Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

47. Nét bút bên song cửa (Thích Nữ Giới Hương)

17/06/201408:13(Xem: 19485)
47. Nét bút bên song cửa (Thích Nữ Giới Hương)

Kính dâng lên Hòa Thượng Phương Trượng Chùa Viên Giác

nhân dịp Kỷ Niệm Sinh Nhật 66 tuổi và 50 năm Xuất Gia & Hành Đạo của ngài.

Vào một buổi sáng thật đẹp trời của ngày 26 tháng 11 năm 2012, phái đoàn nhỏ của chúng tôi gồm Thượng Tọa Quảng Đạo (Chùa Khánh Anh, Pháp Quốc), tôi (Chùa Hương Sen, Hoa Kỳ) và vài nam nữ Phật tử nữa được Thượng Tọa Phổ Huân (Trụ trì chùa Pháp Bảo, Sydneys) đưa lên viếng cơ sở thứ hai của chùa Pháp Bảo là Tu viện Đa Bảo, tiểu Bang New South Wales, Úc Châu, và thăm Hòa Thượng Phương Trượng Chùa Viên Giác, Đức Quốc, đang nhập thất tại đây.

blank

HT Như Điển (chính giữa), TT Phổ Huân (bên trái),

TT Quảng Đạo (phải), tác giả (đứng bên trái)

Được biết Hòa Thượng Bảo Lạc và Hòa Thượng Như Điển là anh em trong một gia đình, từ nhân duyên Hòa Thượng Như Điển giới thiệu và Hội Phật Giáo Việt Nam tại NSW bảo lãnh, nên HT Bảo Lạc từ Nhật Bản đến định cư và hoằng pháp tại Úc Châu. Thường mỗi năm một lần (trong 10 năm qua), HT Như Điển về tu viện Đa Bảo nhập thất sáng tác dịch thuật và tịnh tu ba tháng và năm 2012 này cũng thế.

Chùa Đa Bảo rộng 11 mẫu tọa lạc trong một khu núi đồi yên tĩnh của thành phố Lithgow, NSW. Vào tiết trời cuối năm lành lạnh, nhiều hoa rừng cũng đang nở nộ điểm sắc. Vào thăm thiền thất, được Hòa Thượng Phương Trượng chùa Viên Giác chia sẻ thời khóa biểu của ngài là mỗi ngày sau thời công phu khuya và điểm tâm, ngài đi chấp tác làm cỏ, tưới cây và sau đó là viết lách sáng tác. Chúng tôi thấy bên song cửa sổ của thiền thất có một chiếc bàn đơn sơ với vài cuốn tập viết tay.

Được biết Hòa Thượng đang cùng với Hòa Thượng Bảo Lạc cộng tác viết cuốn hồi ký “Hương Lúa Chùa Quê” (tựa đề rất nhẹ nhàng và thân thiết). Những nét chữ viết tay bằng bút nguyên tử xanh của Hòa Thượng rất đều đặn và trôi chảy theo dòng tư tưởng của ngài. Những gì ngài nghĩ và viết ra hầu như đều giữ nguyên như vậy, chỉ thỉnh thoảng mới có vài chữ được sữa lại bằng bút nguyên tử đỏ. Điều này chứng tỏ khả năng ngữ văn và Việt văn của ngài rất thuần thục, tự tâm hình thành sáng tạo những ý tứ, bố cục bên trong và ngài chỉ viết ra bản thảo để thư ký đánh máy và in thành sách thôi. Trong tập bản thảo “Hương Lúa Chùa Quê” (trang 9) trên bàn, HT Như Điển viết: “Địa linh nhân kiệt... Từ năm 1940-1960 có nhiều thuyền buôn tấp nập từ Nhật Bản, Trung Hoa, Ấn Độ, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hòa Lan, Pháp và Ý, v.v… đến cửa biển Hội An để mậu dịch… Từ thời Vua Lê Chúa Trịnh đến nay suốt trên 400 năm đã có biết bao nhiêu người đã đến và cũng có biết bao nhiêu người đã ra đi và cũng không ít những người đã nằm xuống tại thành phố Hội An này…”. Và có nhiều ý tưởng chia sẻ khác nữa, Hòa Thượng đã giới thiệu cho chúng ta biết được cuộc sống xưa kia và hiện nay nơi thành phố cổ Hội An. Qua tác phẩm “Hương Lúa Chùa Quê”, chúng ta như biết được một cuộc sống trong mơ ước của từng con người Việt Nam. Nét bút của ngài đã tạo ra sự sống trôi chảy và khơi dậy những xúc cảm cao thượng trong mỗi chúng ta.

Chẳng những một cuốn “Hương Lúa Quê Tôi”, Hòa Thượng đã sáng tác và dịch thuật trên 60 đầu sách rồi (vẫn còn tiếp tục mỗi năm) như: Truyện Cổ Việt Nam, Giọt Mưa Đầu Hạ, Ngỡ Ngàng, Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại, Cuộc Đời Người Tăng Sĩ, Lễ nhạc Phật Giáo, Tình Đời Nghĩa Đạo, Tìm Hiểu Giáo Lý Phật Giáo, Đời Sống Tinh Thần của Phật Tử Việt Nam tại Ngoại Quốc, Đường Không Biên Giới, Hình Ảnh 10 Năm Sinh Hoạt Phật Giáo Việt Nam tại Tây Đức, Lòng Từ Đức Phật, Giữa Chốn Cung Vàng, Chùa Viên Giác, Vụ Án Một Người Tu, Phật Giáo và Con Người, Sống và Chết theo Quan Niệm của Phật Giáo, Tiếp Kiến với Đức Đạt Lai Lạt Ma, Vọng Cố Nhân Lầu, Có và Không, Bhutan Có Gì Lạ, Cảm Tạ Nước Đức, Những Đoản Văn Viết trong 25 Năm Qua, Làm Thế Nào để Trở Thành Một Người Tốt, Dưới Cội Bồ Đề, Giai Nhân và Hòa Thượng, Phật Giáo và Khoa Học, Chuyện Tình của Liên Hoa Hòa Thượng, Tư Tưởng Tịnh Độ Tông, Dưới Bóng Đa Chùa Viên Giác, v.v… (xin xem: http://viengiac.de/). Đây là những di sản tinh thần của Hòa Thượng. Đây là cả một kho tàng đạo đức Phật giáo, và là cái nhìn rất riêng của Hòa Thượng về triết lý nhân sinh trong xã hội đương thời và với chính bản thân.

Tấm lòng vô bờ của Hòa Thượng không chỉ hôm qua mà hôm nay và cả ngày mai nữa đã gói ghém gửi vào trong 60 tác phẩm này là cả một kinh nghiệm tu tập, nhận thức xã hội, niềm tin và lý tưởng, quan tâm Phật giáo đồ, gợi ý khuyến khích hướng thiện, chân thành ứng dụng lời Phật dạy trong hạnh tự giác và giác tha... Cho nên, thế hệ hôm nay và mai sau muốn biết thầy tổ, các bậc tiền bối của chúng ta đã sống tu tập và hoằng pháp trong bối cảnh hải ngoại khó khăn hay thuận lợi như thế nào thì rất cần đọc những nét bút bên song cửa này.

Trong thế giới hiện nay, có những ngòi bút chỉ tìm vinh thân ích kỷ cá nhân trên trang giấy, có những ngòi bút được dùng làm vũ khí để tranh quyền đoạt lợi theo những cám dỗ thất tình lục dục bên ngoài, thì nét bút bên song cửa nhà chùa lại càng cần thiết. Tiếp xúc với nét bút của các bậc Long Tượng Phật Pháp trong thời hiện đại, chúng ta có điều kiện giao lưu tiếp xúc với những giá trị tinh thần nhân văn, nhân bản cao thượng, những lý tưởng tinh tế sâu sắc của đạo Phật, những chí nguyện phụng sự trên cầu thành Phật, dưới giúp chúng sanh. Những khoảnh khắc đó thật đáng quí cho chúng ta phát huy năng lực, chủng tử và sứ mệnh của bậc xuất trần thượng sĩ.

blankblank

















Nét bút bên song cửa Tu

Viện Đa Bảo, Lithgow, NSW.

Bút ký của HT Như Điển, ngày 23/11/2012




Nam Mô Thập Chủng Đại Nguyện Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát tác đại chứng minh.

Con thành tâm kính lạy,

Thích Nữ Giới Hương

Thư phòng Chùa Hương Sen,

ngày 06 tháng 05 năm 2014

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/06/2011(Xem: 6014)
Trận chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Vương Quyền năm 939 là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử dựng nước của Việt Nam. Ngọn sóng Bạch Đằng Giang đã cuốn trôi đi nỗi đau nhục của người dân nô lệ, nhận chìm tham vọng của nòi Hán áp đặt lên đất nước ta trong suốt một ngàn năm. Từ đây Việt Nam không còn là một huyện lỵ của người Hán, từ đây một quốc gia đúng nghĩa đã xuất hiện dưới vòm trời Đông Á.
24/06/2011(Xem: 8399)
Ngài họ Nguyễn húy là Hữu Kê, dòng họ của Đại thần Nguyễn Trãi. Nguyên quán thuộc Tông sơn Gia miêu Ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa. Ngài thọ sanh năm Nhâm Tý (1912), tại làng Nguyệt Biều, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Vốn thọ sanh trong gia đình vọng tộc, quý phái, thích lý luận Nguyễn Hữu Độ.
24/06/2011(Xem: 5448)
Ngài Mật Thể, pháp danh Tâm Nhất, pháp tự Mật Thể, tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 ở làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, thuộc dòng Thích Lý của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài qui hướng đạo Phật, cụ thân sinh và người anh ruột đều xuất gia.
23/06/2011(Xem: 5913)
Đọc Thánh Đăng Ngữ Lục, do Sa môn Tánh Quảng, Thích Điều Điều đề tựa trùng khắc, tái bản năm 1750, ta thấy đời Trần có năm nhà vua ngoài việc chăn dân, họ còn học Phật, tu tập và đạt được yếu chỉ của thiền, như vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông. Và sự chứng ngộ của các Thiền sư đời Trần thì không thấy đề cập ở sách ấy, hoặc có đề cập ở những tư liệu khác mà hiện nay ta chưa phát hiện được, hoặc phát hiện thì cũng phải tra cứu và luận chứng dài dòng rồi mới kết đoán ra được.
23/06/2011(Xem: 6882)
Đọc sử Phật giáo Việt Nam, hẳn chúng ta đều biết nước mình có một ông vua đi tu ngộ đạo, đó là vua Trần Nhân Tông. Ngài làm vua trong thời gian nước nhà đang bị quân Mông Cổ đem đại quân sang xâm lấn nước ta lần thứ ba.
22/06/2011(Xem: 7593)
Trong sáu thập niên qua, TIME đã không ngừng ghi chép lại những vinh quang cùng khổ nhọc của Á châu. Trong số đặc biệt kỷ niệm thường niên hôm nay, chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng của mình đến những nhân vật nổi bật đã góp phần vào việc hình thành nên thời đại chúng ta. Những thập niên xáo động nhất của một lục địa đông dân nhất trên trái đất này đã sản sinh ra hàng loạt những nhân vật kiệt xuất. Trong sáu mươi năm qua, kể từ khi TIME bắt đầu cho xuất bản ấn bản Á Châu, chúng tôi đã có cái đặc ân là được gặp gỡ đa số những nhân vật ngoại hạng này –theo dấu cuộc vận động hay trên chiến trường, trong phòng hội hay trong phòng thí nghiệm, tại cơ sở sản xuất hay tại phim trường.
16/06/2011(Xem: 5146)
Tôi có duyên lành gặp được ngài một lần khi ngài đến thăm Hòa thượng chùa Đông Hưng, bổn sư của tôi, cũng là y chỉ sư của Hòa thượng Quảng Thạc, một để tử xuất gia của ngài khi còn ở đất Bắc. Cung cách khiêm cung, ngài cùng Hòa thượng tôi đàm đạo về quá trình tu tập cũng như Phật học, hai ngài đã rất tâm đắc về chí nguyện giải thoát và cùng nhau kết luận một câu nói để đời : “Mục đích tu hành không phải để làm chính trị”. Cũng câu nói này, khi chia tay chư tăng miền Nam, ngài đã phát biểu với hàng pháp lữ Tăng ni đưa tiễn. Khi sưu tập tư liệu về cuộc đời của ngài, tôi may mắn gặp được các bậc tri thức cao đồ của ngài kể lại. Nay, nhân có cuộc hội thảo về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Bắc và công hạnh của ngài, tôi xin được góp thêm đôi điều.
14/06/2011(Xem: 6571)
Thiền sư PHÁP THUẬN (Bính Tý 918): Thiền sư đời Tiền Lê, thuộc dòng thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu Chi, không rõ gốc gác quê quán và tên thật, chỉ biết rằng Sư họ Đỗ, xuất gia từ thuở nhỏ ở chùa Cổ Sơn (Thanh Hóa), sau theo học đạo Thiền sư Phù Trì ở chùa Long Thọ, nổi tiếng là uyên thâm đức độ. Tương truyền rằng chính Sư đã dùng nghệ thuật phù sấm, làm cố vấn giúp vua Lê Đại Hành nắm quyền bính, dẹp yên được hỗn loạn trong triều cuối đời nhà Đinh, được vua Lê vô cùng trọng vọng. Năm 990 niên hiệu Hưng Thống thứ 2, Sư không bệnh mà viên tịch, thọ 76 tuổi, để lại cho đời các tác phẩm: “Bồ Tát sám hối văn”, “Thơ tiếp Lý Giác”, và một bài kệ.
14/06/2011(Xem: 6524)
• Thiền sư Chân Không(Bính Tuất -1046): Sư họVương, thế danh Hải Thiềm, quê quán ở làng Phù Đổng (nay là Tiên Sơn-Bắc Ninh), xuất thân trong một gia đình quý tộc. Lúc thân mẫu của ông mang thai, cha ông nằm mộng thấy một vị tăng Ấn Độ trao cho cây tích trượng, sau đó thì ông ra đời. Mồ côi cha mẹ từ thuở niên thiếu, ông siêng chăm đọc sách không màng đến những chuyện vui chơi. Năm 20 tuổi ông xuất gia, rồi đi ngao du khắp nơi để tìm nơi tu học Phật Pháp. Nhân duyên đưa đẩy cho Sư đến chùa Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu (Gia Lương-Hà Bắc), nghe Thiền sư Thảo Nhất giảng kinh Pháp Hoa mà ngộ đạo, được nhận làm đệ tử, sớm tối tham cứu thiền học, và được sư thầy truyền tâm ấn, thuộc dòng thiền Tì-ni-đa Lưu -chi, thế hệ thứ 16. Sau, Sư lên núi Phả Lại, trại Phù Lan (nay thuộc huyện Mỹ Văn-Hưng Yên) làm trụ trì chùa Chúc Thánh, ở suốt 20 năm không xuống núi để chuyên trì giới luật, tiếng thơm đồn xa đến cả tai vua.
13/06/2011(Xem: 14454)
Ôi, trong giáo pháp Phật đà của ta, việc trọng đại nhất là gì ? Con người sinh ra không từ cửa tử mà đến, chết không vào cửa tử mà đi. Thế nên người nằm non ở tổ, bỏ ngủ quên ăn, chẳng tiếc thân mạng, đều vì việc lớn sinh tử. Ở thời giáo suy pháp mạt này mà có người vì việc lớn sinh tử như Hòa thượng Liễu Quán, thật là hy hữu.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]