Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển 338: Phẩm Học Phương Tiện Thiện Xảo 02

13/07/201522:28(Xem: 15183)
Quyển 338: Phẩm Học Phương Tiện Thiện Xảo 02

Tập 07

 Quyển 338

Phẩm Học Phương Tiện Thiện Xảo 02

Bản dịch của HT Thích Trí Nghiêm
Diễn đọc: Cư Sĩ Chánh Trí



 

Lúc bấy giờ, A-nan bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ở chung như thế nào?

Phật dạy:

- Này A-nan! Đại Bồ-tát ở chung, nên xem nhau như Đại sư. Vì sao? Vì các Đại Bồ-tát lần lượt trông coi nhau, nên nghĩ thế này: Vị ấy là thiện tri thức chơn thật của chúng ta, cùng ta làm bạn, cùng đi trên một con thuyền. Chỗ học, thời gian học và pháp học của chúng ta và vị ấy, tất cả đều không khác. Như vị ấy phải học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ta cũng phải học. Như vị ấy phải học pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, ta cũng phải học. Như vị ấy phải học chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, ta cũng phải học. Như vị ấy phải học Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, ta cũng phải học. Như vị ấy phải học bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, ta cũng phải học. Như vị ấy phải học tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, ta cũng phải học. Như vị ấy phải học bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, ta cũng phải học. Như vị ấy phải học pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, ta cũng phải học. Như vị ấy phải học mười địa Bồ-tát, ta cũng phải học. Như vị ấy phải học năm loại mắt, sáu phép thần thông, ta cũng phải học. Như vị ấy phải học mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, ta cũng phải học. Như vị ấy phải học pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, ta cũng phải học. Như vị ấy phải học pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa, ta cũng phải học. Như vị ấy phải học nghiêm tịnh cõi Phật, thành thục hữu tình, ta cũng phải học. Như vị ấy phải học trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, ta cũng phải học. Lại nghĩ thế này: Các Đại Bồ-tát ấy vì chúng ta nói đạo đại Bồ-đề, tức là bạn chơn chánh của ta, cũng là thầy ta. Nếu Đại Bồ-tát ấy an trụ tác ý tạp loạn, xa lìa tác ý tương ưng trí nhất thiết trí, thì ta chẳng cùng học với vị ấy. Nếu Đại Bồ-tát ấy lìa tác ý tạp loạn, chẳng rời tác ý tương ưng trí nhất thiết trí, thì ta luôn luôn cùng học với vị ấy.

A-nan nên biết, nếu các chúng Đại Bồ-tát luôn luôn học như thế, thì tư lương Bồ-đề mau được viên mãn. Nếu chúng Đại Bồ-tát khi học như thế thì gọi là học bình đẳng.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát mà các Đại Bồ-tát đối với pháp ấy phải học, nên gọi là học bình đẳng?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Pháp không nội, là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát; pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát. Các Đại Bồ-tát đối với pháp ấy phải học, nên gọi là học bình đẳng. Do học bình đẳng, nên mau chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc và tự tánh không của sắc là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát; thọ, tưởng, hành, thức và tự tánh không của thọ, tưởng, hành, thức là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát. Các Đại Bồ-tát đối với pháp ấy phải học, nên gọi là học bình đẳng. Do học bình đẳng, nên mau chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nhãn xứ và tự tánh không của nhãn xứ là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ và tự tánh không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát. Các Đại Bồ-tát đối với pháp ấy phải học, nên gọi là học bình đẳng. Do học bình đẳng, nên mau chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc xứ và tự tánh không của sắc xứ là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ và tự tánh không của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát. Các Đại Bồ-tát đối với pháp ấy phải học, nên gọi là học bình đẳng. Do học bình đẳng, nên mau chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nhãn giới và tự tánh không của nhãn giới là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới và tự tánh không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát. Các Đại Bồ-tát đối với pháp ấy phải học, nên gọi là học bình đẳng. Do học bình đẳng, nên mau chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sắc giới và tự tánh không của sắc giới là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát; thanh, hương, vị, xúc, pháp giới và tự tánh không của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát. Các Đại Bồ-tát đối với pháp ấy phải học, nên gọi là học bình đẳng. Do học bình đẳng, nên mau chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nhãn thức giới và tự tánh không của nhãn thức giới là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới và tự tánh không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát. Các Đại Bồ-tát đối với pháp ấy phải học, nên gọi là học bình đẳng. Do học bình đẳng, nên mau chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nhãn xúc và tự tánh không của nhãn xúc là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc và tự tánh không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát. Các Đại Bồ-tát đối với pháp ấy phải học, nên gọi là học bình đẳng. Do học bình đẳng, nên mau chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra và tự tánh không của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát; các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra và tự tánh không của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát. Các Đại Bồ-tát đối với pháp ấy phải học, nên gọi là học bình đẳng. Do học bình đẳng, nên mau chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Địa giới và tự tánh không của địa giới là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát; thủy, hỏa, phong, không, thức giới và tự tánh không của thủy, hỏa, phong, không, thức giới là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát. Các Đại Bồ-tát đối với pháp ấy phải học, nên gọi là học bình đẳng. Do học bình đẳng, nên mau chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Vô minh và tự tánh không của vô minh là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử và tự tánh không của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát. Các Đại Bồ-tát đối với pháp ấy phải học, nên gọi là học bình đẳng. Do học bình đẳng, nên mau chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bố thí Ba-la-mật-đa và tự tánh không của bố thí Ba-la-mật-đa là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa và tự tánh không của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát. Các Đại Bồ-tát đối với pháp ấy phải học, nên gọi là học bình đẳng. Do học bình đẳng, nên mau chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Pháp không nội và tự tánh không của pháp không nội là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát; pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh và tự tánh không của pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát. Các Đại Bồ-tát đối với pháp ấy phải học, nên gọi là học bình đẳng. Do học bình đẳng, nên mau chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Chơn như và tự tánh không của chơn như là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát; pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì và tự tánh không của pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát. Các Đại Bồ-tát đối với pháp ấy phải học, nên gọi là học bình đẳng. Do học bình đẳng, nên mau chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Thánh đế khổ và tự tánh không của Thánh đế khổ là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát. Thánh đế tập, diệt, đạo và tự tánh không của Thánh đế tập, diệt, đạo là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát. Các Đại Bồ-tát đối với pháp ấy phải học, nên gọi là học bình đẳng. Do học bình đẳng, nên mau chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bốn tịnh lự và tự tánh không của bốn tịnh lự là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát; bốn vô lượng, bốn định vô sắc và tự tánh không của bốn vô lượng, bốn định vô sắc là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát. Các Đại Bồ-tát đối với pháp ấy phải học, nên gọi là học bình đẳng. Do học bình đẳng, nên mau chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tám giải thoát và tự tánh không của tám giải thoát là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ và tự tánh không của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát. Các Đại Bồ-tát đối với pháp ấy phải học, nên gọi là học bình đẳng. Do học bình đẳng, nên mau chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bốn niệm trụ và tự tánh không của bốn bốn niệm trụ là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo và tự tánh không của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát. Các Đại Bồ-tát đối với pháp ấy phải học, nên gọi là học bình đẳng. Do học bình đẳng, nên mau chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Pháp môn giải thoát không và tự tánh không của pháp môn giải thoát không là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện và tự tánh không của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát. Các Đại Bồ-tát đối với pháp ấy phải học, nên gọi là học bình đẳng. Do học bình đẳng, nên mau chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bậc Cực hỷ và tự tánh không của bậc Cực hỷ là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát; bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân và tự tánh không của bậc Ly cấu, bậc Phát quang, bậc Diệm tuệ, bậc Cực nan thắng, bậc Hiện tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất động, bậc Thiện tuệ, bậc Pháp vân là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát. Các Đại Bồ-tát đối với pháp ấy phải học, nên gọi là học bình đẳng. Do học bình đẳng, nên mau chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Năm loại mắt và tự tánh không của năm loại mắt là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát, sáu phép thần thông và tự tánh không của sáu phép thần thông là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát. Các Đại Bồ-tát đối với pháp ấy phải học, nên gọi là học bình đẳng. Do học bình đẳng, nên mau chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Mười lực Phật và tự tánh không của mười lực Phật là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng và tự tánh không của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát. Các Đại Bồ-tát đối với pháp ấy phải học, nên gọi là học bình đẳng. Do học bình đẳng, nên mau chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Pháp không quên mất và tự tánh không của pháp không quên mất là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát; tánh luôn luôn xả và tự tánh không của tánh luôn luôn xả là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát. Các Đại Bồ-tát đối với pháp ấy phải học, nên gọi là học bình đẳng. Do học bình đẳng, nên mau chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Trí nhất thiết và tự tánh không của trí nhất thiết là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát; trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng và tự tánh không của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát. Các Đại Bồ-tát đối với pháp ấy phải học, nên gọi là học bình đẳng. Do học bình đẳng, nên mau chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả pháp môn Đà-la-ni và tự tánh không của tất cả pháp môn Đà-la-ni là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát; tất cả pháp môn Tam-ma-địa và tự tánh không của tất cả pháp môn Tam-ma-địa là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát. Các Đại Bồ-tát đối với pháp ấy phải học, nên gọi là học bình đẳng. Do học bình đẳng, nên mau chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Quả Dự lưu và tự tánh không của quả Dự lưu là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát; quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán và tự tánh không của quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát. Các Đại Bồ-tát đối với pháp ấy phải học, nên gọi là học bình đẳng. Do học bình đẳng, nên mau chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Quả vị Độc-giác và tự tánh không của quả vị Độc-giác là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát. Các Đại Bồ-tát đối với pháp ấy phải học, nên gọi là học bình đẳng. Do học bình đẳng, nên mau chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tất cả hạnh Đại Bồ-tát và tự tánh không của tất cả hạnh Đại Bồ-tát là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát. Các Đại Bồ-tát đối với pháp ấy phải học, nên gọi là học bình đẳng. Do học bình đẳng, nên mau chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Lại nữa, Thiện Hiện! Quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật và tự tánh không của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật là tánh bình đẳng của Đại Bồ-tát. Các Đại Bồ-tát đối với pháp ấy phải học, nên gọi là học bình đẳng. Do học bình đẳng, nên mau chứng quả vị giác ngộ cao tột.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát vì sự tận của sắc mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự tận của thọ, tưởng, hành, thức mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự ly của sắc mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự ly của thọ, tưởng, hành, thức mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt của sắc mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt của thọ, tưởng, hành, thức mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự vô sanh của sắc mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự vô sanh của thọ, tưởng, hành, thức mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự vô diệt của sắc mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự vô diệt của thọ, tưởng, hành, thức mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tịnh của sắc mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tịnh của thọ, tưởng, hành, thức mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của sắc mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của thọ, tưởng, hành, thức mà học, là học trí nhất thiết trí chăng?

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát vì sự tận của nhãn xứ mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự tận của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự ly của nhãn xứ mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự ly của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt của nhãn xứ mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự vô sanh của nhãn xứ mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự vô sanh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự vô diệt của nhãn xứ mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự vô diệt của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tịnh của nhãn xứ mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của nhãn xứ mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ mà học, là học trí nhất thiết trí chăng?

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát vì sự tận của sắc xứ mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự tận của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự ly của sắc xứ mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự ly của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt của sắc xứ mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự vô sanh của sắc xứ mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự vô sanh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự vô diệt của sắc xứ mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự vô diệt của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tịnh của sắc xứ mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tịnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của sắc xứ mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ mà học, là học trí nhất thiết trí chăng?

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát vì sự tận của nhãn giới mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự tận của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự ly của nhãn giới mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự ly của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt của nhãn giới mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự vô sanh của nhãn giới mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự vô sanh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự vô diệt của nhãn giới mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự vô diệt của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tịnh của nhãn giới mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của nhãn giới mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới mà học, là học trí nhất thiết trí chăng?

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát vì sự tận của sắc giới mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự tận của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự ly của sắc giới mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự ly của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt của sắc giới mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự vô sanh của sắc giới mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự vô sanh của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự vô diệt của sắc giới mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự vô diệt của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tịnh của sắc giới mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tịnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của sắc giới mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới mà học, là học trí nhất thiết trí chăng?

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát vì sự tận của nhãn thức giới mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự tận của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự ly của nhãn thức giới mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự ly của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt của nhãn thức giới mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự vô sanh của nhãn thức giới mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự vô sanh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự vô diệt của nhãn thức giới mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự vô diệt của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tịnh của nhãn thức giới mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của nhãn thức giới mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới mà học, là học trí nhất thiết trí chăng?

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát vì sự tận của nhãn xúc mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự tận của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự ly của nhãn xúc mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự ly của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt của nhãn xúc mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự vô sanh của nhãn xúc mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự vô sanh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự vô diệt của nhãn xúc mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự vô diệt của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tịnh của nhãn xúc mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của nhãn xúc mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc mà học, là học trí nhất thiết trí chăng?

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát vì sự tận của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự tận của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự ly của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự ly của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự vô sanh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự vô sanh của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự vô diệt của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự vô diệt của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tịnh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tịnh của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra mà học, là học trí nhất thiết trí chăng?

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát vì sự tận của địa giới mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự tận của thủy, hỏa, phong, không, thức giới mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự ly của địa giới mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự ly của thủy, hỏa, phong, không, thức giới mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt của địa giới mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt của thủy, hỏa, phong, không, thức giới mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự vô sanh của địa giới mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự vô sanh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự vô diệt của địa giới mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự vô diệt của thủy, hỏa, phong, không, thức giới mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tịnh của địa giới mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tịnh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của địa giới mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của thủy, hỏa, phong, không, thức giới mà học, là học trí nhất thiết trí chăng?

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát vì sự tận của vô minh mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự tận của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự ly của vô minh mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự ly của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt của vô minh mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự vô sanh của vô minh mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự vô sanh của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự vô diệt của vô minh mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự vô diệt của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tịnh của vô minh mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tịnh của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của vô minh mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử mà học, là học trí nhất thiết trí chăng?

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát vì sự tận của bố thí Ba-la-mật-đa mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự tận của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự ly của bố thí Ba-la-mật-đa mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự ly của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt của bố thí Ba-la-mật-đa mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự vô sanh của bố thí Ba-la-mật-đa mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự vô sanh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự vô diệt của bố thí Ba-la-mật-đa mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự vô diệt của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tịnh của bố thí Ba-la-mật-đa mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tịnh của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của bố thí Ba-la-mật-đa mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa mà học, là học trí nhất thiết trí chăng?

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát vì sự tận của pháp không nội mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự tận của pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự ly của pháp không nội mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự ly của pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt của pháp không nội mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt của pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự vô sanh của pháp không nội mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự vô sanh của pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự vô diệt của pháp không nội mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự vô diệt của pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tịnh của pháp không nội mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tịnh của pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của pháp không nội mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh mà học, là học trí nhất thiết trí chăng?

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát vì sự tận của chơn như mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự tận của pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự ly của chơn như mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự ly của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt của chơn như mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự vô sanh của chơn như mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự vô sanh của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự vô diệt của chơn như mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự vô diệt của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tịnh của chơn như mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tịnh của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của chơn như mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì mà học, là học trí nhất thiết trí chăng?

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát vì sự tận của Thánh đế khổ mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự tận của Thánh đế tập, diệt, đạo mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự ly của Thánh đế khổ mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự ly của Thánh đế tập, diệt, đạo mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt của Thánh đế khổ mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt của Thánh đế tập, diệt, đạo mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự vô sanh của Thánh đế khổ mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự vô sanh của Thánh đế tập, diệt, đạo mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự vô diệt của Thánh đế khổ mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự vô diệt của Thánh đế tập, diệt, đạo mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tịnh của Thánh đế khổ mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tịnh của Thánh đế tập, diệt, đạo mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của Thánh đế khổ mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của Thánh đế tập, diệt, đạo mà học, là học trí nhất thiết trí chăng?

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát vì sự tận của bốn tịnh lự mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự tận của bốn vô lượng, bốn định vô sắc mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự ly của bốn tịnh lự mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự ly của bốn vô lượng, bốn định vô sắc mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt của bốn tịnh lự mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt của bốn vô lượng, bốn định vô sắc mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự vô sanh của bốn tịnh lự mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự vô sanh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự vô diệt của bốn tịnh lự mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự vô diệt của bốn vô lượng, bốn định vô sắc mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tịnh của bốn tịnh lự mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tịnh của bốn vô lượng, bốn định vô sắc mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của bốn tịnh lự mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của bốn vô lượng, bốn định vô sắc mà học, là học trí nhất thiết trí chăng?

Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ-tát vì sự tận của tám giải thoát mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự tận của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự ly của tám giải thoát mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự ly của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự diệt của tám giải thoát mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự diệt của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự vô sanh của tám giải thoát mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự vô sanh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì sự vô diệt của tám giải thoát mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì sự vô diệt của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì bản lai tịch tịnh của tám giải thoát mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì bản lai tịch tịnh của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Nếu Đại Bồ-tát vì tự tánh Niết-bàn của tám giải thoát mà học, là học trí nhất thiết trí chăng? Vì tự tánh Niết-bàn của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mà học, là học trí nhất thiết trí chăng?

Quyển thứ 338

Hết

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/06/2021(Xem: 9247)
Mười tuổi không may mất mẹ cha Cư tang hiếu kính vẹn tình nhà Ân sâu dốc trả tâm quy đạo Nghĩa nặng mong đền chí xuất gia Phật Pháp tinh thông an lạc hiện Thiền Kinh quảng lãm não phiền xa An Ban Thủ Ý vui nguồn sống Lục Độ Tập Kinh toả đức hoà.
15/06/2021(Xem: 4446)
Tán Thán Công Hạnh Tôn Sư Thành Kính Tưởng Niệm Cố Thượng Toạ thượng Chơn hạ Kiến. Kính nguyện Giác Linh Thượng Toạ Cao Đăng Phật Quốc. Vạn Đức già lam nhập đạo thiền Tinh cần sớm tối học kinh thiêng Đèn tâm chiếu sáng thơm hương giới Đuốc tuệ ngời soi toả đức nguyền Chơn Kiến suy tầm chân diện mục Ẩn Minh hiển thị diệu tâm nguyên Hoằng dương giáo pháp noi gương tổ Hoá độ sinh linh, độ chúng duyên.
14/06/2021(Xem: 8178)
Điện Thư Phân Ưu Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật Thay mặt Tu Viện Quảng Đức & Trang Nhà Quảng Đức chúng con thành tâm phân ưu: Hòa Thượng Thích Bổn Đạt (Bổn Sư của TT Nguyên Mãn) Giáo Hội Canada cùng môn nhơn pháp quyến Chùa Long Hoa, Toronto, Canada. Nhất tâm cầu nguyện Giác Linh Thượng Tọa Thích Nguyên Mãn Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Kinh Tế-Tài Chánh Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Canada Trụ Trì Chùa Long Hoa, Toronto, Canada Thuận thế vô thường viên tịch vào ngày 5/6/2021 (25/4/Tân Sửu) tại Canada Trụ thế : 75 năm ; 25 Hạ lạp CAO ĐĂNG PHẬT QUỐC *** Nay Thành kính Phân Ưu Thượng Tọa Thích Tâm Phương Viện Chủ Tu Viện Quảng Đức Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng Trụ Trì Tu Viện Quảng Đức Đại Đức Thích Đăng Từ Tri Sự Tu Viện Quảng Đức Nguyên Dũng Phạm Thanh Hùng Gia Trưởng Gia Đình Phật Tử Quảng Đức Quảng Tịnh Nguyễn Kim Phương Ban Quảng Đức Đạo Ca
14/06/2021(Xem: 9819)
Cáo Bạch Tang Lễ Ni Trưởng Thích Nữ Diệu Tâm (vừa viên tịch tại Chùa Bảo Quang, Hamburg, Đức Quốc)
12/06/2021(Xem: 15324)
Viết về lịch sử của một Dân Tộc hay của các Tôn Giáo là cả một vấn đề khó khăn, đòi hỏi ở người viết phải am tường mọi dữ kiện, tham cứu nhiều sách vở hay là chứng nhân của lịch sử, mới mong khỏi có điều sai lệch, nên trước khi đặt bút viết quyển “Lịch sử Phật Giáo Việt Nam tại Hải Ngoại trước và sau năm 1975” chúng tôi đắn đo suy nghĩ rất nhiều...
05/06/2021(Xem: 4840)
Tôi gặp Đệ Quang Sơn lúc đang còn là chú Sa Di, nhân duyên ấy là từ nguồn Facebook, nên Huynh đệ có những lần đàm thoại. Xa vắng một khoảng thời gian Đệ Quang Sơn phải chuyên tâm Ôn Luật, để xứng danh là Hàng thích tử của Như Lai, dự vào ngôi nhà Tăng Bảo. Mãi đến năm 2018, tôi tình cờ gặp lại trong tang lễ của bố chị Thanh Lan ở phố cổ Hà Nội, lúc bấy giờ Huynh đệ thêm nhiều câu chuyện. Hôm ấy, vào mùa Hạ tháng nhuận năm Kỷ Hợi, huynh đệ về thăm chùa Kim Lôi- Thôn An Tiến,Xã An Ninh, Huyện Bình Lục- Tỉnh Hà Nam. Tôi lưu trú một đêm, nên huynh đệ đã tâm sự. Đệ bảo rằng:
29/05/2021(Xem: 4043)
Đệ Tử chúng con, hàng hậu học Tỳ Kheo Thích Minh Thế- Huế thuộc Môn Phong Tổ Đình Từ Hiếu, được nhân duyên diện kiến Ngài 3 lần, một lần Chùa Bát Nhã, Lúc ở Chùa Hải Quang, trong mùa Huý Kỵ Ngài Nhật Lệ. Năm 2007-2008,2009,2010. Hay tại Chùa Quảng Hương Già Lam, nhân Huý kỵ Tôn Sư Thượng Trí Hạ Thủ- 2012-2014, tất cả đều ở Sài Gòn. Diện kiến Ngài là một lần học được tâm hạnh Khiêm cung, luôn lấy pháp Mật chú mà gia trì. Lấy giới luật mà dụng tu, lấy công phu trì niệm Pháp Hoa, Sám Lễ, Trì Chú Niệm Phật A Di Đà, để Huân nhiên chủng tánh. Diện kiến Ngài lúc nào cũng có chiếc gậy bên mình, vì đôi chân có phần chưa tốt, nên từ đó Diện kiến Ngài là đều hi hữu. Ngài từng dạy tại Trường Bồ Đề, nơi trú xứ Buôn Ma Thuột, giữ những lời dạy sâu sắc, tiếp nối truyền thừa lưu lại đàn hậu tấn về sau, các vị được thọ ân từ Ngài, giờ này cũng chấp cánh bay xa bên xứ ngoài, hay trong xứ, làm niềm vui an tịnh cho chính mình ở Bồ đề Tại xứ Buôn Mê. Ngài từng ngồi hành pháp
25/05/2021(Xem: 9255)
Đã nhiều năm rồi, Phật Tử Việt Nam cử hành đại lễ trong niềm hân hoan tự hào về một ngày lễ Vesak trọng đại được xưng danh một cách trang trọng là "Đại Lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc." Phật giáo là một trong bốn tôn giáo lớn của nhân loại. Con số Phật Tử dù vậy cũng chỉ khoảng 400-600 triệu. Với con số khiêm nhường đó, tiếng nói của Phật giáo không có ảnh hưởng gì đáng kể trong các quyết định của Liên Hiệp Quốc về vận mạng của các dân tộc trên thế giới. Phật Tử Việt Nam chính thức đón nhận "Đại Lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc" từ năm 2008. Từ đó đến nay, những phát biểu bởi các đại biểu từ nhiều nước tán dương Đức Phật quả là quá nhiều, nhưng chưa có bất cứ đóng góp thiết thực đáng kể nào cho khát vọng hòa bình của nhiều dân tộc bị áp bức, bóc lột bởi chính quyền của nước mình; bị đe dọa bởi tham vọng bá quyền của nước lớn.
22/05/2021(Xem: 6476)
Trưởng lão Hòa thượng tân viên tịch thế danh Nguyễn Thanh Bình, sinh năm Tân Mùi (1931) tại thôn Mỹ Duyệt Hạ, xã Thanh Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Như Hưng, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Huấn, Trưởng lão Hòa thượng là con thứ hai trong bốn anh em (hai trai hai gái). Lúc lên 11 tuổi (1942), được sự cho phép của song thân, Hòa thượng đến chùa Đặng Lộc đảnh lễ ngài Hòa thượng Thích Định Tuệ xin được xuất gia và được bổn sư ban cho pháp danh Lệ Chân, pháp tự Thiện Hạnh.
16/05/2021(Xem: 12419)
Nhận xét rằng, Chúng ta đang đứng trước một khúc quanh gấp của lịch sử nhân loại. Đại dịch Covid-19 đã khép kín mỗi cá nhân trong một không gian chật hẹp, cách ly xã hội, cô lập cá nhân, cách ly cả những người thân yêu. Nó đã tạo ra những khủng hoảng tâm lý trầm trọng trong nhiều thành phần xã hội. Một số đông bị quẫn bức, không thể tự kềm chế, bỗng chốc trở thành con người bạo lực, gieo kinh hoàng cho xã hội. Một số khác, có lẽ là số ít, mà phần lớn trong đó là thanh thiếu niên, khởi đầu cũng chất đầy oán hận trong lòng, nhưng rồi trước ngưỡng sinh tử sự đại, tự mình phấn đấu tự kềm chế, cuối cùng đã khám phá chính mình, trong trình độ nào đó, với những giá trị nhân sinh chỉ có thể tìm thấy trong những cơn tư duy thầm lặng. Giá trị nhân sinh không thể tìm thấy bằng những cao trào kích động của tuổi trẻ. Thế hệ ấy sẽ làm thay đổi hướng đi của lịch sử Đông Tây qua hai nghìn năm kỷ nguyên văn minh Cơ-đốc, khi mà tín đồ có thể liên hệ trực tiếp với đấng Chí Tôn của mình qua mạng truyền
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]