Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chiếc Bánh Nậm

13/08/201316:10(Xem: 12075)
Chiếc Bánh Nậm

ChuTonDuc_Ht Nhu Tinh (156)

CHIẾC BÁNH NẬM

(Tưởng niệm HT. Thích Hải Tuệ,
tức Thầy Trừng San, giám tự Phật Học Viện Hải Đức, Nha Trang)

TỊNH MINH





Hôm ấy, một buổi sáng đẹp trời, khoảng 8 giờ, tôi đang ngồi học tại bàn riêng của mình thì thấy thầy Trừng San (xem tiểu sử)  vén màn bước vào, tôi liền đứng dậy định chấp tay chào Thầy thì Thầy đưa tay ấn nhẹ vai tôi ra hiệu tôi ngồi xuống. Tôi ngồi xuống giường, Thầy cũng ngồi bên cạnh tôi và nói:

- Tối mai làm lễ khai kinh đúc chuông ở rộc rau muống. Chà, tụng kinh cả đêm đó. TM. đi với Thầy nghe. Ai nữa hè?

- Bạch Thầy… cần mấy người?

- Ba nguời thì tốt, nhưng năm người thì tốt hơn.

- Bạch Thầy… kêu TT., PM., và ĐT. là đủ. Con tang, TT. mõ, PM. khánh, ĐT. linh, ngon đó Thầy!

- Ờ, được đấy!... Bảy giờ xe đến, Thầy hú thì đi nghen!

- Mô Phật!


Khóa lễ hôm đó thật là trang nghiêm và hùng tráng. Tăng, Ni, Phật tử gần cả trăm người, đa số là các bà Phật tử người Huế, họ rất thuần thành và tín tâm, chăm lo nước nôi và tiểu thực cho các thầy rất chu đáo.


Khoảng 11 giờ khuya, các bà dọn bánh nậm lên đi-văng mời các thầy. Bánh nậm là loại bánh làm bằng bột gạo, gói trong lá chuối theo dạng hình chữ nhựt với lớp nhân bên trong gồm thịt, nấm, cà rốt, bún miến băm nhỏ và các loại gia vị khác, tùy theo bánh chay hay bánh mặn mà làm, ăn rất ngon và nghe nói là thổ sản của xứ Huế. Thông thường, bánh gì cũng có cái tên tương ứng với màu sắc, hương vị và hình dạnh của nó, như bánh tét, bánh chưng, bánh ú, bánh xèo v.v…, riêng bánh nậm thì hình như đa số chưa biết ý nghĩa của nó.


chiec banh nam



Tôi lột bánh mời Thầy Trừng San, Thầy đưa bánh lên miệng rồi lại để xuống, gói lại và đặt vào đĩa.

- Sao vậy Thầy? Tôi hỏi.

- Không sao! Hôm nay bụng Thầy không được ổn. Các chú cứ tự nhiên.

Tôi vừa ăn xong một cái thì buộc miệng khen:

- Bánh nậm kỳ này các bà làm ngon quá, chưa từng thấy trong đời, xin tán thán công đức!


Một bà chạy lại ngồi xổm trên sàn nhà, cạnh mép đi-văng, tay lột bánh, miệng cười nói với giọng Huế nghe rất chân thành và tha thiết:

- Mời cạc Thầy dùng tự diên, ăn cho no, cọ thực mợi vực được đạo, bạnh gia truyền xự Huệ cụa chụng con đọ!

Chà, tôi nói, bánh ngon thế này mà bụng Thầy hôm nay lục ục, uổng quá! Bốn cái cối xay này tha hồ mà xay nhé!

Sau đó các bà xuống bếp hết, chúng tôi ngồi ăn ngon lành. Bỗng dưng tôi… trợn mắt… ngậm miệng… rồi trương cổ nói nhỏ ra vẻ bí mật:

- Bạch Thầy… bánh nhân th…i…ị…i…t !

- S-u-ỵ-t!…

Thầy đưa ngón tay trỏ lên miệng ra hiệu im lặng. Xong Thầy nói: “Có ăn nữa thì ăn, không ăn thì thôi, đừng cho các bà biết mà họ đâm ra lo lắng, hối hận tội nghiệp! Có lẽ họ bê lộn bánh đấy. Vả lại khi còn tại thế, trên bước đường vân du hoằng hóa, Đức Phật và môn đệ của Ngài đâu có phân biệt chay mặn, thọ dụng lễ vật cúng dường của thập phương bá tánh bằng cái tâm bình đẳng và biết ơn. Các chú thấy sao?”

- A Di Đà Phật! Chúng tôi đồng chắp tay.


Sau đó chúng tôi uống nước và ra ngoài dạo mát. PM. đến cạnh tôi, nói:

- Anh sao!... Thường ngày thấy sáng láng mà nay sao bết quá! Vậy chứ anh không nhớ câu: “Mặc nhiên mặc nhiên cố, thị sự như thị trì”?

- Ờ, hôm nay sao mình u mê quá. Im lặng thì hay biết bao!


ĐT. nghe chúng tôi xì xào cũng ghé lại, nói:

- Anh làm trật rơ! Im lặng thì giờ này chúng mình có lẽ còn “ta bà ha!”.

TT. cũng cười cười xen vào với giọng rề rề như ông già:

- Ờ, mình thấy béo quá, ngon quá! Bánh nậm xưa nay mình ăn đâu có ngon như vậy. Té ra là…

- Đừng bày như Đức Thế Tôn thọ trai lần cuối tại lò rèn ông Thuần Đà nhé! Tôi đùa và tất cả đều cười.


Đêm đó, tôi nằm nhắm mắt cho đến bốn giờ sáng dậy tụng kinh chứ không sao ngủ được; tư tưởng cứ nhấp nhô như sóng nước đại dương: khâm phục và kính trọng Thầy Trừng San vô vàn. Thầy lúc nào cũng uyển chuyển, linh hoạt, biến hóa và nhuần nhuyễn trong mọi tình huống. Đúng là:

“Thuần nhất bất tạp vi hòa

Vạn loại xưng tôn vi thượng.”


Tôi có được cái diễm phúc là bảy, tám năm trời lẫm đẫm theo Thầy cùng khắp phố phường Nha Trang và thành trì Diên Khánh. Ôi!… Còn đâu những đêm đen như mực, Thầy trò tụng kinh cầu an, cầu siêu xong phải ra sân nằm nghỉ ở vùng quê Diên Khánh, nghe tiếng xe bò âm thầm cọc cạch trên đường đất gồ ghề mà cảm thông cho cuộc sống thầm lặng, nặng nề của người dân lao động về đêm; hoặc ngắm những vì sao lấp lánh trên bầu trời đen ngòm vòi vọi; hoặc nghe những mùi hoa cau, hoa bưởi, hoa lài mà thấy mình thênh thang giữa đất trời lồng lộng. Thảo nào Đức Thế Tôn thường xem bước chân của Sa-môn cũng giống như những cánh ong vun vút khắp bốn phương trời:


“Thí như phong thái hoa,

Bất hoại sắc dữ hương,

Đản thủ kỳ vị khứ,

Tỳ kheo nhập tụ nhiên.

Tỳ kheo vào làng xóm,

Như ong đến vườn hoa,

Lấy mật xong bay ra,

Không hại gì hương sắc.”


Đúng vậy:

Ong suốt đời tần tảo,

Bay tìm khắp muôn nơi,

Hút nhụy hoa làm mật,

Dâng hương vị cho đời.


Còn Thầy, nay xóm này, mai làng nọ, ban vui cứu khổ với nụ cười rạng rỡ trên môi. Thầy đã truyền đạt cho chúng con không những qua đạo phong nhân cách mà còn qua cả tâm hồn nghệ sĩ và hạnh nguyện vị tha của Thầy. Nhân ngày Nhà Giáo Việt Nam 20 -11-1997, chúng con, học trò của Thầy năm xưa, nay kẻ Nam người Bắc, kẻ Á người Âu, xin dâng lên giác linh Thầy nén hương lòng tha thiết nhất.

(Tịnh Minh, đã đăng trong tuần báo Giác Ngộ số 85, ngày 15/11/1997)




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/10/2014(Xem: 14838)
Nhân Vật Phật Giáo Thế Giới, do TT Thích Nguyên Tạng biên soạn từ 1990
01/10/2014(Xem: 8464)
Pháp danh : Trừng Thành Pháp tự : Chí Thông, Pháp hiệu : Thích Giác Tiên. Thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 42 Thế danh : Ngài họ Nguyễn Duy húy là Quyển. Thọ sanh năm Canh thìn, niên hiệu Tự Đức đời thứ 33 (1879). Chánh quán làng Giạ Lệ Thượng, xã Thủy Phương, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Năm 1883, lên bốn tuổi thì song thân đều mất. Ngài được ông bà bác đồng tộc đem về nuôi dưỡng. Nhờ bẩm chất thông minh nên thân thuộc cho theo Nho học một thời gian. Nhận thấy giáo lý Phật đà mới là con đường hướng đến cảnh giải thoát ; từ đó, ngài xin với thân thuộc xuất gia đầu Phật. Năm 1890, được 11 tuổi, ngài cầu thọ giáo với tổ Tâm Tịnh.
01/10/2014(Xem: 8541)
Phật Giáo Việt Nam thời cận đại đã viết lên trang lịch sử bằng máu, xương của Chư Tôn Đức Tăng Ni và Phật tử. Dòng lịch sử ấy đã nêu cao tấm gương hy sinh bất khuất trước những đàn áp, bạo lực, súng đạn, nhà tù và lựu đạn. Phải chăng đây là một chặng đường lịch sử oai hùng mà Phật Giáo Việt Nam đã biểu tỏ tinh thần Đại hùng, Đại lực, Đại Từ Bi để vực dậy một nền văn hóa đã bị sụp đổ bởi một chế độ tha hóa, ngoại lai xâm nhập vào quê hương Việt Nam.
01/10/2014(Xem: 10220)
Trên dòng lịch sử Phật giáo Việt Nam thời cận đại của những thập niên 30-40 có bậc Tôn túc của Ni giới xuất hiện, đồng hành với chư Tăng để xiển dương Phật pháp, đào tạo Tăng tài, xây dựng tự viện, giữ gìn giềng mối đạo pháp được bền vững. Bậc Tôn túc của Ni giới ấy là SB Diệu Không, người đã hy hiến cả đời mình cho đời lẫn đạo, SB đã lưu lại cho hậu thế một hành trạng sáng ngời cho đàn hậu học noi gương.
09/09/2014(Xem: 14130)
Hòa Thượng Thích Giác Thông, tục danh Đổ Văn Bé, sinh ngày 18 tháng 2 năm 1939 tại Mỹ Hòa Hưng, Huyện Châu Thành, An Giang, Long Xuyên. Trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân Phụ là Cụ Ông Đổ Nhựt Thăng, Thân Mẫu là Cụ Bà Nguyễn Thị Khiên, Hòa Thuợng là người anh cả trong số 6 anh em ( 3 trai, 3 gái ), được nuôi dưỡng trong một gia đình nông dân hiền lành, có truyền thống đạo đức, nên từ nhỏ Hòa Thượng đã là người sớm có tư chất hiền lương, có tâm thương người mến vật, là con có hiếu với ông bà cha mẹ.
06/09/2014(Xem: 8291)
Không biết đây là lá thư thứ mấy con đã viết mà không bao giờ gởi đi, bởi vì con biết thư có vượt ngàn dặm trùng dương bay về thì Thầy cũng vẫn không cầm đọc được, chứng bịnh Parkinson đã làm cho hai tay Thầy run nhiều quá nhưng nhân mùa Phật Đản nhớ đến Thầy, con lại muốn viết. Thời gian sau này, con vẫn theo dõi thường xuyên sức khỏe của Thầy, con buồn vô cùng, Thầy đã bị bịnh, không thoát khỏi qui luật sinh, lão, bịnh mà con thì ở xa quá, không thăm viếng cận kề Thầy được như ngày xưa nữa !
05/09/2014(Xem: 16950)
Còn đây của báu trong nhà Không là ngọc bảo, không là hoàng kim Bình thường chiếc áo tràng lam Mà sao quý vượt muôn ngàn ngọc châu! Những năm cầu thực dãi dầu Sớm mai tụng niệm, đêm thâu mật trì Dòng đời mãi cuốn con đi Về nương chốn tịnh có Thầy, có Ôn… Kinh truyền ban phát khuyên lơn
02/09/2014(Xem: 11909)
“Đầu lông trùm cả càn khôn thảy Hạt cải bao gồm nhật nguyệt trong” Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống. Sách Thiền Uyển Tập Anh (Anh Tú Vườn Thiền) ghi lại cuộc đối thoại giữa ngài với Thiền Sư Bản Tịch ở chùa Chúc Thánh, nhân dịp ngài cùng với thiền sư đến nhà đàn việt để thọ trai, trên đường đi sư hỏi: Thế nào là ý chỉ của Tổ Sư? Sao thầy lại nghe theo nhân gian làm những chuyện đồng cốt mê hoặc? Bản Tịch đáp: Lời nói ấy đâu phải là không do đồng cốt giáng thần? Sư thưa: Chẳng phải là Hòa Thượng đùa bỡn con hay sao? Bản Tịch đáp: Ta chẳng hề đùa bỡn tí nào! Sư không nắm được ý chỉ của thầy bèn cáo biệt ra đi.
12/08/2014(Xem: 16633)
Cô là 1 nữ sinh trẻ nhất của Sài Gòn đã anh dũng ngã xuống trước họng súng của quân thù tàn bạo trong 1 buổi sáng mùa thu năm 1963 trước cửa chợ Bến Thành, với hàng ngàn sinh viên, học sinh và nhân dân phật tử trước cửa chợ Bến Thành. Và ngay sau đó, Thành hội sinh viên học sinh Sài Gòn đã quyên góp vận động ủng hộ xây bức tượng thờ người nữ học sinh anh hùng tuổi 15 đặt ngay công trường Diên Hồng trước cửa chính chợ Bến Thành ngày nay với sự chứng kiến của hàng ngàn người dân, phật tử thành phố và sinh viên, học sinh.
09/08/2014(Xem: 12769)
Hòa thượng Họ Đinh, húy Văn Nam, là đệ tử của cố Đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, Đệ nhất Tăng thống GHPGVNTN, pháp danh Tâm Trí, tự Minh Châu, pháp hiệu Viên Dung, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1918 (Mậu Ngọ) tại làng Kim Thành (Quảng Nam); nguyên quán làng Kim Khê, xã Nghi Long, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Thân phụ là cụ ông Đinh Văn Chấp và thân mẫu là cụ bà Lê Thị Đạt. Gia đình Hòa thượng có 11 người anh em, Hòa thượng là con trai thứ tư trong gia đình. Vốn sinh trưởng trong gia đình vọng tộc Nho gia, thân sinh của Hòa thượng đỗ tiến sĩ Hoàng giáp năm 21 tuổi (khoa Quý Sửu 1913, niên hiệu Duy Tân thứ 7). Nhờ ảnh hưởng sâu đậm nền giáo dục của cụ ông từ bé, vì vậy Hòa thượng rất cần mẫn đèn sách, chăm chỉ học hành, trí tuệ phát triển sớm. Năm 1939, Hòa thượng đỗ bằng cao đẳng tiểu học Đông Dương; năm 1940 Hòa thượng đỗ tú tài toàn phần tại Trường Khải Định - Huế (nay là Trường Quốc Học); và cùng thời gian này, Ngài được bổ làm Thư ký Tòa Khâm sứ tỉnh Thừa Thiên. Sau một năm
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]