Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

41. Sơ tâm lồng lộng (Thích Hạnh Tuệ)

17/06/201408:04(Xem: 20891)
41. Sơ tâm lồng lộng (Thích Hạnh Tuệ)

blank
Hôm qua, Ôn lại đi xe lửa từ Tu viện Viên Đức về Chùa Viên Giác khoảng 12 giờ khuya. Ấy vậy mà, Ôn vẫn không bỏ thời Kinh Công Phu Khuya. Sau thời kinh ấy, con chỉ được gặp Ôn trong ba mươi phút, để nói những điều cần nói và để nghe những điều cần nghe. Nhưng ba mươi phút ấy cũng quá ngắn ngủi nên con đi theo thầy Hạnh Giới để đưa Ôn ra nhà ga xe lửa Hannover, chủ yếu là để trò chuyện với Ôn nhiều hơn. Sáng nay, Ôn lại đi một mình xuống miền Trung nước Đức để lo đám tang cho một Phật tử ân nhân của chùa. Ôn nói, chiều nay khi về lại Hannover, Ôn sẽ đến thẳng phi trường để gặp và ăn tối trước khi con lên máy bay đi Thụy Sĩ rồi trở về lại Mỹ.

Thời gian gặp Ôn tuy chỉ là chốc lát, nhưng con đã cảm nhận được đủ đầy hương vị của một bậc Thầy khả kính: Thạch Trụ Tòng Lâm. Ôn bận bịu vô cùng, nhất là sau khi Ôn Khánh Anh viên tịch. Mọi Phật sự ở khắp Âu Châu dường như đều cần thiết có sự hiện diện của Ôn. Đi sớm về khuya hay xuôi nam ngược bắc, Ôn vẫn ung dung, tự tại chẳng chút muộn phiền. Đi đến nơi đâu hay nghỉ ở chỗ nào, Ôn vẫn viết lách, dịch thuật, đọc sách. Dường như với Ôn, không có cái biên tế giữa làm việc và nghỉ ngơi. Ôn lấy sự nghỉ ngơi để làm việc, hay nói cách khác là xem sự làm việc chẳng khác gì nghỉ ngơi. Hành trạng đó, cũng giống như các bậc Bồ Tát đã an trú trong đại định mà vẫn phân thân hóa độ khắp hằng sa quốc độ; ở chỗ này đã hóa độ xong thì phân thân đến chỗ khác để tiếp tục hóa độ; nơi nào chúng sanh cần thì đến, Phật pháp cần thì đi, chẳng quản gian lao, chẳng từ khó nhọc.

Đối với con, Ôn là một người Thầy tận tụy. Một người Thầy với trọn vẹn ý nghĩa của nó: "Giáo nhân bất quyện" - dạy người không mệt mỏi. Ở đời, khi đụng chuyện trái ý nghịch lòng, người ta hay bỏ cuộc, thoái lui hay tìm cách tránh né. Người ta luôn bảo vệ mình trước những sự tương tác trái chiều. Nhưng với Ôn, sự tương tác như là điều cần thiết của cuộc sống, vì không có sự vật và hiện tượng nào tồn tại mà lại thiếu vắng đi sự tương tác. Sự tương tác là bản chất của sự sống còn, là yếu tính của duyên sinh, vô ngã. Thế nên, Ôn đã lắng nghe, "lắng nghe" để "cứu độ". "Cứu độ" không phải là sự ban ơn cho người này hay sự giáng họa cho kẻ kia. Mà "cứu độ" là sự giải thoát những bủa vây đang kềm hãm làm trầm nịch thân và tâm của chúng hữu tình. "Giáo nhân" không chỉ bằng lời nói mà bằng cả hành động. Ấy là thân giáo, giáo hóa người bằng sự hành hoạt của chính bản thân. Đem sự hành hoạt của bản thân làm chỗ quay về nương tựa cho người, và người cũng soi rọi bản thân họ vào trong bóng dáng của Ôn để thiện thệ qua bến bờ sinh diệt này đây. "Bất quyện" là sự bền gan, trì chí; không bỏ cuộc khi gặp khó khăn, không lơ đễnh khi công thành danh toại. "Bất quyện" để hi hiến đời mình cho sự trường hưng của Phật pháp, để chuyển pháp luân, để "thiệu long thánh chủng", để "tác Như Lai sứ", để "hành Như Lai sự", để tác chứng cho mình và cho người cùng "đạt đáo viên mãn".

Con có duyên được tham dự trong các chuyến đi hoằng pháp của Ôn để được thấy, được nghe, được lịch nghiệm những cung bậc thương và ghét của người. Con mới hiểu được nhiều hơn thế nào là tâm nguyện, thế nào là sự dấn thân, thế nào là sứ mệnh của trưởng tử Như Lai. Vượt lên trên sự ganh ăn, ghét ở của thế thái nhân tình mà một bậc chân nhân vào đời tựa thể:

"Như ong chỉ lấy mật thôi

Không làm hại sắc hư đài của hoa

Tỳ kheo theo Luật nương Kinh

Vào trong nhân thế trung trinh lời nguyền."

(Kinh Pháp Cú - Bản dịch: HT Thích Nhất Hạnh)

Lời nguyền trung trinh từ buổi cạo bỏ mái tóc xanh, khoác lên mình chiếc áo bạt màu, theo Thầy vào chùa ấy cho đến nay đã hơn năm mươi năm mà vẫn chưa từng phai nhạt. Lời nguyền ấy, phải chăng đã được hun đúc ngày qua ngày, tháng qua tháng, năm qua năm; phải chăng được gìn giữ trong mỗi thời Kinh Lăng Nghiêm buổi sáng; phải chăng đã thâm nhập vào câu kinh: "Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập." Ngài A Nan thề vào trước trong đời ác năm trược để hóa độ chúng sanh và Ôn chắc cũng đồng niệm với lời thề ấy.

Kỷ niệm năm mươi năm, ngày chú tiểu ngày xưa bây giờ là Hòa Thượng. Kỷ niệm cái sơ tâm còn lộng lồng giữa ngân hà, cái sơ tâm không tỳ vết do bụi bặm thời gian năm mươi năm phủ lấp. Cái sơ tâm phát nguyện làm Phật đã làm chấn động thế giới ba ngàn buổi ấy nay vẫn còn đây: trinh nguyên như thuở ban đầu. Sơ tâm bất động. Con xin chắp tay cúi đầu kính lễ cái chí nguyện xuất trần thượng sĩ của chú tiểu ngày nào nay là Hòa Thượng. Con xin chắp tay cúi đầu kính lễ Hòa Thượng bây giờ đã giữ gìn không cho tỳ vết ý chí trượng phu và phát nguyện làm Phật của chú tiểu ngày xưa.

Con kính lễ Ôn, bậc sơ tâm lồng lộng.

Viết tại Chùa Viên Giác, ngày 16/4/2014

Thích Hạnh Tuệ

(Chùa Phật Đà, San Diego, Hoa Kỳ)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/06/2011(Xem: 6014)
Trận chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Vương Quyền năm 939 là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử dựng nước của Việt Nam. Ngọn sóng Bạch Đằng Giang đã cuốn trôi đi nỗi đau nhục của người dân nô lệ, nhận chìm tham vọng của nòi Hán áp đặt lên đất nước ta trong suốt một ngàn năm. Từ đây Việt Nam không còn là một huyện lỵ của người Hán, từ đây một quốc gia đúng nghĩa đã xuất hiện dưới vòm trời Đông Á.
24/06/2011(Xem: 8399)
Ngài họ Nguyễn húy là Hữu Kê, dòng họ của Đại thần Nguyễn Trãi. Nguyên quán thuộc Tông sơn Gia miêu Ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa. Ngài thọ sanh năm Nhâm Tý (1912), tại làng Nguyệt Biều, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Vốn thọ sanh trong gia đình vọng tộc, quý phái, thích lý luận Nguyễn Hữu Độ.
24/06/2011(Xem: 5448)
Ngài Mật Thể, pháp danh Tâm Nhất, pháp tự Mật Thể, tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 ở làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, thuộc dòng Thích Lý của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài qui hướng đạo Phật, cụ thân sinh và người anh ruột đều xuất gia.
23/06/2011(Xem: 5913)
Đọc Thánh Đăng Ngữ Lục, do Sa môn Tánh Quảng, Thích Điều Điều đề tựa trùng khắc, tái bản năm 1750, ta thấy đời Trần có năm nhà vua ngoài việc chăn dân, họ còn học Phật, tu tập và đạt được yếu chỉ của thiền, như vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông. Và sự chứng ngộ của các Thiền sư đời Trần thì không thấy đề cập ở sách ấy, hoặc có đề cập ở những tư liệu khác mà hiện nay ta chưa phát hiện được, hoặc phát hiện thì cũng phải tra cứu và luận chứng dài dòng rồi mới kết đoán ra được.
23/06/2011(Xem: 6882)
Đọc sử Phật giáo Việt Nam, hẳn chúng ta đều biết nước mình có một ông vua đi tu ngộ đạo, đó là vua Trần Nhân Tông. Ngài làm vua trong thời gian nước nhà đang bị quân Mông Cổ đem đại quân sang xâm lấn nước ta lần thứ ba.
22/06/2011(Xem: 7593)
Trong sáu thập niên qua, TIME đã không ngừng ghi chép lại những vinh quang cùng khổ nhọc của Á châu. Trong số đặc biệt kỷ niệm thường niên hôm nay, chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng của mình đến những nhân vật nổi bật đã góp phần vào việc hình thành nên thời đại chúng ta. Những thập niên xáo động nhất của một lục địa đông dân nhất trên trái đất này đã sản sinh ra hàng loạt những nhân vật kiệt xuất. Trong sáu mươi năm qua, kể từ khi TIME bắt đầu cho xuất bản ấn bản Á Châu, chúng tôi đã có cái đặc ân là được gặp gỡ đa số những nhân vật ngoại hạng này –theo dấu cuộc vận động hay trên chiến trường, trong phòng hội hay trong phòng thí nghiệm, tại cơ sở sản xuất hay tại phim trường.
16/06/2011(Xem: 5146)
Tôi có duyên lành gặp được ngài một lần khi ngài đến thăm Hòa thượng chùa Đông Hưng, bổn sư của tôi, cũng là y chỉ sư của Hòa thượng Quảng Thạc, một để tử xuất gia của ngài khi còn ở đất Bắc. Cung cách khiêm cung, ngài cùng Hòa thượng tôi đàm đạo về quá trình tu tập cũng như Phật học, hai ngài đã rất tâm đắc về chí nguyện giải thoát và cùng nhau kết luận một câu nói để đời : “Mục đích tu hành không phải để làm chính trị”. Cũng câu nói này, khi chia tay chư tăng miền Nam, ngài đã phát biểu với hàng pháp lữ Tăng ni đưa tiễn. Khi sưu tập tư liệu về cuộc đời của ngài, tôi may mắn gặp được các bậc tri thức cao đồ của ngài kể lại. Nay, nhân có cuộc hội thảo về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Bắc và công hạnh của ngài, tôi xin được góp thêm đôi điều.
14/06/2011(Xem: 6571)
Thiền sư PHÁP THUẬN (Bính Tý 918): Thiền sư đời Tiền Lê, thuộc dòng thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu Chi, không rõ gốc gác quê quán và tên thật, chỉ biết rằng Sư họ Đỗ, xuất gia từ thuở nhỏ ở chùa Cổ Sơn (Thanh Hóa), sau theo học đạo Thiền sư Phù Trì ở chùa Long Thọ, nổi tiếng là uyên thâm đức độ. Tương truyền rằng chính Sư đã dùng nghệ thuật phù sấm, làm cố vấn giúp vua Lê Đại Hành nắm quyền bính, dẹp yên được hỗn loạn trong triều cuối đời nhà Đinh, được vua Lê vô cùng trọng vọng. Năm 990 niên hiệu Hưng Thống thứ 2, Sư không bệnh mà viên tịch, thọ 76 tuổi, để lại cho đời các tác phẩm: “Bồ Tát sám hối văn”, “Thơ tiếp Lý Giác”, và một bài kệ.
14/06/2011(Xem: 6524)
• Thiền sư Chân Không(Bính Tuất -1046): Sư họVương, thế danh Hải Thiềm, quê quán ở làng Phù Đổng (nay là Tiên Sơn-Bắc Ninh), xuất thân trong một gia đình quý tộc. Lúc thân mẫu của ông mang thai, cha ông nằm mộng thấy một vị tăng Ấn Độ trao cho cây tích trượng, sau đó thì ông ra đời. Mồ côi cha mẹ từ thuở niên thiếu, ông siêng chăm đọc sách không màng đến những chuyện vui chơi. Năm 20 tuổi ông xuất gia, rồi đi ngao du khắp nơi để tìm nơi tu học Phật Pháp. Nhân duyên đưa đẩy cho Sư đến chùa Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu (Gia Lương-Hà Bắc), nghe Thiền sư Thảo Nhất giảng kinh Pháp Hoa mà ngộ đạo, được nhận làm đệ tử, sớm tối tham cứu thiền học, và được sư thầy truyền tâm ấn, thuộc dòng thiền Tì-ni-đa Lưu -chi, thế hệ thứ 16. Sau, Sư lên núi Phả Lại, trại Phù Lan (nay thuộc huyện Mỹ Văn-Hưng Yên) làm trụ trì chùa Chúc Thánh, ở suốt 20 năm không xuống núi để chuyên trì giới luật, tiếng thơm đồn xa đến cả tai vua.
13/06/2011(Xem: 14454)
Ôi, trong giáo pháp Phật đà của ta, việc trọng đại nhất là gì ? Con người sinh ra không từ cửa tử mà đến, chết không vào cửa tử mà đi. Thế nên người nằm non ở tổ, bỏ ngủ quên ăn, chẳng tiếc thân mạng, đều vì việc lớn sinh tử. Ở thời giáo suy pháp mạt này mà có người vì việc lớn sinh tử như Hòa thượng Liễu Quán, thật là hy hữu.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]