Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 173: Phẩm Khen Bát Nhã 2

08/07/201510:45(Xem: 14487)
Quyển 173: Phẩm Khen Bát Nhã 2


Tập 04

Quyển 173

Phẩm Khen Bát Nhã 2
Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm
Diễn đọc: Cư Sĩ Chánh Trí



 

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát tám giải thoát mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng được dẫn phát tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát tám giải thoát mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng được dẫn phát tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa?

Này Xá Lợi Tử! Vì tám giải thoát không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát tám giải thoát mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát bốn niệm trụ mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng được dẫn phát bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát bốn niệm trụ mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng được dẫn phát bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa?

Này Xá Lợi Tử! Vì bốn niệm trụ không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát bốn niệm trụ mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; vì bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo, mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát pháp môn giải thoát không mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng được dẫn phát pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát pháp môn giải thoát không mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng được dẫn phát pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa?

Này Xá Lợi Tử! Vì pháp môn giải thoát không không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát pháp môn giải thoát không mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát năm loại mắt mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng được dẫn phát sáu phép thần thông mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát năm loại mắt mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng được dẫn phát sáu phép thần thông mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa?

Này Xá Lợi Tử! Vì năm loại mắt không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát năm loại mắt mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; vì sáu phép thần thông không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát sáu phép thần thông, mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát mười lực Phật mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng được dẫn phát bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát mười lực Phật mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng được dẫn phát bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa?

Này Xá Lợi Tử! Vì mười lực Phật không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát mười lực Phật mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; vì bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát pháp không quên mất mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng được dẫn phát tánh luôn luôn xả mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát pháp không quên mất mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng được dẫn phát tánh luôn luôn xả mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa?

Này Xá Lợi Tử! Vì pháp không quên mất không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát pháp không quên mất mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; vì tánh luôn luôn xả không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát tánh luôn luôn xả, mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát trí nhất thiết mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng được dẫn phát trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát trí nhất thiết mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng được dẫn phát trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa?

Này Xá Lợi Tử! Vì trí nhất thiết không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát trí nhất thiết mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát tất cả pháp môn Đà-la-ni mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng được dẫn phát tất cả pháp môn Tam-ma-địa mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát tất cả pháp môn Đà-la-ni mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng được dẫn phát tất cả pháp môn Tam-ma-địa mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa?

Này Xá Lợi Tử! Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát tất cả pháp môn Đà-la-ni mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát tất cả pháp môn Tam-ma-địa, mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát quả Dự-lưu mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng được dẫn phát quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát quả Dự-lưu mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng được dẫn phát quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa?

Này Xá Lợi Tử! Vì quả Dự-lưu không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát quả Dự-lưu mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; vì quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán, mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát quả vị Độc-giác mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát quả vị Độc-giác mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa?

Này Xá Lợi Tử! Vì quả vị Độc-giác không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát quả vị Độc-giác, mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát tất cả hạnh đại Bồ-tát mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát tất cả hạnh đại Bồ-tát mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa?

Này Xá Lợi Tử! Vì tất cả hạnh đại Bồ-tát không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát tất cả hạnh đại Bồ-tát, mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa?

Này Xá Lợi Tử! Vì quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật, mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát tất cả pháp mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát tất cả pháp mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa?

Này Xá Lợi Tử! Vì tất cả pháp không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát tất cả pháp, mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Khi ấy, Xá Lợi Tử lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế cùng hiệp với pháp nào?

Phật dạy: Này Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế chẳng hiệp với tất cả pháp. Vì chẳng hiệp nên được gọi là Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế không cùng hiệp với tất cả những pháp nào?

Này Xá Lợi Tử! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, chẳng cùng hiệp với pháp thiện, chẳng cùng hiệp với pháp phi thiện, chẳng cùng hiệp với pháp hữu tội, chẳng cùng hiệp với pháp vô tội, chẳng cùng hiệp với pháp hữu lậu, chẳng cùng hiệp với pháp vô lậu, chẳng cùng hiệp với pháp hữu vi, chẳng cùng hiệp với pháp vô vi, chẳng cùng hiệp với pháp tạp nhiễm, chẳng cùng hiệp với pháp thanh tịnh, chẳng cùng hiệp với pháp nhiễm ô, chẳng cùng hiệp với pháp bất nhiễm ô, chẳng cùng hiệp với pháp thế gian, chẳng cùng hiệp với pháp xuất thế gian, chẳng cùng hiệp với pháp sanh tử, chẳng cùng hiệp với pháp Niết-bàn. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với tất cả pháp, không có sở đắc.

Lúc bấy giờ, trời Đế Thích bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế sao chẳng hiệp với trí nhất thiết trí?

Phật dạy: Này Kiều Thi Ca! Đúng vậy! Đúng vậy! Bát-nhã-ba-la-mật-đa này cũng chẳng hiệp với trí nhất thiết trí. Vì do cái này đối với cái kia chẳng thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bát-nhã-ba-la-mật-đa đối với trí nhất thiết trí không hiệp cũng không đắc?

Này Kiều Thi Ca! Chẳng phải Bát-nhã-ba-la-mật-đa đối với trí nhất thiết trí có hiệp có đắc đúng như danh, như tướng, như tác dụng của nó.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bát-nhã-ba-la-mật-đa đối với trí nhất thiết trí cũng có hiệp có đắc?

Này Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa đối với trí nhất thiết trí không thọ, không thủ, không trụ, không đoạn, không chấp, không xả, đúng như danh, tướng v.v... hiệp đắc như vậy mà không hiệp đắc.

Này Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với tất cả pháp cũng không thọ, không thủ, không trụ, không đoạn, không chấp, không xả, đúng như danh, tướng v.v… hiệp đắc như vậy mà không hiệp đắc.

Khi ấy, trời Đế Thích lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thật hiếm có! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, vì tất cả pháp không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh mà hiện tại, tuy có hiệp có đắc nhưng không hiệp không đắc.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khởi tưởng thế này: Bát-nhã-ba-la-mật-đa cùng hiệp với tất cả pháp; Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng cùng hiệp với tất cả pháp thì đại Bồ-tát ấy vứt bỏ hết Bát-nhã-ba-la-mật-đa; xa lìa hết Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Phật dạy: Thiện Hiện! Lại có nhân duyên các đại Bồ-tát vứt bỏ Bát-nhã-ba-la-mật-đa; xa lìa Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đó là khi đại Bồ-tát tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khởi tưởng thế này: Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế không có sở hữu, chẳng phải chơn thật, chẳng kiên cố, chẳng tự tại, nên đại Bồ-tát ấy vứt bỏ hết Bát-nhã-ba-la-mật-đa, xa lìa hết Bát-nhã-ba-la-mật-đa.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin pháp nào?

Phật dạy: Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin sắc; chẳng tin thọ, tưởng, hành, thức.

Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin sắc; chẳng tin thọ, tưởng, hành, thức?

Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán sắc chẳng thể nắm bắt được; quán thọ, tưởng, hành, thức chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin sắc; chẳng tin thọ, tưởng, hành, thức.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin nhãn xứ; chẳng tin nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.

Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin nhãn xứ; chẳng tin nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ?

Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán nhãn xứ chẳng thể nắm bắt được; quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin nhãn xứ; chẳng tin nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin sắc xứ; chẳng tin thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.

Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin sắc xứ; chẳng tin thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán sắc xứ chẳng thể nắm bắt được; quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin sắc xứ; chẳng tin thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin nhãn giới; chẳng tin sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra.

Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin nhãn giới; chẳng tin sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xú cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán nhãn giới chẳng thể nắm bắt được; quán sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin nhãn giới; chẳng tin sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin nhĩ giới; chẳng tin thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra.

Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin nhĩ giới; chẳng tin thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán nhĩ giới chẳng thể nắm bắt được; quán thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin nhĩ giới; chẳng tin thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin tỷ giới; chẳng tin hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra.

Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin tỷ giới; chẳng tin hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán tỷ giới chẳng thể nắm bắt được; quán hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin tỷ giới; chẳng tin hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin thiệt giới; chẳng tin vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra.

Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin thiệt giới; chẳng tin vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán thiệt giới chẳng thể nắm bắt được; quán vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin thiệt giới; chẳng tin vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa, thì chẳng tin thân giới; chẳng tin xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra.

Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa, thì chẳng tin thân giới; chẳng tin xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán thân giới chẳng thể nắm bắt được; quán xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin thân giới, chẳng tin xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin ý giới; chẳng tin pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra.

Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin ý giới; chẳng tin pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán ý giới chẳng thể nắm bắt được; quán pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin ý giới; chẳng tin pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin địa giới; chẳng tin thủy, hỏa, phong, không, thức giới.

Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin địa giới; chẳng tin thủy, hỏa, phong, không, thức giới?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán địa giới chẳng thể nắm bắt được; quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin địa giới; chẳng tin thủy, hỏa, phong, không, thức giới.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin vô minh; chẳng tin hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não.

Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin vô minh; chẳng tin hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán vô minh chẳng thể nắm bắt được; quán hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin vô minh; chẳng tin hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin bố thí Ba-la-mật-đa; chẳng tin tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin bố thí Ba-la-mật-đa; chẳng tin tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán bố thí Ba-la-mật-đa chẳng thể nắm bắt được; quán tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin pháp không nội; chẳng tin pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bổn tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh.

Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin pháp không nội, chẳng tinh pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bổn tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán pháp không nội chẳng thể nắm bắt được; quán pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin pháp không nội, chẳng tin pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin chơn như; chẳng tin pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì.

Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin chơn như; chẳng tin pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán chơn như chẳng thể nắm bắt được; quán pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin chơn như, chẳng tin pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin Thánh đế khổ; chẳng tin Thánh đế tập, diệt, đạo.

Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin Thánh đế khổ; chẳng tin Thánh đế tập, diệt, đạo?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán Thánh đế khổ chẳng thể nắm bắt được; quán Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin Thánh đế khổ; chẳng tin Thánh đế tập, diệt, đạo.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin bốn tịnh lự; chẳng tin bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin bốn tịnh lự; chẳng tin bốn vô lượng, bốn định vô sắc?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán bốn tịnh lự chẳng thể nắm bắt được; quán bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin bốn tịnh lự; chẳng tin bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin tám giải thoát; chẳng tin tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin tám giải thoát; chẳng tin tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán tám giải thoát chẳng thể nắm bắt được; quán tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin tám giải thoát; chẳng tin tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin bốn niệm trụ; chẳng tin bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo.

Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin bốn niệm trụ; chẳng tin bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo ?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán bốn niệm trụ chẳng thể nắm bắt được; quán bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin bốn niệm trụ; chẳng tin bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin pháp môn giải thoát không; chẳng tin pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.

Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin pháp môn giải thoát không; chẳng tin pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán pháp môn giải thoát không chẳng thể nắm bắt được; quán pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin pháp môn giải thoát không; chẳng tin pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin năm loại mắt; chẳng tin sáu phép thần thông.

Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin năm loại mắt; chẳng tin sáu phép thần thông?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán năm loại mắt chẳng thể nắm bắt được; quán sáu phép thần thông chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin năm loại mắt; chẳng tin sáu phép thần thông.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin mười lực Phật; chẳng tin bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng.

Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin mười lực Phật; chẳng tin bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán mười lực Phật chẳng thể nắm bắt được; quán bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin mười lực Phật; chẳng tin bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin pháp không quên mất; chẳng tin tánh luôn luôn xả.

Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin pháp không quên mất; chẳng tin tánh luôn luôn xả?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán pháp không quên mất chẳng thể nắm bắt được; quán tánh luôn luôn xả chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin pháp không quên mất; chẳng tin tánh luôn luôn xả.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin trí nhất thiết; chẳng tin trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin trí nhất thiết; chẳng tin trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán trí nhất thiết chẳng thể nắm bắt được; quán trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin trí nhất thiết; chẳng tin trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin tất cả pháp môn Đà-la-ni; chẳng tin tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin tất cả pháp môn Đà-la-ni; chẳng tin tất cả pháp môn Tam-ma-địa?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng thể nắm bắt được; quán tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin tất cả pháp môn Đà-la-ni; chẳng tin tất cả pháp môn Tam-ma-địa.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin quả Dự-lưu; chẳng tin quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán.

Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin quả Dự-lưu; chẳng tin quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán quả Dự-lưu chẳng thể nắm bắt được; quán quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin quả Dự-lưu; chẳng tin quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin quả vị Độc-giác.

Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin quả vị Độc-giác?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán quả vị Độc-giác chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin quả vị Độc-giác.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin tất cả hạnh đại Bồ-tát.

Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin tất cả hạnh đại Bồ-tát?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán tất cả hạnh đại Bồ-tát chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin tất cả hạnh đại Bồ-tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật.

Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin tất cả pháp.

Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin tất cả pháp?

Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán tất cả pháp chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin tất cả pháp.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát gọi là đại Ba-la-mật-đa.

Phật dạy: Này Thiện Hiện! Ông dựa vào ý gì mà nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát là đại Ba-la-mật-đa?

Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát đối với sắc chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với sắc chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với sắc chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với sắc chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với sắc chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức.

Bạch Thế Tôn! Con dựa vào ý này nên nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát là đại Ba-la-mật-đa.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát, đối với nhãn xứ chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với nhãn xứ chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với nhãn xứ chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với nhãn xứ chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với nhãn xứ chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức.

Bạch Thế Tôn! Con dựa vào ý này nên nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát là đại Ba-la-mật-đa.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát, đối với sắc xứ chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với sắc xứ chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với sắc xứ chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với sắc xứ chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với sắc xứ chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức.

Bạch Thế Tôn! Con dựa vào ý này nên nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát là đại Ba-la-mật-đa.

                                                                                                 

Quyển thứ 173

Hết

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/01/2021(Xem: 7510)
Hòa thượng họ Hồ, húy Đắc Kế, Pháp danh Nguyên Công, tự Đức Niệm, bút hiệu Thiền Đức, thuộc dòng Lâm Tế đời thứ bốn mươi bốn, sinh năm Đinh Sửu (1937) tại làng Thanh Lương, phủ Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận, nay là xã Chí Công, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận. Nhờ túc duyên tiền kiếp, nên mặc dù không ai khích lệ thúc đẩy, Ngài vẫn một mình cố công tìm đường hướng về với đạo lý giác ngộ. Khởi đầu, Ngài xin xuất gia với Hòa Thượng Thích Minh Đạo tại chùa Long Quang, Phan Rí năm 13 tuổi. Sau đó, trên đường tầm sư học đạo, Ngài cầu học với Hòa thượng Trí Thắng chùa Thiên Hưng và Hòa Thượng Viện chủ chùa Trùng Khánh ở Phan Rang, Hòa Thượng Thiện Hòa ở chùa Ấn Quang, Sàigòn, và Hòa Thượng Trí Thủ ở Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang. Vào năm 1962, Ngài tốt nghiệp Cao Đẳng Phật giáo tại Phật Học Đường Nam Việt chùa Ấn Quang Sàigòn. Song song với Phật học, Ngài cũng c
25/01/2021(Xem: 4179)
Nói đến cụ Họa, hầu như người người dân thôn Vạn An, xã Nghĩa Thương, quận Tư Nghĩa thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Nếu sống cùng thời thì ai ai cũng biết cụ. Thật ra tên cụ là Võ đình Thụy, pháp danh Tâm Huệ sinh năm 1899 mất ngày 31 tháng 1 năm 1951 tại quê nhà. Cụ dáng người tầm thước. Sóng mủi cao cân xứng với khuôn mặt chữ điền. vầng trán cao rộng. Miệng hàm én. Đặc biệt hai mắt sáng quắt, biểu lộ đức tính ngay thẳng, lòng đầy quả cảm.
03/01/2021(Xem: 9463)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
20/12/2020(Xem: 4052)
Kính lạy giác linh Tổ sư: Chúng con đã từng nghe: Đồng An xưa, thác sanh thai thánh Dòng Lương Thị, quang huy ấu đồng. Tuyền Châu hun đúc ngọn từ phong. Phước Kiến ân triêm nguồn pháp vũ. Rồi từ đó: THẾ giới bao la, sáng ngời tinh tú ÂN sư cao cả, bừng trổi đàm hoa. Tướng hảo dung hòa Từ trí viên mãn. Nghiệp bút nghiên sáng lạng Nếp nho gia miên trường.
13/12/2020(Xem: 12012)
lễ Cúng Dường Đại Tăng trong ngày Sinh nhật Lần Thứ 94 của Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan. Thời gian: 1giờ 30 chiều ngày 01 tháng 01 năm 2021 Địa điểm: Chùa Hồng Danh 1129 Bal Harbor Way. San Jose, CA 95122. USA
12/12/2020(Xem: 5696)
Tu Viện Quảng Đức/Trang nhà Quảng Đức vừa nhận tin viên tịch (từ HT Thích Minh Hiếu): Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Giác Phúc, Thành viên Hội đồng chứng minh GHPGVN Giáo phẩm chứng minh Hệ phái Khất sĩ Tăng trưởng Giáo đoàn IV Viện chủ Pháp viện Minh Đăng Quang, Thế danh: Lê Văn Xa Sinh năm: 15/04/1936 Xuất gia: 29/09/AL/1958 Thọ Sa di: Rằm/10/1959 Thọ Tỳ kheo: Răm/07/1963 Hạ lạp: 57 năm Trụ thế: 85 năm Viên tịch vào lúc: 07 giờ ngày 28/10/Canh Tý (tức 12/12/2020) tại Pháp viện Minh Đăng Quang Lễ nhập liệm: 19 giờ cùng ngày tại Pháp viện Minh Đăng Quang Lễ kính viếng sau đó tại lễ đường Pháp viện Minh Đăng Quang Lễ tưởng niệm di quan, trà tỳ vào lúc 06 giờ ngày thứ Ba, Mùng 02/11/Canh Tý (tức ngày 15/12/2020 tại Phúc An Viên, Q. 9 *** Cáo Phó và chương trình tang lễ sẽ được phổ biến chi tiết trong thời gian sớm nhất có thể. Chúng con thành kính đảnh lễ Đức Trưởng Lão Hòa thượng Thích Giác Lượng Tân viên Tịch nguyện cầu Giác Linh ngài Cao Đăng Phật Quốc. Na
04/12/2020(Xem: 7092)
Được biết, do niên cao lạp trưởng, Hoà thượng đã thu thần viên tịch vào lúc 9g10' sáng nay, 4-12-2020 (nhằm ngày 20-10-Canh Tý), tại trụ sở văn phòng Ban Trị sự GHPGVN thị xã Ninh Hoà (chùa Đức Hoà, số 128 Trần Quý Cáp, P.Ninh Hiệp, thị xã Ninh Hoà, tỉnh Khánh Hoà), hưởng thọ 73 năm, 50 hạ lạp. Hoà thượng tân viên tịch thế danh Trịnh Văn Bảo, sinh năm 1948 tại thôn Mỹ Lợi, xã Ninh Tân, thị xã Ninh Hòa (Khánh Hoà), xuất gia với HT.Thích Viên Nhơn, trụ trì chùa Báo Ân (An Cựu, Huế). Ngài được Hoà thượng Bổn sư ban pháp danh Quảng Thường, tự Ngộ Tánh.
23/11/2020(Xem: 6902)
Phước duyên cho tôi khi được Me Tâm Tấn truyền trao gìn giữ một số thư từ còn lưu thủ bút & chữ ký của Chư tôn Thiền đức Tăng Ni vào những năm xưa xửa của thế kỷ trước. Trước, tôi đã có đôi lần giới thiệu thư từ bút tích của quý Ngài danh tăng Phật Giáo nước nhà như Ôn Trí Quang, Ôn Trí Thủ, Ôn Đỗng Minh, Ôn Đức Chơn, Ni trưởng Diệu Không, Ni trưởng Thể Quán... Hôm nay, tôi xin cung kính giới thiệu đến chư vị thủ bút và chữ ký của một bậc tôn quý vốn là cột trụ quan trọng trong ngôi nhà Phật pháp, một vị hộ pháp đắc lực của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam trong những ngày đầu của phong trào phục hưng, một thành viên cơ yếu của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất:
22/11/2020(Xem: 3768)
Trong đời sinh ra, ta may mắn được đầy đủ sáu giác quan, đó là đôi mắt để nhìn, đôi tai để nghe, đôi tay để cầm nắm, đôi chân để đi, cái miệng để nói và thọ dụng ăn uống, cái mũi để tập thở vào ra, tấm thân khỏe mạnh là không ốm đâu, từ những chức năng trên ta một dạ tri âm, Cha ta và Mẹ ta, vì chính họ cho ta có một cuộc sống bình an, chính là bậc thầy chính hiệu trong gốc rễ huyết thống. Ta sinh ra trên Trần thế, một dạ tri âm, các bậc Thầy giáo, Cô giáo, từ lớp lá, lớp mầm, lớp chồi, và cao quý hơn khi ta học từ cấp một đến Đại học trong trường, hay ở xung quanh, tất cả nhờ vào con chữ.
11/11/2020(Xem: 6728)
Mấy ngày mưa bão, rãnh rỗi ngồi soạn thư từ và hình ảnh, những kỷ vật mà Me Tâm Tấn luôn trân quý gìn giữ bao năm trời đã truyền trao lại cho tôi bảo quản làm tư liệu để tham khảo viết bài góp bút vào công tác hoằng pháp, tôi đã tìm thấy được những bức thư viết tay của một vị danh tăng Phật Giáo nước nhà: Cố Hòa thượng Thích Đức Tâm.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]