Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 76: Phẩm Tịnh Đạo 2

07/07/201516:09(Xem: 14543)
Quyển 76: Phẩm Tịnh Đạo 2

Tập 02
Quyển 76
Phẩm Tịnh Đạo 2
Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm
Diễn đọc: Cư Sĩ Chánh Trí


 

Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà tâm không nghi hoặc, cũng chẳng mê muội, thì nên biết, đại Bồ-tát ấy trụ chỗ trụ như thị, chẳng lìa tác ý, nghĩa là muốn cứu hộ tất cả hữu tình, thường chẳng rời bỏ tác ý đại bi đối với tất cả hữu tình.

Khi ấy, Xá Lợi Tử nói với Thiện Hiện: Nếu đại Bồ-tát trụ chỗ trụ như thị, chẳng lìa tác ý, thì tất cả hữu tình cũng phải thành đại Bồ-tát. Vì sao? Vì tất cả hữu tình cũng thường chẳng lìa tác ý này. Vì vậy đại Bồ-tát cùng với tất cả hữu tình phải không sai khác.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện khen Xá Lợi Tử: Hay thay! Hay thay! Đúng như Ngài đã nói, Ngài có khả năng nắm bắt đúng như thật cái nghĩa mà tôi đã nói. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì hữu tình phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì ngã, dòng sinh mạng, sự sanh, sự dưỡng, sự trưởng thành, chủ thể luân hồi, người do người sanh, ngã tối thắng, khả năng làm việc, tự thọ quả báo, cái biết, cái thấy phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì hũu tình không thật, nên biết tác ý cũng không thật; vì ngã cho đến cái thấy không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì hữu tình không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì ngã cho đến cái thấy không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì hữu tình là không, nên biết tác ý cũng không; vì ngã cho đến cái thấy là không, nên biết tác ý cũng là không. Vì hữu tình là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly; vì ngã cho đến cái thấy là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì hữu tình là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh; vì ngã cho đến cái thấy là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì hữu tình vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác; vì ngã cho đến cái thấy vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác.

Xá Lợi Tử! Vì sắc phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu; vì thọ, tưởng, hành, thức phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì sắc không thật, nên biết tác ý cũng không thật; vì thọ, tưởng, hành, thức không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì sắc không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh; vì thọ, tưởng, hành, thức không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì sắc là không, nên biết tác ý cũng không; vì thọ, tưởng, hành, thức là không, nên biết tác ý cũng không. Vì sắc là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly; vì thọ, tưởng, hành, thức là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì sắc là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh; vì thọ, tưởng, hành, thức là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì sắc vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác; vì thọ, tưởng, hành, thức vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác.

Xá Lợi Tử! Vì nhãn xứ phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì nhãn xứ không thật, nên biết tác ý cũng không thật; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì nhãn xứ không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì nhãn xứ là không, nên biết tác ý cũng không; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là không, nên biết tác ý cũng không. Vì nhãn xứ là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì nhãn xứ là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì nhãn xứ vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác.

Xá Lợi Tử! Vì sắc xứ phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì sắc xứ không thật, nên biết tác ý cũng không thật; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì sắc xứ không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì sắc xứ là không, nên biết tác ý cũng không; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là không, nên biết tác ý cũng không. Vì sắc xứ là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì sắc xứ là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì sắc xứ vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác.

Xá Lợi Tử! Vì nhãn giới phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu; vì sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì nhãn giới không thật, nên biết tác ý cũng không thật; vì sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì nhãn giới không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh; vì sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì nhãn giới là không, nên biết tác ý cũng không; vì sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là không, nên biết tác ý cũng không. Vì nhãn giới là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly; vì sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì nhãn giới là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh; vì sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì nhãn giới vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác; vì sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác.

Xá Lợi Tử! Vì nhĩ giới phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu; vì thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì nhĩ giới không thật, nên biết tác ý cũng không thật; vì thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì nhĩ giới không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh; vì thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì nhĩ giới là không, nên biết tác ý cũng không; vì thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là không, nên biết tác ý cũng không. Vì nhĩ giới là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly; vì thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì nhĩ giới là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh; vì thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì nhĩ giới vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác; vì thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác.

Xá Lợi Tử! Vì tỷ giới phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu; vì hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì tỷ giới không thật, nên biết tác ý cũng không thật; vì hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì tỷ giới không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh; vì hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì tỷ giới là không, nên biết tác ý cũng không; vì hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là không, nên biết tác ý cũng không. Vì tỷ giới là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly; vì hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì tỷ giới là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh; vì hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì tỷ giới vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác; vì hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác.

Xá Lợi Tử! Vì thiệt giới phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu; vì vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì thiệt giới không thật, nên biết tác ý cũng không thật; vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì thiệt giới không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh; vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì thiệt giới là không, nên biết tác ý cũng không; vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là không, nên biết tác ý cũng không. Vì thiệt giới là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly; vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì thiệt giới là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh; vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì thiệt giới vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác; vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác.

Xá Lợi Tử! Vì thân giới phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu; vì xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì thân giới không thật, nên biết tác ý cũng không thật; vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì thân giới không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh; vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì thân giới là không, nên biết tác ý cũng không; vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là không, nên biết tác ý cũng không. Vì thân giới là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly; vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì thân giới là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh; vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì thân giới vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác; vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác.

Xá Lợi Tử! Vì ý giới phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu; vì pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì ý giới không thật, nên biết tác ý cũng không thật; vì pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì ý giới không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh; vì pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì ý giới là không, nên biết tác ý cũng không; vì pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là không, nên biết tác ý cũng không. Vì ý giới là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly; vì pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì ý giới là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh; vì pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì ý giới vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác; vì pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác.

Xá Lợi Tử! Vì địa giới phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì địa giới không thật, nên biết tác ý cũng không thật; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì địa giới không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì địa giới là không, nên biết tác ý cũng không; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới là không, nên biết tác ý cũng không. Vì địa giới là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì địa giới là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì địa giới vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác.

Xá Lợi Tử! Vì Thánh đế khổ phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu; vì Thánh đế tập, diệt, đạo phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì Thánh đế khổ không thật, nên biết tác ý cũng không thật; vì Thánh đế tập, diệt, đạo không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì Thánh đế khổ không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh; vì Thánh đế tập, diệt, đạo không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì Thánh đế khổ là không, nên biết tác ý cũng không; vì Thánh đế tập, diệt, đạo là không, nên biết tác ý cũng không. Vì Thánh đế khổ là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly; vì Thánh đế tập, diệt, đạo là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì Thánh đế khổ là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh; vì Thánh đế tập, diệt, đạo là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì Thánh đế khổ vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác; vì Thánh đế tập, diệt, đạo vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác.

Xá Lợi Tử! Vì vô minh phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu; vì hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì vô minh không thật, nên biết tác ý cũng không thật; vì hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì vô minh không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh; vì hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì vô minh là không, nên biết tác ý cũng không; vì hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là không, nên biết tác ý cũng không. Vì vô minh là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly; vì hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì vô minh là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh; vì hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì vô minh vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác; vì hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác.

Xá Lợi Tử! Vì cái không nội phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu; vì cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì cái không nội không thật, nên biết tác ý cũng không thật; vì cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì cái không nội không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh; vì cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì cái không nội là không, nên biết tác ý cũng không; vì cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh là không, nên biết tác ý cũng không. Vì cái không nội là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly; vì cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì cái không nội là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh; vì cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì cái không nội vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác; vì cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác.

Xá Lợi Tử! Vì chơn như phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu; vì pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì chơn như không thật, nên biết tác ý cũng không thật; vì pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì chơn như không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh; vì pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì chơn như là không, nên biết tác ý cũng không; vì pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì là không, nên biết tác ý cũng không. Vì chơn như là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly; vì pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì chơn như là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh; vì pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì chơn như vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác; vì pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác.

Xá Lợi Tử! Vì bố thí Ba-la-mật-đa phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu; vì tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì bố thí Ba-la-mật-đa không thật, nên biết tác ý cũng không thật; vì tịnh giới cho đến Bát-nhã-ba-la-mật-đa không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì bố thí Ba-la-mật-đa không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh; vì tịnh giới cho đến Bát-nhã-ba-la-mật-đa không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì bố thí Ba-la-mật-đa là không, nên biết tác ý cũng không; vì tịnh giới cho đến Bát-nhã-ba-la-mật-đa là không, nên biết tác ý cũng không. Vì bố thí Ba-la-mật-đa là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly; vì tịnh giới cho đến Bát-nhã-ba-la-mật-đa là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì bố thí Ba-la-mật-đa là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh; vì tịnh giới cho đến Bát-nhã-ba-la-mật-đa là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì bố thí Ba-la-mật-đa vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác; vì tịnh giới cho đến Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác.

Xá Lợi Tử! Vì bốn tịnh lự phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu; vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì bốn tịnh lự không thật, nên biết tác ý cũng không thật; vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì bốn tịnh lự không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh; vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì bốn tịnh lự là không, nên biết tác ý cũng không; vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc là không, nên biết tác ý cũng không. Vì bốn tịnh lự là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly; vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì bốn tịnh lự là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh; vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì bốn tịnh lự vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác; vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác.

Xá Lợi Tử! Vì tám giải thoát phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu; vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì tám giải thoát không thật, nên biết tác ý cũng không thật; vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì tám giải thoát không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh; vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì tám giải thoát là không, nên biết tác ý cũng không; vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là không, nên biết tác ý cũng không. Vì tám giải thoát là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly; vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì tám giải thoát là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh; vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì tám giải thoát vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác; vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác.

Xá Lợi Tử! Vì bốn niệm trụ phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu; vì bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì bốn niệm trụ không thật, nên biết tác ý cũng không thật; vì bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì bốn niệm trụ không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh; vì bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì bốn niệm trụ là không, nên biết tác ý cũng không; vì bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo là không, nên biết tác ý cũng không. Vì bốn niệm trụ là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly; vì bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì bốn niệm trụ là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh; vì bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì bốn niệm trụ vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác; vì bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác.

Xá Lợi Tử! Vì pháp môn giải thoát không phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu; vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì pháp môn giải thoát không không thật, nên biết tác ý cũng không thật; vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì pháp môn giải thoát không không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh; vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì pháp môn giải thoát không là không, nên biết tác ý cũng không; vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là không, nên biết tác ý cũng không. Vì pháp môn giải thoát không là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly; vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì pháp môn giải thoát không là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh; vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì pháp môn giải thoát không vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác; vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác.

Xá Lợi Tử! Vì năm loại mắt phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu; vì sáu phép thần thông phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì năm loại mắt không thật, nên biết tác ý cũng không thật; vì sáu phép thần thông không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì năm loại mắt không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh; vì sáu phép thần thông không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì năm loại mắt là không, nên biết tác ý cũng không; vì sáu phép thần thông là không, nên biết tác ý cũng không. Vì năm loại mắt là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly; vì sáu phép thần thông là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì năm loại mắt là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh; vì sáu phép thần thông là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì năm loại mắt vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác; vì sáu phép thần thông vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác.

Xá Lợi Tử! Vì mười lực của Phật phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu; vì bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì mười lực của Phật không thật, nên biết tác ý cũng không thật; vì bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì mười lực của Phật không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh; vì bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì mười lực của Phật là không, nên biết tác ý cũng không; vì bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là không, nên biết tác ý cũng không. Vì mười lực của Phật là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly; vì bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì mười lực của Phật là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh; vì bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì mười lực của Phật vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác; vì bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác.

Xá Lợi Tử! Vì pháp không quên mất phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu; vì tánh luôn luôn xả phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì pháp không quên mất không thật, nên biết tác ý cũng không thật; vì tánh luôn luôn xả không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì pháp không quên mất không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh; vì tánh luôn luôn xả không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì pháp không quên mất là không, nên biết tác ý cũng không; vì tánh luôn luôn xả là không, nên biết tác ý cũng không. Vì pháp không quên mất là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly; vì tánh luôn luôn xả là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì pháp không quên mất là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh; vì tánh luôn luôn xả là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì pháp không quên mất vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác; vì tánh luôn luôn xả vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác.

Xá Lợi Tử! Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni không thật, nên biết tác ý cũng không thật; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni là không, nên biết tác ý cũng không; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa là không, nên biết tác ý cũng không. Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác.

Xá Lợi Tử! Vì trí nhất thiết phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu; vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì trí nhất thiết không thật, nên biết tác ý cũng không thật; vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì trí nhất thiết không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh; vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì trí nhất thiết là không, nên biết tác ý cũng không; vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là không, nên biết tác ý cũng không. Vì trí nhất thiết là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly; vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì trí nhất thiết là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh; vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì trí nhất thiết vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác; vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác.

Xá Lợi Tử! Vì quả vị Thanh-văn phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu; vì quả vị Độc-giác, quả vị Vô-thượng phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì quả vị Thanh-văn không thật, nên biết tác ý cũng không thật; vì quả vị Độc-giác, quả vị Vô-thượng không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì quả vị Thanh-văn không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh; vì quả vị Độc-giác, quả vị Vô-thượng không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì quả vị Thanh-văn là không, nên biết tác ý cũng không; vì quả vị Độc-giác, quả vị Vô-thượng là không, nên biết tác ý cũng không. Vì quả vị Thanh-văn là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly; vì quả vị Độc-giác, quả vị Vô-thượng là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì quả vị Thanh-văn là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh; vì quả vị Độc-giác, quả vị Vô-thượng là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì quả vị Thanh-văn vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác; vì quả vị Độc-giác, quả vị Vô-thượng vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, các đại Bồ-tát trụ chỗ trụ như thị, nên thường chẳng xả tác ý đại bi.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn khen Thiện Hiện: Hay thay! Hay thay! Ông có khả năng khéo vì đại Bồ-tát mà tyuên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đó là đều do sức oai thần của Như Lai. Có vị nào muốn vì đại Bồ-tát mà tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì đều nên như ông mà tuyên thuyết. Có các đại Bồ-tát nào muốn học Bát-nhã-ba-la-mật-đa, thì đều nên theo điều ông nói mà học.

Khi cụ thọ Thiện Hiện vì các đại Bồ-tát thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa ấy, thì ở trong tam thiên đại thiên thế giới này, sáu thứ chuyển biến, đó là: Động, động rất mạnh, tất cả đều đông mạnh; phun, phun rất mạnh, tất cả đều phun mạnh; rung, rung rất mạnh, tất cả đều rung mạnh; chạm, chạm rất mạnh, tất cả đều chạm mạnh; nổ, nổ rất lớn, tất cả đều nổ lớn; nứt, nứt rất lớn, tất cả đều nứt lớn; Đông phun Tây chìm, Tây phun Đông chìm; Nam phun Bắc chìm, Bắc phun Nam chìm; chính giữa phun, bên mé chìm, bên mé phun chính giữa chìm.

Lúc bấy giờ đức Như Lai liền mỉm cười.

cụ thọ Thiện Hiện bạch: Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Ngài mỉm cười?

Phật bảo Thiện Hiện: Như ta ở thế giới Kham Nhẫn ba lần ngàn này. Vì các đại Bồ-tát mà tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nay chư Phật Thế Tôn ở vô lượng, vô số, vô biên thế giới trong mười phương cũng vì các đại Bồ-tát mà tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Như nay ở thế giới Kham Nhẫn ba lần ngàn này có mười hai ức các trời, người v.v…. nghe thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa ở trong các pháp, chứng đắc vô sanh nhẫn, nay ở vô lượng, vô số, vô biên thế giới trong mười phương, đều có vô lượng, vô số, vô biên hữu tình nghe chư Phật ở cõi ấy thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa, cũng phát tâm cầu chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Quyển thứ 76

Hết

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/01/2021(Xem: 7510)
Hòa thượng họ Hồ, húy Đắc Kế, Pháp danh Nguyên Công, tự Đức Niệm, bút hiệu Thiền Đức, thuộc dòng Lâm Tế đời thứ bốn mươi bốn, sinh năm Đinh Sửu (1937) tại làng Thanh Lương, phủ Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận, nay là xã Chí Công, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận. Nhờ túc duyên tiền kiếp, nên mặc dù không ai khích lệ thúc đẩy, Ngài vẫn một mình cố công tìm đường hướng về với đạo lý giác ngộ. Khởi đầu, Ngài xin xuất gia với Hòa Thượng Thích Minh Đạo tại chùa Long Quang, Phan Rí năm 13 tuổi. Sau đó, trên đường tầm sư học đạo, Ngài cầu học với Hòa thượng Trí Thắng chùa Thiên Hưng và Hòa Thượng Viện chủ chùa Trùng Khánh ở Phan Rang, Hòa Thượng Thiện Hòa ở chùa Ấn Quang, Sàigòn, và Hòa Thượng Trí Thủ ở Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang. Vào năm 1962, Ngài tốt nghiệp Cao Đẳng Phật giáo tại Phật Học Đường Nam Việt chùa Ấn Quang Sàigòn. Song song với Phật học, Ngài cũng c
25/01/2021(Xem: 4179)
Nói đến cụ Họa, hầu như người người dân thôn Vạn An, xã Nghĩa Thương, quận Tư Nghĩa thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Nếu sống cùng thời thì ai ai cũng biết cụ. Thật ra tên cụ là Võ đình Thụy, pháp danh Tâm Huệ sinh năm 1899 mất ngày 31 tháng 1 năm 1951 tại quê nhà. Cụ dáng người tầm thước. Sóng mủi cao cân xứng với khuôn mặt chữ điền. vầng trán cao rộng. Miệng hàm én. Đặc biệt hai mắt sáng quắt, biểu lộ đức tính ngay thẳng, lòng đầy quả cảm.
03/01/2021(Xem: 9462)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
20/12/2020(Xem: 4052)
Kính lạy giác linh Tổ sư: Chúng con đã từng nghe: Đồng An xưa, thác sanh thai thánh Dòng Lương Thị, quang huy ấu đồng. Tuyền Châu hun đúc ngọn từ phong. Phước Kiến ân triêm nguồn pháp vũ. Rồi từ đó: THẾ giới bao la, sáng ngời tinh tú ÂN sư cao cả, bừng trổi đàm hoa. Tướng hảo dung hòa Từ trí viên mãn. Nghiệp bút nghiên sáng lạng Nếp nho gia miên trường.
13/12/2020(Xem: 12012)
lễ Cúng Dường Đại Tăng trong ngày Sinh nhật Lần Thứ 94 của Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan. Thời gian: 1giờ 30 chiều ngày 01 tháng 01 năm 2021 Địa điểm: Chùa Hồng Danh 1129 Bal Harbor Way. San Jose, CA 95122. USA
12/12/2020(Xem: 5696)
Tu Viện Quảng Đức/Trang nhà Quảng Đức vừa nhận tin viên tịch (từ HT Thích Minh Hiếu): Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Giác Phúc, Thành viên Hội đồng chứng minh GHPGVN Giáo phẩm chứng minh Hệ phái Khất sĩ Tăng trưởng Giáo đoàn IV Viện chủ Pháp viện Minh Đăng Quang, Thế danh: Lê Văn Xa Sinh năm: 15/04/1936 Xuất gia: 29/09/AL/1958 Thọ Sa di: Rằm/10/1959 Thọ Tỳ kheo: Răm/07/1963 Hạ lạp: 57 năm Trụ thế: 85 năm Viên tịch vào lúc: 07 giờ ngày 28/10/Canh Tý (tức 12/12/2020) tại Pháp viện Minh Đăng Quang Lễ nhập liệm: 19 giờ cùng ngày tại Pháp viện Minh Đăng Quang Lễ kính viếng sau đó tại lễ đường Pháp viện Minh Đăng Quang Lễ tưởng niệm di quan, trà tỳ vào lúc 06 giờ ngày thứ Ba, Mùng 02/11/Canh Tý (tức ngày 15/12/2020 tại Phúc An Viên, Q. 9 *** Cáo Phó và chương trình tang lễ sẽ được phổ biến chi tiết trong thời gian sớm nhất có thể. Chúng con thành kính đảnh lễ Đức Trưởng Lão Hòa thượng Thích Giác Lượng Tân viên Tịch nguyện cầu Giác Linh ngài Cao Đăng Phật Quốc. Na
04/12/2020(Xem: 7092)
Được biết, do niên cao lạp trưởng, Hoà thượng đã thu thần viên tịch vào lúc 9g10' sáng nay, 4-12-2020 (nhằm ngày 20-10-Canh Tý), tại trụ sở văn phòng Ban Trị sự GHPGVN thị xã Ninh Hoà (chùa Đức Hoà, số 128 Trần Quý Cáp, P.Ninh Hiệp, thị xã Ninh Hoà, tỉnh Khánh Hoà), hưởng thọ 73 năm, 50 hạ lạp. Hoà thượng tân viên tịch thế danh Trịnh Văn Bảo, sinh năm 1948 tại thôn Mỹ Lợi, xã Ninh Tân, thị xã Ninh Hòa (Khánh Hoà), xuất gia với HT.Thích Viên Nhơn, trụ trì chùa Báo Ân (An Cựu, Huế). Ngài được Hoà thượng Bổn sư ban pháp danh Quảng Thường, tự Ngộ Tánh.
23/11/2020(Xem: 6902)
Phước duyên cho tôi khi được Me Tâm Tấn truyền trao gìn giữ một số thư từ còn lưu thủ bút & chữ ký của Chư tôn Thiền đức Tăng Ni vào những năm xưa xửa của thế kỷ trước. Trước, tôi đã có đôi lần giới thiệu thư từ bút tích của quý Ngài danh tăng Phật Giáo nước nhà như Ôn Trí Quang, Ôn Trí Thủ, Ôn Đỗng Minh, Ôn Đức Chơn, Ni trưởng Diệu Không, Ni trưởng Thể Quán... Hôm nay, tôi xin cung kính giới thiệu đến chư vị thủ bút và chữ ký của một bậc tôn quý vốn là cột trụ quan trọng trong ngôi nhà Phật pháp, một vị hộ pháp đắc lực của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam trong những ngày đầu của phong trào phục hưng, một thành viên cơ yếu của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất:
22/11/2020(Xem: 3768)
Trong đời sinh ra, ta may mắn được đầy đủ sáu giác quan, đó là đôi mắt để nhìn, đôi tai để nghe, đôi tay để cầm nắm, đôi chân để đi, cái miệng để nói và thọ dụng ăn uống, cái mũi để tập thở vào ra, tấm thân khỏe mạnh là không ốm đâu, từ những chức năng trên ta một dạ tri âm, Cha ta và Mẹ ta, vì chính họ cho ta có một cuộc sống bình an, chính là bậc thầy chính hiệu trong gốc rễ huyết thống. Ta sinh ra trên Trần thế, một dạ tri âm, các bậc Thầy giáo, Cô giáo, từ lớp lá, lớp mầm, lớp chồi, và cao quý hơn khi ta học từ cấp một đến Đại học trong trường, hay ở xung quanh, tất cả nhờ vào con chữ.
11/11/2020(Xem: 6728)
Mấy ngày mưa bão, rãnh rỗi ngồi soạn thư từ và hình ảnh, những kỷ vật mà Me Tâm Tấn luôn trân quý gìn giữ bao năm trời đã truyền trao lại cho tôi bảo quản làm tư liệu để tham khảo viết bài góp bút vào công tác hoằng pháp, tôi đã tìm thấy được những bức thư viết tay của một vị danh tăng Phật Giáo nước nhà: Cố Hòa thượng Thích Đức Tâm.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]