Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 76: Phẩm Tịnh Đạo 2

07/07/201516:09(Xem: 14376)
Quyển 76: Phẩm Tịnh Đạo 2

Tập 02
Quyển 76
Phẩm Tịnh Đạo 2
Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm
Diễn đọc: Cư Sĩ Chánh Trí


 

Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ-tát nghe nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa mà tâm không nghi hoặc, cũng chẳng mê muội, thì nên biết, đại Bồ-tát ấy trụ chỗ trụ như thị, chẳng lìa tác ý, nghĩa là muốn cứu hộ tất cả hữu tình, thường chẳng rời bỏ tác ý đại bi đối với tất cả hữu tình.

Khi ấy, Xá Lợi Tử nói với Thiện Hiện: Nếu đại Bồ-tát trụ chỗ trụ như thị, chẳng lìa tác ý, thì tất cả hữu tình cũng phải thành đại Bồ-tát. Vì sao? Vì tất cả hữu tình cũng thường chẳng lìa tác ý này. Vì vậy đại Bồ-tát cùng với tất cả hữu tình phải không sai khác.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện khen Xá Lợi Tử: Hay thay! Hay thay! Đúng như Ngài đã nói, Ngài có khả năng nắm bắt đúng như thật cái nghĩa mà tôi đã nói. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì hữu tình phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì ngã, dòng sinh mạng, sự sanh, sự dưỡng, sự trưởng thành, chủ thể luân hồi, người do người sanh, ngã tối thắng, khả năng làm việc, tự thọ quả báo, cái biết, cái thấy phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì hũu tình không thật, nên biết tác ý cũng không thật; vì ngã cho đến cái thấy không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì hữu tình không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì ngã cho đến cái thấy không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì hữu tình là không, nên biết tác ý cũng không; vì ngã cho đến cái thấy là không, nên biết tác ý cũng là không. Vì hữu tình là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly; vì ngã cho đến cái thấy là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì hữu tình là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh; vì ngã cho đến cái thấy là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì hữu tình vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác; vì ngã cho đến cái thấy vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác.

Xá Lợi Tử! Vì sắc phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu; vì thọ, tưởng, hành, thức phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì sắc không thật, nên biết tác ý cũng không thật; vì thọ, tưởng, hành, thức không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì sắc không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh; vì thọ, tưởng, hành, thức không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì sắc là không, nên biết tác ý cũng không; vì thọ, tưởng, hành, thức là không, nên biết tác ý cũng không. Vì sắc là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly; vì thọ, tưởng, hành, thức là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì sắc là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh; vì thọ, tưởng, hành, thức là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì sắc vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác; vì thọ, tưởng, hành, thức vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác.

Xá Lợi Tử! Vì nhãn xứ phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì nhãn xứ không thật, nên biết tác ý cũng không thật; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì nhãn xứ không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì nhãn xứ là không, nên biết tác ý cũng không; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là không, nên biết tác ý cũng không. Vì nhãn xứ là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì nhãn xứ là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì nhãn xứ vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác; vì nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác.

Xá Lợi Tử! Vì sắc xứ phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì sắc xứ không thật, nên biết tác ý cũng không thật; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì sắc xứ không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì sắc xứ là không, nên biết tác ý cũng không; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là không, nên biết tác ý cũng không. Vì sắc xứ là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì sắc xứ là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì sắc xứ vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác; vì thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác.

Xá Lợi Tử! Vì nhãn giới phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu; vì sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì nhãn giới không thật, nên biết tác ý cũng không thật; vì sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì nhãn giới không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh; vì sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì nhãn giới là không, nên biết tác ý cũng không; vì sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là không, nên biết tác ý cũng không. Vì nhãn giới là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly; vì sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì nhãn giới là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh; vì sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì nhãn giới vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác; vì sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác.

Xá Lợi Tử! Vì nhĩ giới phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu; vì thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì nhĩ giới không thật, nên biết tác ý cũng không thật; vì thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì nhĩ giới không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh; vì thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì nhĩ giới là không, nên biết tác ý cũng không; vì thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là không, nên biết tác ý cũng không. Vì nhĩ giới là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly; vì thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì nhĩ giới là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh; vì thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì nhĩ giới vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác; vì thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác.

Xá Lợi Tử! Vì tỷ giới phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu; vì hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì tỷ giới không thật, nên biết tác ý cũng không thật; vì hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì tỷ giới không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh; vì hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì tỷ giới là không, nên biết tác ý cũng không; vì hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là không, nên biết tác ý cũng không. Vì tỷ giới là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly; vì hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì tỷ giới là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh; vì hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì tỷ giới vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác; vì hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác.

Xá Lợi Tử! Vì thiệt giới phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu; vì vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì thiệt giới không thật, nên biết tác ý cũng không thật; vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì thiệt giới không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh; vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì thiệt giới là không, nên biết tác ý cũng không; vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là không, nên biết tác ý cũng không. Vì thiệt giới là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly; vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì thiệt giới là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh; vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì thiệt giới vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác; vì vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác.

Xá Lợi Tử! Vì thân giới phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu; vì xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì thân giới không thật, nên biết tác ý cũng không thật; vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì thân giới không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh; vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì thân giới là không, nên biết tác ý cũng không; vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là không, nên biết tác ý cũng không. Vì thân giới là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly; vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì thân giới là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh; vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì thân giới vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác; vì xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác.

Xá Lợi Tử! Vì ý giới phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu; vì pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì ý giới không thật, nên biết tác ý cũng không thật; vì pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì ý giới không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh; vì pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì ý giới là không, nên biết tác ý cũng không; vì pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là không, nên biết tác ý cũng không. Vì ý giới là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly; vì pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì ý giới là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh; vì pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì ý giới vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác; vì pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác.

Xá Lợi Tử! Vì địa giới phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì địa giới không thật, nên biết tác ý cũng không thật; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì địa giới không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì địa giới là không, nên biết tác ý cũng không; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới là không, nên biết tác ý cũng không. Vì địa giới là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì địa giới là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì địa giới vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác; vì thủy, hỏa, phong, không, thức giới vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác.

Xá Lợi Tử! Vì Thánh đế khổ phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu; vì Thánh đế tập, diệt, đạo phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì Thánh đế khổ không thật, nên biết tác ý cũng không thật; vì Thánh đế tập, diệt, đạo không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì Thánh đế khổ không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh; vì Thánh đế tập, diệt, đạo không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì Thánh đế khổ là không, nên biết tác ý cũng không; vì Thánh đế tập, diệt, đạo là không, nên biết tác ý cũng không. Vì Thánh đế khổ là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly; vì Thánh đế tập, diệt, đạo là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì Thánh đế khổ là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh; vì Thánh đế tập, diệt, đạo là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì Thánh đế khổ vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác; vì Thánh đế tập, diệt, đạo vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác.

Xá Lợi Tử! Vì vô minh phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu; vì hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì vô minh không thật, nên biết tác ý cũng không thật; vì hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì vô minh không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh; vì hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì vô minh là không, nên biết tác ý cũng không; vì hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là không, nên biết tác ý cũng không. Vì vô minh là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly; vì hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì vô minh là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh; vì hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì vô minh vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác; vì hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác.

Xá Lợi Tử! Vì cái không nội phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu; vì cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì cái không nội không thật, nên biết tác ý cũng không thật; vì cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì cái không nội không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh; vì cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì cái không nội là không, nên biết tác ý cũng không; vì cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh là không, nên biết tác ý cũng không. Vì cái không nội là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly; vì cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì cái không nội là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh; vì cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì cái không nội vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác; vì cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác.

Xá Lợi Tử! Vì chơn như phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu; vì pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì chơn như không thật, nên biết tác ý cũng không thật; vì pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì chơn như không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh; vì pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì chơn như là không, nên biết tác ý cũng không; vì pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì là không, nên biết tác ý cũng không. Vì chơn như là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly; vì pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì chơn như là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh; vì pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì chơn như vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác; vì pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác.

Xá Lợi Tử! Vì bố thí Ba-la-mật-đa phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu; vì tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã-ba-la-mật-đa phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì bố thí Ba-la-mật-đa không thật, nên biết tác ý cũng không thật; vì tịnh giới cho đến Bát-nhã-ba-la-mật-đa không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì bố thí Ba-la-mật-đa không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh; vì tịnh giới cho đến Bát-nhã-ba-la-mật-đa không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì bố thí Ba-la-mật-đa là không, nên biết tác ý cũng không; vì tịnh giới cho đến Bát-nhã-ba-la-mật-đa là không, nên biết tác ý cũng không. Vì bố thí Ba-la-mật-đa là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly; vì tịnh giới cho đến Bát-nhã-ba-la-mật-đa là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì bố thí Ba-la-mật-đa là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh; vì tịnh giới cho đến Bát-nhã-ba-la-mật-đa là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì bố thí Ba-la-mật-đa vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác; vì tịnh giới cho đến Bát-nhã-ba-la-mật-đa vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác.

Xá Lợi Tử! Vì bốn tịnh lự phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu; vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì bốn tịnh lự không thật, nên biết tác ý cũng không thật; vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì bốn tịnh lự không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh; vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì bốn tịnh lự là không, nên biết tác ý cũng không; vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc là không, nên biết tác ý cũng không. Vì bốn tịnh lự là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly; vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì bốn tịnh lự là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh; vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì bốn tịnh lự vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác; vì bốn vô lượng, bốn định vô sắc vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác.

Xá Lợi Tử! Vì tám giải thoát phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu; vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì tám giải thoát không thật, nên biết tác ý cũng không thật; vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì tám giải thoát không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh; vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì tám giải thoát là không, nên biết tác ý cũng không; vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là không, nên biết tác ý cũng không. Vì tám giải thoát là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly; vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì tám giải thoát là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh; vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì tám giải thoát vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác; vì tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác.

Xá Lợi Tử! Vì bốn niệm trụ phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu; vì bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì bốn niệm trụ không thật, nên biết tác ý cũng không thật; vì bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì bốn niệm trụ không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh; vì bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì bốn niệm trụ là không, nên biết tác ý cũng không; vì bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo là không, nên biết tác ý cũng không. Vì bốn niệm trụ là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly; vì bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì bốn niệm trụ là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh; vì bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì bốn niệm trụ vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác; vì bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác.

Xá Lợi Tử! Vì pháp môn giải thoát không phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu; vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì pháp môn giải thoát không không thật, nên biết tác ý cũng không thật; vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì pháp môn giải thoát không không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh; vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì pháp môn giải thoát không là không, nên biết tác ý cũng không; vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là không, nên biết tác ý cũng không. Vì pháp môn giải thoát không là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly; vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì pháp môn giải thoát không là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh; vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì pháp môn giải thoát không vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác; vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác.

Xá Lợi Tử! Vì năm loại mắt phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu; vì sáu phép thần thông phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì năm loại mắt không thật, nên biết tác ý cũng không thật; vì sáu phép thần thông không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì năm loại mắt không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh; vì sáu phép thần thông không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì năm loại mắt là không, nên biết tác ý cũng không; vì sáu phép thần thông là không, nên biết tác ý cũng không. Vì năm loại mắt là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly; vì sáu phép thần thông là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì năm loại mắt là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh; vì sáu phép thần thông là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì năm loại mắt vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác; vì sáu phép thần thông vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác.

Xá Lợi Tử! Vì mười lực của Phật phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu; vì bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì mười lực của Phật không thật, nên biết tác ý cũng không thật; vì bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì mười lực của Phật không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh; vì bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì mười lực của Phật là không, nên biết tác ý cũng không; vì bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là không, nên biết tác ý cũng không. Vì mười lực của Phật là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly; vì bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì mười lực của Phật là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh; vì bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì mười lực của Phật vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác; vì bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác.

Xá Lợi Tử! Vì pháp không quên mất phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu; vì tánh luôn luôn xả phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì pháp không quên mất không thật, nên biết tác ý cũng không thật; vì tánh luôn luôn xả không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì pháp không quên mất không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh; vì tánh luôn luôn xả không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì pháp không quên mất là không, nên biết tác ý cũng không; vì tánh luôn luôn xả là không, nên biết tác ý cũng không. Vì pháp không quên mất là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly; vì tánh luôn luôn xả là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì pháp không quên mất là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh; vì tánh luôn luôn xả là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì pháp không quên mất vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác; vì tánh luôn luôn xả vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác.

Xá Lợi Tử! Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni không thật, nên biết tác ý cũng không thật; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni là không, nên biết tác ý cũng không; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa là không, nên biết tác ý cũng không. Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác.

Xá Lợi Tử! Vì trí nhất thiết phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu; vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì trí nhất thiết không thật, nên biết tác ý cũng không thật; vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì trí nhất thiết không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh; vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì trí nhất thiết là không, nên biết tác ý cũng không; vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là không, nên biết tác ý cũng không. Vì trí nhất thiết là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly; vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì trí nhất thiết là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh; vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì trí nhất thiết vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác; vì trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác.

Xá Lợi Tử! Vì quả vị Thanh-văn phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu; vì quả vị Độc-giác, quả vị Vô-thượng phi hữu, nên biết tác ý cũng phi hữu. Vì quả vị Thanh-văn không thật, nên biết tác ý cũng không thật; vì quả vị Độc-giác, quả vị Vô-thượng không thật, nên biết tác ý cũng không thật. Vì quả vị Thanh-văn không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh; vì quả vị Độc-giác, quả vị Vô-thượng không có tự tánh, nên biết tác ý cũng không có tự tánh. Vì quả vị Thanh-văn là không, nên biết tác ý cũng không; vì quả vị Độc-giác, quả vị Vô-thượng là không, nên biết tác ý cũng không. Vì quả vị Thanh-văn là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly; vì quả vị Độc-giác, quả vị Vô-thượng là viễn ly, nên biết tác ý cũng viễn ly. Vì quả vị Thanh-văn là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh; vì quả vị Độc-giác, quả vị Vô-thượng là tịch tịnh, nên biết tác ý cũng tịch tịnh. Vì quả vị Thanh-văn vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác; vì quả vị Độc-giác, quả vị Vô-thượng vô tri giác, nên biết tác ý cũng vô tri giác.

Xá Lợi Tử! Do duyên cớ này, các đại Bồ-tát trụ chỗ trụ như thị, nên thường chẳng xả tác ý đại bi.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn khen Thiện Hiện: Hay thay! Hay thay! Ông có khả năng khéo vì đại Bồ-tát mà tyuên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đó là đều do sức oai thần của Như Lai. Có vị nào muốn vì đại Bồ-tát mà tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì đều nên như ông mà tuyên thuyết. Có các đại Bồ-tát nào muốn học Bát-nhã-ba-la-mật-đa, thì đều nên theo điều ông nói mà học.

Khi cụ thọ Thiện Hiện vì các đại Bồ-tát thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa ấy, thì ở trong tam thiên đại thiên thế giới này, sáu thứ chuyển biến, đó là: Động, động rất mạnh, tất cả đều đông mạnh; phun, phun rất mạnh, tất cả đều phun mạnh; rung, rung rất mạnh, tất cả đều rung mạnh; chạm, chạm rất mạnh, tất cả đều chạm mạnh; nổ, nổ rất lớn, tất cả đều nổ lớn; nứt, nứt rất lớn, tất cả đều nứt lớn; Đông phun Tây chìm, Tây phun Đông chìm; Nam phun Bắc chìm, Bắc phun Nam chìm; chính giữa phun, bên mé chìm, bên mé phun chính giữa chìm.

Lúc bấy giờ đức Như Lai liền mỉm cười.

cụ thọ Thiện Hiện bạch: Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Ngài mỉm cười?

Phật bảo Thiện Hiện: Như ta ở thế giới Kham Nhẫn ba lần ngàn này. Vì các đại Bồ-tát mà tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa, nay chư Phật Thế Tôn ở vô lượng, vô số, vô biên thế giới trong mười phương cũng vì các đại Bồ-tát mà tuyên thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Như nay ở thế giới Kham Nhẫn ba lần ngàn này có mười hai ức các trời, người v.v…. nghe thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa ở trong các pháp, chứng đắc vô sanh nhẫn, nay ở vô lượng, vô số, vô biên thế giới trong mười phương, đều có vô lượng, vô số, vô biên hữu tình nghe chư Phật ở cõi ấy thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa, cũng phát tâm cầu chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Quyển thứ 76

Hết

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/06/2021(Xem: 4369)
Tán Thán Công Hạnh Tôn Sư Thành Kính Tưởng Niệm Cố Thượng Toạ thượng Chơn hạ Kiến. Kính nguyện Giác Linh Thượng Toạ Cao Đăng Phật Quốc. Vạn Đức già lam nhập đạo thiền Tinh cần sớm tối học kinh thiêng Đèn tâm chiếu sáng thơm hương giới Đuốc tuệ ngời soi toả đức nguyền Chơn Kiến suy tầm chân diện mục Ẩn Minh hiển thị diệu tâm nguyên Hoằng dương giáo pháp noi gương tổ Hoá độ sinh linh, độ chúng duyên.
14/06/2021(Xem: 8083)
Điện Thư Phân Ưu Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật Thay mặt Tu Viện Quảng Đức & Trang Nhà Quảng Đức chúng con thành tâm phân ưu: Hòa Thượng Thích Bổn Đạt (Bổn Sư của TT Nguyên Mãn) Giáo Hội Canada cùng môn nhơn pháp quyến Chùa Long Hoa, Toronto, Canada. Nhất tâm cầu nguyện Giác Linh Thượng Tọa Thích Nguyên Mãn Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Kinh Tế-Tài Chánh Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Canada Trụ Trì Chùa Long Hoa, Toronto, Canada Thuận thế vô thường viên tịch vào ngày 5/6/2021 (25/4/Tân Sửu) tại Canada Trụ thế : 75 năm ; 25 Hạ lạp CAO ĐĂNG PHẬT QUỐC *** Nay Thành kính Phân Ưu Thượng Tọa Thích Tâm Phương Viện Chủ Tu Viện Quảng Đức Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng Trụ Trì Tu Viện Quảng Đức Đại Đức Thích Đăng Từ Tri Sự Tu Viện Quảng Đức Nguyên Dũng Phạm Thanh Hùng Gia Trưởng Gia Đình Phật Tử Quảng Đức Quảng Tịnh Nguyễn Kim Phương Ban Quảng Đức Đạo Ca
14/06/2021(Xem: 9702)
Cáo Bạch Tang Lễ Ni Trưởng Thích Nữ Diệu Tâm (vừa viên tịch tại Chùa Bảo Quang, Hamburg, Đức Quốc)
12/06/2021(Xem: 14867)
Viết về lịch sử của một Dân Tộc hay của các Tôn Giáo là cả một vấn đề khó khăn, đòi hỏi ở người viết phải am tường mọi dữ kiện, tham cứu nhiều sách vở hay là chứng nhân của lịch sử, mới mong khỏi có điều sai lệch, nên trước khi đặt bút viết quyển “Lịch sử Phật Giáo Việt Nam tại Hải Ngoại trước và sau năm 1975” chúng tôi đắn đo suy nghĩ rất nhiều...
05/06/2021(Xem: 4766)
Tôi gặp Đệ Quang Sơn lúc đang còn là chú Sa Di, nhân duyên ấy là từ nguồn Facebook, nên Huynh đệ có những lần đàm thoại. Xa vắng một khoảng thời gian Đệ Quang Sơn phải chuyên tâm Ôn Luật, để xứng danh là Hàng thích tử của Như Lai, dự vào ngôi nhà Tăng Bảo. Mãi đến năm 2018, tôi tình cờ gặp lại trong tang lễ của bố chị Thanh Lan ở phố cổ Hà Nội, lúc bấy giờ Huynh đệ thêm nhiều câu chuyện. Hôm ấy, vào mùa Hạ tháng nhuận năm Kỷ Hợi, huynh đệ về thăm chùa Kim Lôi- Thôn An Tiến,Xã An Ninh, Huyện Bình Lục- Tỉnh Hà Nam. Tôi lưu trú một đêm, nên huynh đệ đã tâm sự. Đệ bảo rằng:
29/05/2021(Xem: 3945)
Đệ Tử chúng con, hàng hậu học Tỳ Kheo Thích Minh Thế- Huế thuộc Môn Phong Tổ Đình Từ Hiếu, được nhân duyên diện kiến Ngài 3 lần, một lần Chùa Bát Nhã, Lúc ở Chùa Hải Quang, trong mùa Huý Kỵ Ngài Nhật Lệ. Năm 2007-2008,2009,2010. Hay tại Chùa Quảng Hương Già Lam, nhân Huý kỵ Tôn Sư Thượng Trí Hạ Thủ- 2012-2014, tất cả đều ở Sài Gòn. Diện kiến Ngài là một lần học được tâm hạnh Khiêm cung, luôn lấy pháp Mật chú mà gia trì. Lấy giới luật mà dụng tu, lấy công phu trì niệm Pháp Hoa, Sám Lễ, Trì Chú Niệm Phật A Di Đà, để Huân nhiên chủng tánh. Diện kiến Ngài lúc nào cũng có chiếc gậy bên mình, vì đôi chân có phần chưa tốt, nên từ đó Diện kiến Ngài là đều hi hữu. Ngài từng dạy tại Trường Bồ Đề, nơi trú xứ Buôn Ma Thuột, giữ những lời dạy sâu sắc, tiếp nối truyền thừa lưu lại đàn hậu tấn về sau, các vị được thọ ân từ Ngài, giờ này cũng chấp cánh bay xa bên xứ ngoài, hay trong xứ, làm niềm vui an tịnh cho chính mình ở Bồ đề Tại xứ Buôn Mê. Ngài từng ngồi hành pháp
25/05/2021(Xem: 9139)
Đã nhiều năm rồi, Phật Tử Việt Nam cử hành đại lễ trong niềm hân hoan tự hào về một ngày lễ Vesak trọng đại được xưng danh một cách trang trọng là "Đại Lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc." Phật giáo là một trong bốn tôn giáo lớn của nhân loại. Con số Phật Tử dù vậy cũng chỉ khoảng 400-600 triệu. Với con số khiêm nhường đó, tiếng nói của Phật giáo không có ảnh hưởng gì đáng kể trong các quyết định của Liên Hiệp Quốc về vận mạng của các dân tộc trên thế giới. Phật Tử Việt Nam chính thức đón nhận "Đại Lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc" từ năm 2008. Từ đó đến nay, những phát biểu bởi các đại biểu từ nhiều nước tán dương Đức Phật quả là quá nhiều, nhưng chưa có bất cứ đóng góp thiết thực đáng kể nào cho khát vọng hòa bình của nhiều dân tộc bị áp bức, bóc lột bởi chính quyền của nước mình; bị đe dọa bởi tham vọng bá quyền của nước lớn.
22/05/2021(Xem: 6384)
Trưởng lão Hòa thượng tân viên tịch thế danh Nguyễn Thanh Bình, sinh năm Tân Mùi (1931) tại thôn Mỹ Duyệt Hạ, xã Thanh Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Như Hưng, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Huấn, Trưởng lão Hòa thượng là con thứ hai trong bốn anh em (hai trai hai gái). Lúc lên 11 tuổi (1942), được sự cho phép của song thân, Hòa thượng đến chùa Đặng Lộc đảnh lễ ngài Hòa thượng Thích Định Tuệ xin được xuất gia và được bổn sư ban cho pháp danh Lệ Chân, pháp tự Thiện Hạnh.
16/05/2021(Xem: 12088)
Nhận xét rằng, Chúng ta đang đứng trước một khúc quanh gấp của lịch sử nhân loại. Đại dịch Covid-19 đã khép kín mỗi cá nhân trong một không gian chật hẹp, cách ly xã hội, cô lập cá nhân, cách ly cả những người thân yêu. Nó đã tạo ra những khủng hoảng tâm lý trầm trọng trong nhiều thành phần xã hội. Một số đông bị quẫn bức, không thể tự kềm chế, bỗng chốc trở thành con người bạo lực, gieo kinh hoàng cho xã hội. Một số khác, có lẽ là số ít, mà phần lớn trong đó là thanh thiếu niên, khởi đầu cũng chất đầy oán hận trong lòng, nhưng rồi trước ngưỡng sinh tử sự đại, tự mình phấn đấu tự kềm chế, cuối cùng đã khám phá chính mình, trong trình độ nào đó, với những giá trị nhân sinh chỉ có thể tìm thấy trong những cơn tư duy thầm lặng. Giá trị nhân sinh không thể tìm thấy bằng những cao trào kích động của tuổi trẻ. Thế hệ ấy sẽ làm thay đổi hướng đi của lịch sử Đông Tây qua hai nghìn năm kỷ nguyên văn minh Cơ-đốc, khi mà tín đồ có thể liên hệ trực tiếp với đấng Chí Tôn của mình qua mạng truyền
30/04/2021(Xem: 6912)
Thiền Uyển Tập Anh chép Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933 – 1011) tu ở chùa Phật Đà, Thường Lạc nay là chùa Đại Bi núi Vệ Linh Sóc Sơn, Hà Nội. Ngài thuộc thế hệ thứ 4 Thiền phái Vô Ngôn Thông. Ngài người hương Cát Lợi huyện Thường Lạc, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế (Ngô Quyền). Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, Thiền sư Ngô Chân Lưu tên huý là Xương Tỷ, anh trai Thái tử - Sứ quân Ngô Xương Xý, con Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, cháu đích tôn của Ngô Vương Quyền. Ngài dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tánh tình phóng khoáng chí khí cao xa, có duyên với cửa Thiền từ năm 11 tuổi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]