Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 288: Phẩm Trước Và Chẳng Trước Tướng 02

10/07/201520:06(Xem: 13937)
Quyển 288: Phẩm Trước Và Chẳng Trước Tướng 02

Tập 06

 Quyển 288

 Phẩm Trước Và Chẳng Trước Tướng 02
Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm
Diễn đọc: Cư Sĩ Chánh Trí


 

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Đại-thừa, nếu lấy có sở đắc làm phương tiện từ lúc mới phát tâm đối với Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khởi tưởng chấp trước hành; đối với tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa khởi tưởng chấp trước hành; hoặc đối với pháp không nội khởi tưởng chấp trước hành, đối với pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh khởi tưởng chấp trước hành; hoặc đối với chơn như khởi tưởng chấp trước hành, đối với pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì khởi tưởng chấp trước hành; hoặc đối với Thánh đế khổ khởi tưởng chấp trước hành, đối với thánh đế tập, diệt, đạo khởi tưởng chấp trước hành; hoặc đối với bốn tịnh lự khởi tưởng chấp trước hành, đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc khởi tưởng chấp trước hành; hoặc đối với tám giải thoát khởi tưởng chấp trước hành, đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ khởi tưởng chấp trước hành; hoặc đối với bốn niệm trụ khởi tưởng chấp trước hành, đối với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo khởi tưởng chấp trước hành; hoặc đối với pháp môn giải thoát không khởi tưởng chấp trước hành, đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện khởi tưởng chấp trước hành; hoặc đối với mười địa Bồ-tát khởi tưởng chấp trước hành; hoặc đối với năm loại mắt khởi tưởng chấp trước hành, đối với sáu phép thần thông khởi tưởng chấp trước hành; hoặc đối với mười lực Phật khởi tưởng chấp trước hành, đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng khởi tưởng chấp trước hành; hoặc đối với pháp không quên mất khởi tưởng chấp trước hành, đối với tánh luôn luôn xả khởi tưởng chấp trước hành; hoặc đối với trí nhất thiết khởi tưởng chấp trước hành, đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng khởi tưởng chấp trước hành; hoặc đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni khởi tưởng chấp trước hành, đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa khởi tưởng chấp trước hành; hoặc đối với quả Dự-lưu khởi tưởng chấp trước hành, đối với quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán khởi tưởng chấp trước hành; hoặc đối với quả vị Độc-giác khởi tưởng chấp trước hành; hoặc đối với tất cả hạnh đại Bồ-tát khởi tưởng chấp trước hành; hoặc đối với quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật khởi tưởng chấp trước hành. Này Xá Lợi Tử, khi đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nếu không có phương tiện khéo léo, lấy hữu sở đắc làm phương tiện, khởi tưởng chấp trước các pháp như thế thì gọi là trước tướng.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Như trước ông đã hỏi, thế nào là đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, không trước tướng thì này Xá Lợi Tử, đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, có phương tiện khéo léo, đối với sắc không khởi tưởng không hay bất không, đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng không khởi tưởng không hay bất không; đối với nhãn xứ không khởi tưởng không hay bất không, đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng không khởi tưởng không hay bất không; đối với sắc xứ không khởi tưởng không hay bất không, đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng không khởi tưởng không hay bất không; đối với nhãn giới không khởi tưởng không hay bất không, đối với sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cũng không khởi tưởng không hay bất không; đối với nhĩ giới không khởi tưởng không hay bất không, đối với thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra cũng không khởi tưởng không hay bất không; đối với tỷ giới không khởi tưởng không hay bất không, đối với hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra cũng không khởi tưởng không hay bất không; đối với thiệt giới không khởi tưởng không hay bất không, đối với vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra cũng không khởi tưởng không hay bất không; đối với thân giới không khởi tưởng không hay bất không, đối với xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra cũng không khởi tưởng không hay bất không; đối với ý giới không khởi tưởng không hay bất không, đối với pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra cũng không khởi tưởng không hay bất không; đối với địa giới không khởi tưởng không hay bất không, đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng không khởi tưởng không hay bất không; đối với vô minh không khởi tưởng không hay bất không, đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cũng không khởi tưởng không hay bất không; đối với bố thí Ba-la-mật-đa không khởi tưởng không hay bất không, đối với tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng không khởi tưởng không hay bất không; đối với pháp không nội không khởi tưởng không hay bất không, đối với pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh cũng không khởi tưởng không hay bất không; đối với chơn như không khởi tưởng không hay bất không, đối với pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì cũng không khởi tưởng không hay bất không; đối với Thánh đế khổ không khởi tưởng không hay bất không, đối với thánh đế tập, diệt, đạo cũng không khởi tưởng không hay bất không; đối với bốn tịnh lự không khởi tưởng không hay bất không, đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng không khởi tưởng không hay bất không; đối với tám giải thoát không khởi tưởng không hay bất không, đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cũng không khởi tưởng không hay bất không; đối với bốn niệm trụ không khởi tưởng không hay bất không, đối với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo cũng không khởi tưởng không hay bất không; đối với pháp môn giải thoát không không khởi tưởng không hay bất không, đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cũng không khởi tưởng không hay bất không; đối với mười địa Bồ-tát không khởi tưởng không hay bất không; đối với năm loại mắt không khởi tưởng không hay bất không, đối với sáu phép thần thông cũng không khởi tưởng không hay bất không; đối với mười lực Phật không khởi tưởng không hay bất không, đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng không khởi tưởng không hay bất không; đối với pháp không quên mất không khởi tưởng không hay bất không, đối với tánh luôn luôn xả cũng không khởi tưởng không hay bất không; đối với trí nhất thiết không khởi tưởng không hay bất không, đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng không khởi tưởng không hay bất không; đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni không khởi tưởng không hay bất không, đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa cũng không khởi tưởng không hay bất không; đối với quả Dự-lưu không khởi tưởng không hay bất không, đối với quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán cũng không khởi tưởng không hay bất không; đối với quả vị Độc-giác không khởi tưởng không hay bất không; đối với tất cả hạnh đại Bồ-tát không khởi tưởng không hay bất không; đối với quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật không khởi tưởng không hay bất không; đối với pháp quá khứ không khởi tưởng không hay bất không, đối với pháp vị lai, hiện tại không khởi tưởng không hay bất không.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện, không nghĩ thế này: Ta bố thí, kẻ kia nhận, đây là vật bố thí và ý nghĩa của sự bố thí; không nghĩ: Ta giữ giới, đây là giới được giữ; không nghĩ: Ta tu nhẫn, đây pháp ta nhẫn; không nghĩ: Ta tinh tấn, đây là pháp tinh tấn; không nghĩ: Ta nhập định, đây là pháp định; không nghĩ: Ta tu tuệ, đây là pháp tuệ; không nghĩ: Ta gieo phước, đây là phước được gieo và quả đạt được; không nghĩ: Ta nhập Chánh tánh ly sanh của Bồ-tát; không nghĩ: Ta thành thục hữu tình; không nghĩ: Ta nghiêm tịnh cõi Phật; không nghĩ: Ta chứng đắc trí nhất thiết trí; không nghĩ: Ta trụ không, chứng thật tánh của pháp; không nghĩ: Ta tu tập các hạnh Bồ-tát; không nghĩ: Ta chứng đủ các công đức Phật.

Này Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát có phương tiện khéo léo, khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, lấy vô sở đắc làm phương tiện thì không có tất cả vọng tưởng phân biệt chấp trước như thế; do khéo thông đạt pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh nên, này Xá Lợi Tử, gọi đó là đại Bồ-tát khi hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa có phương tiện khéo léo, lấy vô sở đắc làm phương tiện, không có tướng chấp trước.

Bấy giờ, Thiên Đế Thích hỏi cụ thọ Thiện Hiện:

Thưa Đại đức! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, trước tướng như thế nào?

Thiện Hiện đáp:

Này Kiều Thi Ca! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, không có phương tiện khéo léo, lấy hữu sở đắc làm phương tiện, khởi tưởng chấp trước tâm, khởi tưởng chấp trước bố thí Ba-la-mật-đa, khởi tưởng chấp trước tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa; khởi tưởng chấp trước pháp không nội, khởi tưởng chấp trước pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh; khởi tưởng chấp trước chơn như, khởi tưởng chấp trước pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; khởi tưởng chấp trước Thánh đế khổ, khởi tưởng chấp trước thánh đế tập, diệt, đạo; khởi tưởng chấp trước bốn tịnh lự, khởi tưởng chấp trước bốn vô lượng, bốn định vô sắc; khởi tưởng chấp trước tám giải thoát, khởi tưởng chấp trước tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; khởi tưởng chấp trước bốn niệm trụ, khởi tưởng chấp trước bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo; khởi tưởng chấp trước pháp môn giải thoát không, khởi tưởng chấp trước pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; khởi tưởng chấp trước mười địa Bồ-tát; khởi tưởng chấp trước năm loại mắt, khởi tưởng chấp trước sáu phép thần thông; khởi tưởng chấp trước mười lực Phật, khởi tưởng chấp trước bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; khởi tưởng chấp trước pháp không quên mất, khởi tưởng chấp trước tánh luôn luôn xả; khởi tưởng chấp trước trí nhất thiết, khởi tưởng chấp trước trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; khởi tưởng chấp trước tất cả pháp môn Đà-la-ni, khởi tưởng chấp trước tất cả pháp môn Tam-ma-địa; khởi tưởng chấp trước quả Dự-lưu, khởi tưởng chấp trước quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; khởi tưởng chấp trước quả vị Độc-giác; khởi tưởng chấp trước tất cả hạnh đại Bồ-tát; khởi tưởng chấp trước quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật; khởi tưởng chấp trước chư đại Bồ-tát; khởi tưởng chấp trước Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác; khởi tưởng chấp trước về các thiện căn Phật đã gieo trồng; khởi tưởng chấp trước đem các thiện căn đã gieo trồng như thế hòa hiệp hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột, thì này Kiều Thi Ca, đó gọi là các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa không có phương tiện khéo léo, lấy hữu sở đắc làm phương tiện khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, là trước tướng sở hữu.

Này Kiều Thi Ca! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, do tưởng chấp trước nên không thể tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa không chấp trước và hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột. Vì sao vậy? Này Kiều Thi Ca! Vì chẳng phải bản tánh của sắc có thể hồi hướng, chẳng phải bản tánh của thọ, tưởng, hành, thức có thể hồi hướng; chẳng phải bản tánh của nhãn xứ có thể hồi hướng, chẳng phải bản tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ có thể hồi hướng; chẳng phải bản tánh của sắc xứ có thể hồi hướng, chẳng phải bản tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ có thể hồi hướng; chẳng phải bản tánh của nhãn giới có thể hồi hướng, chẳng phải bản tánh của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra có thể hồi hướng; chẳng phải bản tánh của nhĩ giới có thể hồi hướng, chẳng phải bản tánh của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra có thể hồi hướng; chẳng phải bản tánh của tỷ giới có thể hồi hướng, chẳng phải bản tánh của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra có thể hồi hướng; chẳng phải bản tánh của thiệt giới có thể hồi hướng, chẳng phải bản tánh của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra có thể hồi hướng; chẳng phải bản tánh của thân giới có thể hồi hướng, chẳng phải bản tánh của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra có thể hồi hướng; chẳng phải bản tánh của ý giới có thể hồi hướng, chẳng phải bản tánh của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra có thể hồi hướng; chẳng phải bản tánh của địa giới có thể hồi hướng, chẳng phải bản tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới có thể hồi hướng; chẳng phải bản tánh của vô minh có thể hồi hướng, chẳng phải bản tánh của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não có thể hồi hướng.

Này Kiều Thi Ca! Chẳng phải bản tánh của bố thí Ba-la-mật-đa có thể hồi hướng, chẳng phải bản tánh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa có thể hồi hướng; chẳng phải bản tánh của pháp không nội có thể hồi hướng, chẳng phải bản tánh của pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh có thể hồi hướng; chẳng phải bản tánh của chơn như có thể hồi hướng, chẳng phải bản tánh của pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì có thể hồi hướng; chẳng phải bản tánh của Thánh đế khổ có thể hồi hướng, chẳng phải bản tánh của thánh đế tập, diệt, đạo có thể hồi hướng; chẳng phải bản tánh của bốn tịnh lự có thể hồi hướng, chẳng phải bản tánh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc có thể hồi hướng; chẳng phải bản tánh của tám giải thoát có thể hồi hướng, chẳng phải bản tánh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ có thể hồi hướng; chẳng phải bản tánh của bốn niệm trụ có thể hồi hướng, chẳng phải bản tánh của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo có thể hồi hướng; chẳng phải bản tánh của pháp môn giải thoát không có thể hồi hướng, chẳng phải bản tánh của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện có thể hồi hướng; chẳng phải bản tánh của mười địa Bồ-tát có thể hồi hướng; chẳng phải bản tánh của năm loại mắt có thể hồi hướng, chẳng phải bản tánh của sáu phép thần thông có thể hồi hướng; chẳng phải bản tánh của mười lực Phật có thể hồi hướng, chẳng phải bản tánh của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng có thể hồi hướng; chẳng phải bản tánh của pháp không quên mất có thể hồi hướng, chẳng phải bản tánh của tánh luôn luôn xả có thể hồi hướng; chẳng phải bản tánh của trí nhất thiết có thể hồi hướng, chẳng phải bản tánh của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng có thể hồi hướng; chẳng phải bản tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni có thể hồi hướng, chẳng phải bản tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa có thể hồi hướng; chẳng phải bản tánh của quả Dự-lưu có thể hồi hướng, chẳng phải bản tánh của quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán có thể hồi hướng; chẳng phải bản tánh của quả vị Độc-giác có thể hồi hướng; chẳng phải bản tánh của tất cả hạnh đại Bồ-tát có thể hồi hướng; chẳng phải bản tánh của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật có thể hồi hướng.

Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu đại Bồ-tát đối với quả vị giác ngộ cao tột, muốn thị hiện, chỉ dẫn, khuyến khích, khen gợi cho các hữu tình khác thì nên y như thật tướng mà thị hiện, chỉ dẫn, khuyến khích, khen ngợi. Lại nên thị hiện, chỉ dẫn, khuyến khích, khen ngợi như thế này: Khi hành bố thí Ba-la-mật-đa không nên phân biệt ta đang bố thí, hoặc khi hành tịnh giới Ba-la-mật-đa không nên phân biệt ta đang hộ giới; hoặc khi hành an nhẫn Ba-la-mật-đa không nên phân biệt ta đang tu nhẫn; hoặc khi hành tinh tấn Ba-la-mật-đa không nên phân biệt ta đang tinh tấn; hoặc khi hành tịnh lự Ba-la-mật-đa không nên phân biệt ta đang nhập định; hoặc khi hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa không nên phân biệt ta đang tập tuệ; hoặc khi hành pháp không nội, không nên phân biệt ta đang trụ pháp không nội; hoặc khi hành pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh không nên phân biệt ta đang trụ pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh; hoặc khi hành chơn như, không nên phân biệt ta đang trụ chơn như; hoặc khi hành pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì không nên phân biệt ta đang trụ pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì; hoặc khi hành Thánh đế khổ, không nên phân biệt ta đang trụ Thánh đế khổ; hoặc khi hành Thánh đế tập, diệt, đạo không nên phân biệt ta đang trụ Thánh đế tập, diệt, đạo; hoặc khi hành bốn tịnh lự, không nên phân biệt ta đang tu bốn tịnh lự; hoặc khi hành bốn vô lượng, bốn định vô sắc không nên phân biệt ta đang tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc; hoặc khi hành tám giải thoát, không nên phân biệt ta đang tu tám giải thoát; hoặc khi hành tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ không nên phân biệt ta đang tu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; hoặc khi hành bốn niệm trụ, không nên phân biệt ta đang tu bốn niệm trụ; hoặc khi hành bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo không nên phân biệt ta đang tu bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo; hoặc khi hành pháp môn giải thoát không, không nên phân biệt ta đang tu pháp môn giải thoát không; hoặc khi hành pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện không nên phân biệt ta đang tu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; hoặc khi hành mười địa Bồ-tát không nên phân biệt ta đang tu mười địa Bồ-tát; hoặc khi hành năm loại mắt, không nên phân biệt ta đang tu năm loại mắt; hoặc khi hành sáu phép thần thông không nên phân biệt ta đang tu sáu phép thần thông; hoặc khi hành mười lực Phật, không nên phân biệt ta đang tu mười lực Phật; hoặc khi hành bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng không nên phân biệt ta đang tu bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc khi hành pháp không quên mất, không nên phân biệt ta đang tu pháp không quên mất; hoặc khi hành tánh luôn luôn xả không nên phân biệt ta đang tu tánh luôn luôn xả; hoặc khi hành trí nhất thiết, không nên phân biệt ta đang tu trí nhất thiết; hoặc khi hành trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không nên phân biệt ta đang tu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; hoặc khi hành tất cả pháp môn Đà-la-ni, không nên phân biệt ta đang tu tất cả pháp môn Đà-la-ni; hoặc khi hành tất cả pháp môn Tam-ma-địa không nên phân biệt ta đang tu tất cả pháp môn Tam-ma-địa; hoặc khi hành pháp tương tợ quả Dự-lưu, không nên phân biệt ta đang tu pháp tương tợ quả Dự-lưu; hoặc khi hành pháp tương tợ quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán không nên phân biệt ta đang tu pháp tương tợ quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; hoặc khi hành pháp tương tợ quả vị Độc-giác không nên phân biệt ta đang tu pháp tương tợ quả vị Độc-giác; hoặc khi hành tất cả hạnh đại Bồ-tát không nên phân biệt ta đang tu tất cả hạnh đại Bồ-tát; hoặc khi hành quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật không nên phân biệt ta đang tu quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật.

Này Kiều Thi Ca! Các đại Bồ-tát đối với quả vị giác ngộ cao tột, nên thị hiện, chỉ dẫn, khuyến khích, khen ngợi như thế với các hữu tình khác. Nếu đại Bồ-tát đối với quả vị giác ngộ cao tột luôn luôn thị hiện, chỉ dẫn, khuyến khích, khen ngợi với các loại hữu tình khác như thế thì chẳng tổn hại mình, cũng chẳng tổn hại người như chư Như Lai đã từng hứa khả thị hiện, chỉ dẫn, khuyến khích, khen ngợi các loại hữu tình.

Này Kiều Thi Ca! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa, nếu luôn luôn thị hiện, chỉ dẫn, khuyến khích, khen ngợi như thế thì các loại hữu tình hướng đến Bồ-tát thừa, liền có thể xa lìa tất cả tưởng chấp trước.

Bấy giờ, Thế Tôn khen cụ thọ Thiện Hiện: Hay thay! Hay thay! Như lời ông nói thì nay ông có thể khéo vì các Bồ-tát nói về tướng chấp trước.

Này Thiện Hiện! Lại có tướng chấp trước vi tế này, ta sẽ vì ông mà nói, ông nên lắng nghe và tư duy chín chắn.

Thiện Hiện bạch: Dạ! Xin Ngài nói cho! Chúng con muốn nghe!

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn trụ Bồ-tát thừa muốn đạt đến quả vị giác ngộ cao tột mà đối với Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chấp tướng, nhớ nghĩ thì đó là chấp trước; hoặc đối với công đức vô trước của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong quá khứ, vị lai, hiện tại và các thiện căn đó được từ khi mới phát tâm cho đến trụ pháp đều chấp tướng nhớ nghĩ và đã nhớ nghĩ rồi, hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột, thì tất cả sự chấp tướng nhớ nghĩ như thế đều gọi là chấp trước; hoặc đối với thiện pháp đã tu của tất cả đệ tử Như Lai và hữu tình khác đều chấp tướng nhớ nghĩ, hồi hướng quả vị giác ngộ cao tột, tất cả như thế cũng gọi là chấp trước. Vì sao? Vì đối với công đức vô trước, thiện căn có được của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, chẳng nên chấp tướng và nhớ nghĩ; đối với thiện pháp có được của đệ tử Phật và hữu tình khác, chẳng nên chấp tướng và nhớ nghĩ, vì các sự chấp tướng đều là hư vọng.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là rất sâu xa.

Phật dạy: Như vậy là do bản tánh của tất cả các pháp là viễn ly.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy đều nên kính lễ.

Phật dạy: Như vậy là được nhiều công đức, nhưng Bát-nhã-ba-la-mật-đa này là pháp không tạo, không tác, không thể biết được.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch: Bạch Thế Tôn! Tánh của tất cả pháp đều khó có thể biết.

Phật dạy:Như vậy là vì tất cả pháp nhất tánh chẳng phải hai. Này Thiện Hiện! Nên biết, các pháp nhất tánh tức là vô tánh; các pháp vô tánh tức là nhất tánh. Như vậy là các pháp nhất tánh vô tánh, không tạo, không tác. Nếu đại Bồ-tát có khả năng biết như thật các pháp hiện hữu là nhất tánh vô tánh, không tạo, không tác thì có thể viễn ly tất cả chấp trước.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy khó có thể biết rõ.

Phật dạy: Đúng vậy! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa này là pháp không thể thấy, không thể nghe, không thể biết, không thể hiểu, lìa tướng chứng đắc.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy là không thể nghĩ bàn.

Phật dạy: Đúng vậy! Vì sao? Bát-nhã-ba-la-mật-đa như vậy chẳng thể dùng tâm để biết vì lìa tướng của tâm vậy; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng thể dùng sắc để biết, vì lìa tướng của sắc, chẳng thể dùng thọ, tưởng, hành, thức để biết, vì lìa tướng của thọ, tưởng, hành, thức; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng thể dùng nhãn xứ để biết, vì lìa tướng của nhãn xứ, chẳng thể dùng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ để biết, vì lìa tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng thể dùng sắc xứ để biết, vì lìa tướng của sắc xứ, chẳng thể dùng thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ để biết, vì lìa tướng của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng thể dùng nhãn giới để biết, vì lìa tướng của nhãn giới, chẳng thể dùng sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra để biết, vì lìa tướng của sắc giới cho đến tướng của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng thể dùng nhĩ giới để biết, vì lìa tướng của nhĩ giới, chẳng thể dùng thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra để biết, vì lìa tướng của thanh giới cho đến tướng của các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng thể dùng tỷ giới để biết, vì lìa tướng của tỷ giới, chẳng thể dùng hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra để biết, vì lìa tướng của hương giới cho đến tướng của các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng thể dùng thiệt giới để biết, vì lìa tướng của thiệt giới, chẳng thể dùng vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra để biết, vì lìa tướng của vị giới cho đến tướng của các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng thể dùng thân giới để biết, vì lìa tướng của thân giới, chẳng thể dùng xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra để biết, vì lìa tướng của xúc giới cho đến tướng của các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng thể dùng ý giới để biết, vì lìa tướng của ý giới, chẳng thể dùng pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra để biết, vì lìa tướng của pháp giới cho đến tướng của các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng thể dùng địa giới để biết, vì lìa tướng của địa giới, chẳng thể dùng thủy, hỏa, phong, không, thức giới để biết, vì lìa tướng của thủy, hỏa, phong, không, thức giới; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng thể dùng vô minh để biết, vì lìa tướng của vô minh, chẳng thể dùng hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não để biết, vì lìa tướng của hành cho đến tướng của lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng thể dùng bố thí Ba-la-mật-đa để biết, vì lìa tướng của bố thí Ba-la-mật-đa, chẳng thể dùng tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa để biết, vì lìa tướng của tịnh giới cho đến tướng của Bát-nhã Ba-la-mật-đa; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng thể dùng cái không nội để biết, vì lìa tướng của pháp không nội, chẳng thể dùng pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh để biết, vì lìa tướng của pháp không ngoại cho đến tướng của pháp không không tánh tự tánh; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng thể dùng chơn như để biết, vì lìa tướng của chơn như, chẳng thể dùng pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì để biết, vì lìa tướng của pháp giới cho đến tướng của cảnh giới bất tư nghì; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng thể dùng Thánh đế khổ để biết, vì lìa tướng của Thánh đế khổ, chẳng thể dùng Thánh đế tập, diệt, đạo để biết, vì lìa tướng của Thánh đế tập, diệt, đạo; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng thể dùng bốn tịnh lự để biết, vì lìa tướng của bốn tịnh lự, chẳng thể dùng bốn vô lượng, bốn định vô sắc để biết, vì lìa tướng của bốn vô lượng, bốn định vô sắc; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng thể dùng tám giải thoát để biết, vì lìa tướng của tám giải thoát, chẳng thể dùng tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ để biết, vì lìa tướng của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng thể dùng bốn niệm trụ để biết, vì lìa tướng của bốn niệm trụ, chẳng thể dùng bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo để biết, vì lìa tướng của bốn chánh đoạn cho đến tướng của tám chi thánh đạo; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng thể dùng pháp môn giải thoát không để biết, vì lìa tướng của pháp môn giải thoát không, chẳng thể dùng pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện để biết, vì lìa tướng của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng thể dùng mười địa Bồ-tát để biết, vì lìa tướng của mười địa Bồ-tát; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế chẳng thể dùng năm loại mắt để biết, vì lìa tướng của năm loại mắt, chẳng thể dùng sáu phép thần thông để biết, vì lìa tướng của sáu phép thần thông; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng thể dùng mười lực Phật để biết, vì lìa tướng của mười lực Phật, chẳng thể dùng bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng để biết, vì lìa tướng của bốn điều không sợ cho đến tướng của mười tám pháp Phật bất cộng; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng thể dùng pháp không quên mất để biết, vì lìa tướng của pháp không quên mất, chẳng thể dùng tánh luôn luôn xả để biết, vì lìa tướng của tánh luôn luôn xả; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng thể dùng trí nhất thiết để biết, vì lìa tướng của trí nhất thiết, chẳng thể dùng trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng để biết, vì lìa tướng của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng thể dùng tất cả pháp môn Đà-la-ni để biết, vì lìa tướng của tất cả pháp môn Đà-la-ni, chẳng thể dùng tất cả pháp môn Tam-ma-địa để biết, vì lìa tướng của tất cả pháp môn Tam-ma-địa; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng thể dùng quả Dự-lưu để biết, vì lìa tướng của quả Dự-lưu, chẳng thể dùng quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán để biết, vì lìa tướng của quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng thể dùng quả vị Độc-giác để biết, vì lìa tướng của quả vị Độc-giác; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng thể dùng tất cả hạnh đại Bồ-tát để biết, vì lìa tướng của tất cả hạnh đại Bồ-tát; Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng thể dùng quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật để biết, vì lìa tướng của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, không có sự tạo tác.

Phật dạy: Đúng vậy! Vì các sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì sắc chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được; vì thọ, tưởng, hành, thức chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì nhãn xứ chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì sắc xứ chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì nhãn giới chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được; vì sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì nhĩ giới chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được; vì thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì tỷ giới chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được; vì hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì thiệt giới chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được; vì vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì thân giới chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được; vì xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì ý giới chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được; vì pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì địa giới chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì vô minh chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được; vì hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì bố thí Ba-la-mật-đa chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được; vì tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì pháp không nội chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được; vì pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì chơn như chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được; vì pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì Thánh đế khổ chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được; vì thánh đế tập, diệt, đạo chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì bốn tịnh lự chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được; vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì tám giải thoát chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được; vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì bốn niệm trụ chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được; vì bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì pháp môn giải thoát không chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được; vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì mười địa Bồ-tát chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì năm loại mắt chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được; vì sáu phép thần thông chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì mười lực Phật chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được; vì bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì pháp không quên mất chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được; vì tánh luôn luôn xả chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì trí nhất thiết chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được; vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì quả Dự-lưu chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được; vì quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì quả vị Độc-giác chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì tất cả hạnh đại Bồ-tát chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được.

Này Thiện Hiện! Vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng thể nắm bắt được nên sự tạo tác chẳng thể nắm bắt được

Này Thiện Hiện! Vì các sự tạo tác và các pháp sắc v.v… chẳng thể nắm bắt được nên Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế không có sự tạo tác.

 

Quyển thứ 288

Hết

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/01/2021(Xem: 7509)
Hòa thượng họ Hồ, húy Đắc Kế, Pháp danh Nguyên Công, tự Đức Niệm, bút hiệu Thiền Đức, thuộc dòng Lâm Tế đời thứ bốn mươi bốn, sinh năm Đinh Sửu (1937) tại làng Thanh Lương, phủ Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận, nay là xã Chí Công, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận. Nhờ túc duyên tiền kiếp, nên mặc dù không ai khích lệ thúc đẩy, Ngài vẫn một mình cố công tìm đường hướng về với đạo lý giác ngộ. Khởi đầu, Ngài xin xuất gia với Hòa Thượng Thích Minh Đạo tại chùa Long Quang, Phan Rí năm 13 tuổi. Sau đó, trên đường tầm sư học đạo, Ngài cầu học với Hòa thượng Trí Thắng chùa Thiên Hưng và Hòa Thượng Viện chủ chùa Trùng Khánh ở Phan Rang, Hòa Thượng Thiện Hòa ở chùa Ấn Quang, Sàigòn, và Hòa Thượng Trí Thủ ở Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang. Vào năm 1962, Ngài tốt nghiệp Cao Đẳng Phật giáo tại Phật Học Đường Nam Việt chùa Ấn Quang Sàigòn. Song song với Phật học, Ngài cũng c
25/01/2021(Xem: 4179)
Nói đến cụ Họa, hầu như người người dân thôn Vạn An, xã Nghĩa Thương, quận Tư Nghĩa thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Nếu sống cùng thời thì ai ai cũng biết cụ. Thật ra tên cụ là Võ đình Thụy, pháp danh Tâm Huệ sinh năm 1899 mất ngày 31 tháng 1 năm 1951 tại quê nhà. Cụ dáng người tầm thước. Sóng mủi cao cân xứng với khuôn mặt chữ điền. vầng trán cao rộng. Miệng hàm én. Đặc biệt hai mắt sáng quắt, biểu lộ đức tính ngay thẳng, lòng đầy quả cảm.
03/01/2021(Xem: 9462)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
20/12/2020(Xem: 4052)
Kính lạy giác linh Tổ sư: Chúng con đã từng nghe: Đồng An xưa, thác sanh thai thánh Dòng Lương Thị, quang huy ấu đồng. Tuyền Châu hun đúc ngọn từ phong. Phước Kiến ân triêm nguồn pháp vũ. Rồi từ đó: THẾ giới bao la, sáng ngời tinh tú ÂN sư cao cả, bừng trổi đàm hoa. Tướng hảo dung hòa Từ trí viên mãn. Nghiệp bút nghiên sáng lạng Nếp nho gia miên trường.
13/12/2020(Xem: 12011)
lễ Cúng Dường Đại Tăng trong ngày Sinh nhật Lần Thứ 94 của Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan. Thời gian: 1giờ 30 chiều ngày 01 tháng 01 năm 2021 Địa điểm: Chùa Hồng Danh 1129 Bal Harbor Way. San Jose, CA 95122. USA
12/12/2020(Xem: 5696)
Tu Viện Quảng Đức/Trang nhà Quảng Đức vừa nhận tin viên tịch (từ HT Thích Minh Hiếu): Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Giác Phúc, Thành viên Hội đồng chứng minh GHPGVN Giáo phẩm chứng minh Hệ phái Khất sĩ Tăng trưởng Giáo đoàn IV Viện chủ Pháp viện Minh Đăng Quang, Thế danh: Lê Văn Xa Sinh năm: 15/04/1936 Xuất gia: 29/09/AL/1958 Thọ Sa di: Rằm/10/1959 Thọ Tỳ kheo: Răm/07/1963 Hạ lạp: 57 năm Trụ thế: 85 năm Viên tịch vào lúc: 07 giờ ngày 28/10/Canh Tý (tức 12/12/2020) tại Pháp viện Minh Đăng Quang Lễ nhập liệm: 19 giờ cùng ngày tại Pháp viện Minh Đăng Quang Lễ kính viếng sau đó tại lễ đường Pháp viện Minh Đăng Quang Lễ tưởng niệm di quan, trà tỳ vào lúc 06 giờ ngày thứ Ba, Mùng 02/11/Canh Tý (tức ngày 15/12/2020 tại Phúc An Viên, Q. 9 *** Cáo Phó và chương trình tang lễ sẽ được phổ biến chi tiết trong thời gian sớm nhất có thể. Chúng con thành kính đảnh lễ Đức Trưởng Lão Hòa thượng Thích Giác Lượng Tân viên Tịch nguyện cầu Giác Linh ngài Cao Đăng Phật Quốc. Na
04/12/2020(Xem: 7092)
Được biết, do niên cao lạp trưởng, Hoà thượng đã thu thần viên tịch vào lúc 9g10' sáng nay, 4-12-2020 (nhằm ngày 20-10-Canh Tý), tại trụ sở văn phòng Ban Trị sự GHPGVN thị xã Ninh Hoà (chùa Đức Hoà, số 128 Trần Quý Cáp, P.Ninh Hiệp, thị xã Ninh Hoà, tỉnh Khánh Hoà), hưởng thọ 73 năm, 50 hạ lạp. Hoà thượng tân viên tịch thế danh Trịnh Văn Bảo, sinh năm 1948 tại thôn Mỹ Lợi, xã Ninh Tân, thị xã Ninh Hòa (Khánh Hoà), xuất gia với HT.Thích Viên Nhơn, trụ trì chùa Báo Ân (An Cựu, Huế). Ngài được Hoà thượng Bổn sư ban pháp danh Quảng Thường, tự Ngộ Tánh.
23/11/2020(Xem: 6902)
Phước duyên cho tôi khi được Me Tâm Tấn truyền trao gìn giữ một số thư từ còn lưu thủ bút & chữ ký của Chư tôn Thiền đức Tăng Ni vào những năm xưa xửa của thế kỷ trước. Trước, tôi đã có đôi lần giới thiệu thư từ bút tích của quý Ngài danh tăng Phật Giáo nước nhà như Ôn Trí Quang, Ôn Trí Thủ, Ôn Đỗng Minh, Ôn Đức Chơn, Ni trưởng Diệu Không, Ni trưởng Thể Quán... Hôm nay, tôi xin cung kính giới thiệu đến chư vị thủ bút và chữ ký của một bậc tôn quý vốn là cột trụ quan trọng trong ngôi nhà Phật pháp, một vị hộ pháp đắc lực của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam trong những ngày đầu của phong trào phục hưng, một thành viên cơ yếu của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất:
22/11/2020(Xem: 3768)
Trong đời sinh ra, ta may mắn được đầy đủ sáu giác quan, đó là đôi mắt để nhìn, đôi tai để nghe, đôi tay để cầm nắm, đôi chân để đi, cái miệng để nói và thọ dụng ăn uống, cái mũi để tập thở vào ra, tấm thân khỏe mạnh là không ốm đâu, từ những chức năng trên ta một dạ tri âm, Cha ta và Mẹ ta, vì chính họ cho ta có một cuộc sống bình an, chính là bậc thầy chính hiệu trong gốc rễ huyết thống. Ta sinh ra trên Trần thế, một dạ tri âm, các bậc Thầy giáo, Cô giáo, từ lớp lá, lớp mầm, lớp chồi, và cao quý hơn khi ta học từ cấp một đến Đại học trong trường, hay ở xung quanh, tất cả nhờ vào con chữ.
11/11/2020(Xem: 6728)
Mấy ngày mưa bão, rãnh rỗi ngồi soạn thư từ và hình ảnh, những kỷ vật mà Me Tâm Tấn luôn trân quý gìn giữ bao năm trời đã truyền trao lại cho tôi bảo quản làm tư liệu để tham khảo viết bài góp bút vào công tác hoằng pháp, tôi đã tìm thấy được những bức thư viết tay của một vị danh tăng Phật Giáo nước nhà: Cố Hòa thượng Thích Đức Tâm.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]