt, đạo đối với Thánh đế tập, diệt, đạo dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo?

Bạch Thế Tôn! Nếu bốn tịnh lự đối với bốn tịnh lự dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát bốn tịnh lự?

Bạch Thế Tôn! Nếu bốn vô lượng, bốn định vô sắc đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát bốn vô lượng, bốn định vô sắc?

Bạch Thế Tôn! Nếu tám giải thoát đối với tám giải thoát dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát tám giải thoát?

Bạch Thế Tôn! Nếu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ?

Bạch Thế Tôn! Nếu bốn niệm trụ đối với bốn niệm trụ dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát bốn niệm trụ?

Bạch Thế Tôn! Nếu bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo đối với bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo?

Bạch Thế Tôn! Nếu pháp môn giải thoát không đối với pháp môn giải thoát không dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát pháp môn giải thoát không?

Bạch Thế Tôn! Nếu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện?

Bạch Thế Tôn! Nếu năm loại mắt đối với năm loại mắt dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát năm loại mắt?

Bạch Thế Tôn! Nếu sáu phép thần thông đối với sáu phép thần thông dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát sáu phép thần thông?

Bạch Thế Tôn! Nếu mười lực Phật đối với mười lực Phật dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát mười lực Phật?

Bạch Thế Tôn! Nếu bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng đối với bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng?

Bạch Thế Tôn! Nếu pháp không quên mất đối với pháp không quên mất dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát pháp không quên mất?

Bạch Thế Tôn! Nếu tánh luôn luôn xả đối với tánh luôn luôn xả dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát tánh luôn luôn xả?

Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp môn Đà-la-ni đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước dẫn phát tất cả pháp môn Đà-la-ni?

Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp môn Tam-ma-địa đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát tất cả pháp môn Tam-ma-địa?

Bạch Thế Tôn! Nếu trí nhất thiết đối với trí nhất thiết dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát trí nhất thiết?

Bạch Thế Tôn! Nếu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng dù xa lìa, dù chẳng xa lìa, thì làm sao Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Bát-nhã Ba-la-mật-đa đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa đối với tịnh lự cho đến bố thí Ba-la-mật-đa chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát tịnh lự cho đến bố thí Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Pháp không nội đối với pháp không nội chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà an trụ pháp không nội.

Này Thiện Hiện! Pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, đối với pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà an trụ pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh.

Này Thiện Hiện! Chơn như đối với chơn như chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà an trụ chơn như.

Này Thiện Hiện! Pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì đối với pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà an trụ pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì.

Này Thiện Hiện! Thánh đế khổ đối với Thánh đế khổ chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà an trụ Thánh đế khổ.

Này Thiện Hiện! Thánh đế tập, diệt, đạo đối với Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo.

Này Thiện Hiện! Bốn tịnh lự đối với bốn tịnh lự chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát bốn tịnh lự.

Này Thiện Hiện! Bốn vô lượng, bốn định vô sắc đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Này Thiện Hiện! Tám giải thoát đối với tám giải thoát chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát tám giải thoát.

Này Thiện Hiện! Tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Này Thiện Hiện! Bốn niệm trụ đối với bốn niệm trụ chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát bốn niệm trụ?

Này Thiện Hiện! Bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo đối với bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo.

Này Thiện Hiện! Pháp môn giải thoát không đối với pháp môn giải thoát không chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát pháp môn giải thoát không.

Này Thiện Hiện! Pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.

Này Thiện Hiện! Năm loại mắt đối với năm loại mắt chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát năm loại mắt.

Này Thiện Hiện! Sáu phép thần thông đối với sáu phép thần thông chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát sáu phép thần thông.

Này Thiện Hiện! mười lực Phật đối với mười lực Phật chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát mười lực Phật.

Này Thiện Hiện! Bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng đối với bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.

Này Thiện Hiện! Pháp không quên mất đối với pháp không quên mất chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát pháp không quên mất.

Này Thiện Hiện! Tánh luôn luôn xả đối với tánh luôn luôn xả chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát tánh luôn luôn xả.

Này Thiện Hiện! Tất cả pháp môn Đà-la-ni đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa, vì vậy Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát tất cả pháp môn Đà-la-ni.

Này Thiện Hiện! Tất cả pháp môn Tam-ma-địa thì đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa, vì vậy Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Này Thiện Hiện! Trí nhất thiết đối với trí nhất thiết chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát trí nhất thiết.

Này Thiện Hiện! Trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng phải xa lìa, chẳng phải chẳng xa lìa. Vì vậy, Đại Bồ-tát có thể không chấp trước mà dẫn phát trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì chẳng phải chính tự tánh, chẳng phải lìa tự tánh, mà có thể an trụ, dẫn phát tự tánh.

Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước sắc, cho đây là sắc, sắc này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước thọ, tưởng, hành, thức, cho đây là thọ, tưởng, hành, thức, thọ, tưởng, hành, thức này thuộc kia.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước nhãn xứ, cho đây là nhãn xứ, nhãn xứ này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, cho đây là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ này thuộc kia.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước sắc xứ, cho đây là sắc xứ, sắc xứ này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, cho đây là thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ này thuộc kia.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước nhãn giới, cho đây là nhãn giới, nhãn giới này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, cho đây là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới này thuộc kia.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước sắc giới, cho đây là sắc giới, sắc giới này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, cho đây là thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, thanh, hương, vị, xúc, pháp giới này thuộc kia.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước nhãn thức giới, cho đây là nhãn thức giới, nhãn thức giới này thuộc kia., chẳng chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, Cho đây là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới này thuộc kia.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước nhãn xúc, cho đây là nhãn xúc, nhãn xúc này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, cho đây là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc này thuộc kia.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đây là các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, cho đây là các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra này thuộc kia.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước địa giới, cho đây là địa giới, địa giới này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước thủy, hỏa, phong, không, thức giới, cho đây là thủy, hỏa, phong, không, thức giới, thủy, hỏa, phong, không, thức giới này thuộc kia.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước vô minh, cho đây là vô minh, vô minh này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, cho đây là hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não, hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não này thuộc kia.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước bố thí Ba-la-mật-đa, cho đây là bố thí Ba-la-mật-đa, bố thí Ba-la-mật-đa này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, cho đây là tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa này thuộc kia.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước pháp không nội, cho đây là pháp không nội, pháp không nội này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, cho đây là pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh, pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh này thuộc kia.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước chơn như, cho đây là chơn như, chơn như này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, cho đây là pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì, pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì này thuộc kia.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước Thánh đế khổ, cho đây là Thánh đế khổ, Thánh đế khổ này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước Thánh đế tập, diệt, đạo, cho đây là Thánh đế tập, diệt, đạo, Thánh đế tập, diệt, đạo này thuộc kia.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước bốn tịnh lự, cho đây là bốn tịnh lự, bốn tịnh lự này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước bốn vô lượng, bốn định vô sắc, cho đây là bốn vô lượng, bốn định vô sắc; bốn vô lượng, bốn định vô sắc này thuộc kia.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước tám giải thoát, cho đây là tám giải thoát, tám giải thoát này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, cho đây là tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ này thuộc kia.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước bốn niệm trụ, cho đây là bốn niệm trụ, bốn niệm trụ này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, cho đây là bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo, bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo này thuộc kia.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước pháp môn giải thoát không, cho đây là pháp môn giải thoát không, pháp môn giải thoát không này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, cho đây là pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện này thuộc kia.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước năm loại mắt, cho đây là năm loại mắt, năm loại mắt này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước sáu phép thần thông, cho đây là sáu phép thần thông, sáu phép thần thông này thuộc kia.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước mười lực Phật, cho đây là mười lực Phật, mười lực Phật này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, cho đây là bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng này thuộc kia.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước pháp không quên mất, cho đây là pháp không quên mất, pháp không quên mất này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước tánh luôn luôn xả, cho đây là tánh luôn luôn xả, tánh luôn luôn xả này thuộc kia.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước trí nhất thiết, cho đây là trí nhất thiết, trí nhất thiết này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, cho đây là trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng này thuộc kia.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước tất cả pháp môn Đà-la-ni, cho đây là tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Đà-la-ni này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước tất cả pháp môn Tam-ma-địa, cho đây là tất cả pháp môn Tam-ma-địa, tất cả pháp môn Tam-ma-địa này thuộc kia.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước quả Dự lưu, cho đây là quả Dự lưu, quả Dự lưu này thuộc kia; cũng chẳng chấp trước quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, cho đây là quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán; quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán này thuộc kia.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước quả vị Độc-giác, cho đây là quả vị Độc-giác, quả vị Độc-giác này thuộc kia.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước tất cả hạnh Đại Bồ-tát, cho đây là tất cả hạnh Bồ-tát, tất cả hạnh Đại Bồ-tát này thuộc kia.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng chấp trước quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, cho đây là quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật này thuộc kia.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế vì không chấp trước, nên có thể dẫn phát Bát-nhã Ba-la-mật-đa; cũng có thể dẫn phát tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba-la-mật-đa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế vì không chấp trước, nên có thể an trụ pháp không nội; cũng có thể an trụ pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế vì không chấp trước, nên có thể an trụ chơn như; cũng có thể an trụ pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế vì không chấp trước, nên có thể an trụ Thánh đế khổ; cũng có thể an trụ Thánh đế tập, diệt, đạo.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế vì không chấp trước, nên có thể dẫn phát bốn tịnh lự; cũng có thể dẫn phát bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế vì không chấp trước, nên có thể dẫn phát tám giải thoát; cũng có thể dẫn phát tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế vì không chấp trước, nên có thể dẫn phát bốn niệm trụ; cũng có thể dẫn phát bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế vì không chấp trước, nên có thể dẫn phát pháp môn giải thoát không; cũng có thể dẫn phát pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế hông chấp trước, nên có thể dẫn phát năm loại mắt; cũng có thể dẫn phát sáu phép thần thông.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế vì không chấp trước, nên có thể dẫn phát mười lực Phật; cũng có thể dẫn phát bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế vì không chấp trước, nên có thể dẫn phát pháp không quên mất; cũng có thể phát tánh luôn luôn xả.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế vì không chấp trước, nên có thể dẫn phát tất cả pháp môn Đà-la-ni; cũng có thể dẫn phát tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát ấy, đối với tất cả pháp như thế vì không chấp trước, nên có thể dẫn phát trí nhất thiết; cũng có thể dẫn phát trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Vì sao? Này Thiện Hiện! Vì nếu Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đối với các pháp có sự chấp trước cho đây là pháp, pháp này thuộc kia, thì chẳng thể tùy ý dẫn phát, an trụ công đức thù thắng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán sắc hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán thọ, tưởng, hành, thức hoặc thuờng hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán nhãn xứ hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán sắc xứ hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hơặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán nhãn giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán sắc giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán thanh, hương, vị, xúc, pháp giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán nhãn thức giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán nhãn xúc hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chẳng quán địa giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ hoặc ngã hơặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc thường hoặc vô thường hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi hành sâu sắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa chẳng quán vô minh hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly; cũng chẳng quán hành thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly.

 

Quyển thứ 354

Hết

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/10/2010(Xem: 6585)
Thượng tọa Thích Thông Huệ, thế danh Bùi Hữu Hòa, sinh năm Tân Sửu (1961) tại Phan Rang - Ninh Thuận. Năm 20 tuổi (Canh Thân - 1980) xuất gia với Hòa thượng Thích Đỗng Hải, trụ trì Tổ đình Sắc tứ Thiền lâm tự - Phan Rang, Ninh Thuận. Năm 1982 Hòa thượng Bổn sư viên tịch, Thượng tọa đã đãnh lễ Hòa thượng Thích Đỗng Minh, cũng là vị Sư Bá trong tông môn, để được làm đệ tử Y chỉ sư.
04/10/2010(Xem: 7584)
Truyện của tôi không đáng gì mà phải ghi. Chỉ vì truyện ấy, hơn vài thập kỷ trước thập kỷ 2530 (1975-1985), có liên quan đến Phật giáo VN, lại bị hư cấu truyện và phim sai quá nên phải ghi. Nhưng ghi như dưới đây thì chỉ là có còn hơn không mà thôi. Sinh chính quán của tôi là làng Diêm Điền, thuộc khu vực phía tây sông Nhật Lệ, nằm phía Bắc con đường cái quan nối liền cổng Quảng Bình, trung tâm thành phố Đồng Hới, đến tận của Vũ Thắng, ven chân dãy núi Hoành Sơn.
03/10/2010(Xem: 6554)
Đức Phật dạy: Ai muốn tin Ta, làm đệ tử Ta, cần phải đủ trí quán sát, mới tin; không rõ nguyên nhân Ta, mà tin Ta ấy là phỉ báng Ta. Ý câu này, Ngài bảo đệ tử của Ngài, ai muốn tu, muốn hành theo hạnh Ngài thì phải rõ các hành vi của ngài. Nghĩa là: xét rõ nguyên nhân của Ngài, sẽ tin và làm theo, chớ đừng làm càn, tin bướng thì khác nào không phải lương y mà giả xưng là lương y, cách đó rất tai hại. Chúng ta nên biết: "Bồ Tát thị hiện phàm phu, chính phàm phú đó là hóa thân Bồ tát; còn phàm phu giả xưng Bồ tát thì Bồ tát ấy là Bồ tát của phàm phu". Nếu đem tâm phàm phu đó hành xử thì chỉ chuốc lấy phiền não khổ đau.
03/10/2010(Xem: 9679)
HT Minh Tâm (Khinh Anh) , 50 năm một đời người - Một đời đạo Pháp - phần 1 - Ngày Vía Quan Âm sắp đến.. 19 tháng 2 năm Giáp Ngọ . Chùa Phật Ân Tổ chức lễ Hoàn Nguyện , sau hai năm trùng kiến Ngôi Chánh Điện lần cuối và một số hạng mục khác. Vì nhân duyên đó , xin giới thiệu đến với quý thiện nam tín nữ , Phật tử gần xa , các Bậc Thiện Tri Thức . Một chuỗi hình ảnh của thầy Minh Tâm đã chuyển thể qua video , từ năm 1963 - 2014 . với nhan đề : THẦY MINH TÂM , 50 NĂM MỘT ĐỜI NGƯỜI - MỘT ĐỜI VÌ ĐẠO PHÁP . Trong quá trình sưu tầm , dàn dựng . Sai sót là điều khó tránh khỏi , kính mong quý vị hoan hỷ . NAM MÔ HOANG HỶ TẠNG BỒ TÁT .
29/09/2010(Xem: 10056)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
28/09/2010(Xem: 7912)
Hòa Thượng THÍCH QUẢNG TÂM (1947 - 2010), húy Như Hảo, thế danh Lê Tấn Quang, sinh ngày 12 tháng 8 năm Đinh Hợi (1947) tại làng Thạch Trụ huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi trong một gia đình nhiều đời thâm tín Tam Bảo và có truyền thống xuất gia tu học.
23/09/2010(Xem: 6735)
Hòa Thượng Thích Phước Huệ sanh năm 1922, tại ấp Mỹ Thủy, xã Thạnh Mỹ Lợi, quận Thủ Đức, tỉnh Gia Định, miền Nam Việt Nam. Thân phụ là cụ ông Trần Văn Hoạch, thân mẫu là cụ bà Lê Thị Ngọc.
19/09/2010(Xem: 8306)
Ngay từ hồi nhỏ tâm hồn tôi đã hướng về đạo Phật. Tôi it nói, sống trong trầm lặng, ham đọc sách, nhất là những sách về đạo Phật viết cho trẻ em. Tôi chỉ có vài đứa bạn cũng giống tính tôi, gặp nhau thì vào buồng thủ thỉ thù thì nói chuyện với nhau. Cha tôi buôn bán lớn, giao thiệp nhiều, và cũng như phần đông các nhà kinh doanh hồi đó, đều quen biết các vị sư và đóng góp nhiều cho chùa chiền. Khi các thầy đến thăm cha tôi, lúc nào tôi cũng đứng gần nghe ngóng say sưa và dâng trà cho các thầy.
04/09/2010(Xem: 6027)
"Cây héo vào xuân hoa nỡ rộ Gió đưa nghìn dặm nức hương thần." Thiền Uyển Tập Anh ( Anh Tú Vườn Thiền) ghi về sư như sau: " Thiền Sư Viên Chiếu (999-1090) thuộc thế hệ thứ bảy dòng Vô Ngôn Thông.Thiền Sư họ Mai, tên Trực người huyện Long Đàm châu Phúc Điền, là con người anh thái hậu Linh Cảm đời Lý. Thuở nhỏ ông thông minh mẫn tuệ, hiếu học. Nghe tiếng trưỡng lão ở chùa Mật Nghiêm giỏi xem tướng, ông bèn đến nhờ xem hộ.
21/08/2010(Xem: 10658)
Tại một ngôi chùa Việt ở Bangkok (Thái Lan), nhục thân của Hòa thượng Thích Phổ Sái vẫn còn nguyên vẹn hình hài sau hơn 50 năm kể từ khi ngài viên tịch. Tọa lạc tại khu Yaowarat (khu phố Tàu) ở Bangkok, ngôi chùa mang tên rất Việt Nam là Khánh Vân có một lịch sử lâu đời do các Hòa thượng người Việt thành lập. Đây là một trong những ngôi chùa Việt thuộc hệ Annamnikaya hay còn gọi là An Nam Tông ở Bangkok. Chính tại chùa Khánh Vân này, nhục thân của Hòa thượng Thích Phổ Sái (pháp danh Giác Lượng), một nhà tu hành gốc Việt, được lưu giữ và thờ cúng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]