Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hoài niệm

13/08/201316:16(Xem: 8345)
Hoài niệm
ChuTonDuc (146)

HOÀI NIỆM
(Kỷ Niệm 18 Năm (1984-2002) Ngày HT Thích Trí Thủ,
Nguyên Chủ Tịch HĐTS GHPGVN Viên Tịch)

Pháp tử: TỊNH MINH



Viết về Ôn Già Lam thật khó, khó vì tự nhận thấy mình là đàn con em hậu học, gần gũi với Ôn chưa được bao nhiêu, vả lại nhân cách và đạo phong của Ôn rực rỡ quá; các bậc huynh trưởng tôn túc được Ôn dưỡng dục hai ba mươi năm còn không dám đặt bút thành văn, huống nữa là mình. Nhưng không viết vào dịp đặc san kỷ yếu này thì biết bao giờ mới bày tỏ được chút tình nồng ấm thiêng liêng mà Ôn đã dành cho mình qua bao năm tháng. Nghĩ đi nghĩ lại, tôi mạnh dạn ghi lại đây đôi điều mắt thấy tai nghe, gọi là niệm chút ân tình dâng Ôn nhân ngày húy kỵ.

Hồi còn ở Già Lam, có lẽ tôi là người duy nhất cạo tóc cho Ôn. Đôi lúc bận Phật sự, Ôn phải cạo tóc lúc bảy giờ tối để kịp sám hối, hoặc bốn giờ khuya để kịp bố tát. Mỗi lần cạo tóc cho Ôn là tôi rất mực cẩn trọng, chỉ được phép cạo nhẹ một đường dài từ trên xuống dưới, nhúng dao lam vào thau nước cho hết tóc rồi cạo qua đường khác, không dám nhắp nhắp, nhắp là có thể chảy máu ngay. Những mụt rùi son đỏ mọng to bằng hạt tấm hạt gạo rải rác nhô lên khắp đầu. Thường thì tôi đứng trịnh trọng, nhẹ nhàng, im lặng cạo tóc, cạo mặt Ôn rồi xuống, để Ôn tự cạo râu. Một hôm, trong lúc cạo tóc, Ôn hỏi:

- Đầu tui thế nào, có méo không?

- Dạ… đầu Ôn tròn và đẹp lắm, tôi đáp. Con thấy da đầu của người ta đa số là sạm nắng, còn Ôn thì đỏ au hà, nhất là mụt rùi son nhiều lắm. Con không dám nói chuyện trong lúc cạo là vậy đó.

Bỗng dưng Ôn trầm giọng, niệm:

Nam mô A Di Đà Phật

Con vào dạ mạ đi tu.

Có lẽ Ôn đang nghĩ đến ân đức sinh thành của người mẹ hiền đã bao năm xa cách. Thảo nào có lần Ôn đã từ chối tham dự hội nghị Phật giáo thế giới được tổ chức tại Nhật. Trong cuộc họp chúng, Ôn nói: “Phụ mẫu tại đường bất khả viễn du”. Hình như năm ấy Ôn đã quá lục tuần, thân mẫu của Ôn cũng đã ngoài tám mươi. Ôn không dám đi xa, sợ mẹ già có bề gì, không có Ôn bên cạnh. Ôn thương mẹ như thế đó. Ai bảo “Cát ái từ thân” là hết? Lòng hiếu thảo và nhân cách tuyệt vời của Ôn đã để lại trong ta những bài học vô cùng thâm diệu. Ôn thường dạy: “Các ông học Phật mà không đọc sách Nho, nhất là bộ Luận ngữ, Đạo Đức kinh, Nam Hoa kinh là thiếu sót”.

Phải chăng nhờ tinh thông Nho Lão Thích mà tâm hồn Ôn lúc nào cũng phóng khoáng, nhẹ nhàng, tươi mát.

Tôi nhớ có lần được Ôn cho đi Tây Ninh đặt bàn ghế cho ký nhi viện và tham quan Tòa Thánh. Gần đến chợ Long Hoa, xe chạy từ từ, bỗng dưng Ôn bảo chú Thu dừng lại. Không biết Ôn định làm gì, đoạn thấy Ôn xuống xe và đi thẳng lại chỗ bà cụ ngồi co ro trong chiếc áo chằm nhăn nheo nhiều màu sắc với chiếc nón cời tơi tả trên đầu; trước mặt bà là một cái lồng ọp ẹp nhốt ba con gà ri to bằng nắm tay, lông lá xơ xác. Thấy Ôn tiến đến, bà cụ lom khom đứng dậy, chắp tay xá xá và niệm Mô Phật, Mô Phật. Có lẽ bà cụ theo đạo Phật chứ không phải theo đạo Cao Đài. Ôn chỉ tay vào lồng gà hỏi:

- Bà bán bao nhiêu?

Bà cụ chắp tay xá xá, miệng ấp úng không nói nên lời. Những người xung quanh im lặng nhìn Ôn với ánh mắt chứa đầy thiện cảm. Có lẽ họ ngạc nhiên lắm. Ai đời một sư ông như vậy mà đi mua gà, lại mua ba con gà cù rụ sắp toi nữa chứ! Thấy bà cụ không nói, tôi sợ bà không hiểu phải xưng hô như thế nào nên không dám thưa, tôi đỡ lời : “Cụ bán bao nhiêu? Sư ông mua thật đấy”. Cái miệng móm chút xíu không còn một cái răng với hai vệt trầu đỏ tươi dính hai bên mép cười chúm chím trông rầt hiền lành và rất tội nghiệp. Bà cụ xoa xoa hai tay nói: “Xin sư ông cho sáu chục”. Ôn mở bóp đưa bà một trăm. Bà lại chắp tay xá xá. Tôi xách lồng gà chào bà, theo Ôn lên xe và nghe sau lưng có tiếng vọng lại: “Bà có phước đấy! Sư ông mua giúp cho bà đấy!” Có lẽ bấy giờ bà cụ là người hạnh phúc nhất đời.

Đấy, tâm hồn của Ôn là vậy đấy! Thấy việc gì phải là làm. Động lòng thương cảm là làm. Làm với thái độ ung dung tự tại, vô danh vô tướng, vô trụ vô cầu, mặc cho ai nghĩ sao cũng được.

Ngồi trên xe tôi tự hỏi: “Tại sao chú Thu và mình không thấy bà cụ. Đúng là thứ mã tử lục tặc, ngồi ngó trời ngó đất chứ có ngó gì đến người nghèo khổ!”

Cách đây ba bốn năm, Ôn có nuôi một cặp hoàng yến, chúng sinh được ba con chim con rất đẹp, Ôn thích lắm. Một hôm, khoảng ba giờ chiều, tôi về Già Lam hầu Ôn, vừa đến cửa đã thấy Ôn ngồi trầm ngâm ngắm chim mẹ mớm mồi cho chim con. Tôi xá Ôn với câu: “Bạch Ôn con mới đến”. Không quay lại, Ôn nói:

- Nhìn kìa! Chim mẹ khẩn trương nuôi con từ năm giờ sáng.

- Nhìn Ôn ngắm gia đình nhà chim nuôi con, con lại nhớ đến lời ca “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình”…

- Chứ răng! “Thập nguyệt hoài thai, tam niên nhũ bộ, thử ân thử đức, phấn cốt nan thù”ø. Ôn nói với giọng điệu như thán. Đoạn Ôn dạy: “Chim còn thương con như vậy huống nữa là người. Cha mẹ nào mà chẳng thương con. Các ông ở đời đừng bao giờ nói đến cái tệ, cái xấu của con người khác, phải lựa lời mà nói. Mình biết con mình ăn trộm, hỗn láo, nhưng không muốn cho ai nói con mình là kẻ ăn trộm, hỗn láo”. Tâm lượng của Ôn vô cùng nhân hậu. Đúng là:

Hiếm thấy ai ở đời,

Biết tự chế khiêm tốn,

Tránh mọi lời thương tổn,

Như ngựa hiền tránh roi

(PC. 143)

Ôn còn khiêm tốn với cả chúng Tăng. Anh em nào có lỗi, Ôn kêu dạy bằng những lời rất chân tình thắm thiết.

Ôn thương chúng Tăng như mẹ thương con. Có lần Ôn quy y cho một số Phật tử gần chùa, xong lễ Ôn dạy: “Các Phật tử đã quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, nhưng Tăng ở đây đa số còn trẻ, còn đang đi học; nếu thấy các chú đôi lúc thổi sáo, đánh đàn hay ca hát chi đó thì các Phật tử bỏ qua cho. Còn trẻ là vậy đó, mai kia lớn lên các chú sẽ nhuần nhuyễn ra”. Các Phật tử đều chắp tay cúi đầu im lặng, một sự im lặng hoan hỷ và thương kính Ôn vô vàn.

Kính lạy giác linh Ôn, Ôn thường nhắc nhở và dạy chúng con:

Khó thay sống khiêm tốn,

Thanh tịnh tâm vô tư,

Giản dị đời trong sạch,

Sáng suốt trọn kiếp người.

(PC. 245)

Nay Ôn không còn nữa. Ôn đã đi trọn đoạn đường nhân thế với nhân cách và đạo phong rực rỡ như ánh trăng rằm. Có điều đàn chim hoàng yến của Ôn đa số nay đã tung cánh líu lo mỗi con một hướng, khắp bốn phương trời. Dù ca hót thế nào chăng nữa thì chúng cũng không bao giờ quên được những hạt đậu hạt mè, cọng rau lá cải, bàn tay e ấp, giọng nói thân thương của người đã bao năm chăm sóc cho chúng đến ngày đủ lông đủ cánh.

(Tịnh Minh, đã đăng trong Hòa Thượng THÍCH TRÍ THỦ kỷ yếu, Văn Phòng Trung Ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam ấn hành 1993.)

Lần thứ hai trích đăng trong tuần báo Giác Ngộ số 115, ngày 10/4/2002, nhân ngày húy kỵ Hòa Thượng, mồng Một tháng 3 năm Nhâm Ngọ, nhằm ngày 13/4/2002)

Lần thứ ba trích đăng trong tuần báo Giác Ngộ số 271, ngày 7/4/2005 với tựa đề: Một Nhân Cách và Đạo Phong Rực Rỡ, nhân ngày Húy kỵ Hòa Thượng, 1/3 Ất Dậu.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/10/2014(Xem: 14952)
Nhân Vật Phật Giáo Thế Giới, do TT Thích Nguyên Tạng biên soạn từ 1990
01/10/2014(Xem: 8540)
Pháp danh : Trừng Thành Pháp tự : Chí Thông, Pháp hiệu : Thích Giác Tiên. Thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 42 Thế danh : Ngài họ Nguyễn Duy húy là Quyển. Thọ sanh năm Canh thìn, niên hiệu Tự Đức đời thứ 33 (1879). Chánh quán làng Giạ Lệ Thượng, xã Thủy Phương, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Năm 1883, lên bốn tuổi thì song thân đều mất. Ngài được ông bà bác đồng tộc đem về nuôi dưỡng. Nhờ bẩm chất thông minh nên thân thuộc cho theo Nho học một thời gian. Nhận thấy giáo lý Phật đà mới là con đường hướng đến cảnh giải thoát ; từ đó, ngài xin với thân thuộc xuất gia đầu Phật. Năm 1890, được 11 tuổi, ngài cầu thọ giáo với tổ Tâm Tịnh.
01/10/2014(Xem: 8640)
Phật Giáo Việt Nam thời cận đại đã viết lên trang lịch sử bằng máu, xương của Chư Tôn Đức Tăng Ni và Phật tử. Dòng lịch sử ấy đã nêu cao tấm gương hy sinh bất khuất trước những đàn áp, bạo lực, súng đạn, nhà tù và lựu đạn. Phải chăng đây là một chặng đường lịch sử oai hùng mà Phật Giáo Việt Nam đã biểu tỏ tinh thần Đại hùng, Đại lực, Đại Từ Bi để vực dậy một nền văn hóa đã bị sụp đổ bởi một chế độ tha hóa, ngoại lai xâm nhập vào quê hương Việt Nam.
01/10/2014(Xem: 10299)
Trên dòng lịch sử Phật giáo Việt Nam thời cận đại của những thập niên 30-40 có bậc Tôn túc của Ni giới xuất hiện, đồng hành với chư Tăng để xiển dương Phật pháp, đào tạo Tăng tài, xây dựng tự viện, giữ gìn giềng mối đạo pháp được bền vững. Bậc Tôn túc của Ni giới ấy là SB Diệu Không, người đã hy hiến cả đời mình cho đời lẫn đạo, SB đã lưu lại cho hậu thế một hành trạng sáng ngời cho đàn hậu học noi gương.
09/09/2014(Xem: 14210)
Hòa Thượng Thích Giác Thông, tục danh Đổ Văn Bé, sinh ngày 18 tháng 2 năm 1939 tại Mỹ Hòa Hưng, Huyện Châu Thành, An Giang, Long Xuyên. Trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân Phụ là Cụ Ông Đổ Nhựt Thăng, Thân Mẫu là Cụ Bà Nguyễn Thị Khiên, Hòa Thuợng là người anh cả trong số 6 anh em ( 3 trai, 3 gái ), được nuôi dưỡng trong một gia đình nông dân hiền lành, có truyền thống đạo đức, nên từ nhỏ Hòa Thượng đã là người sớm có tư chất hiền lương, có tâm thương người mến vật, là con có hiếu với ông bà cha mẹ.
06/09/2014(Xem: 8383)
Không biết đây là lá thư thứ mấy con đã viết mà không bao giờ gởi đi, bởi vì con biết thư có vượt ngàn dặm trùng dương bay về thì Thầy cũng vẫn không cầm đọc được, chứng bịnh Parkinson đã làm cho hai tay Thầy run nhiều quá nhưng nhân mùa Phật Đản nhớ đến Thầy, con lại muốn viết. Thời gian sau này, con vẫn theo dõi thường xuyên sức khỏe của Thầy, con buồn vô cùng, Thầy đã bị bịnh, không thoát khỏi qui luật sinh, lão, bịnh mà con thì ở xa quá, không thăm viếng cận kề Thầy được như ngày xưa nữa !
05/09/2014(Xem: 17452)
Còn đây của báu trong nhà Không là ngọc bảo, không là hoàng kim Bình thường chiếc áo tràng lam Mà sao quý vượt muôn ngàn ngọc châu! Những năm cầu thực dãi dầu Sớm mai tụng niệm, đêm thâu mật trì Dòng đời mãi cuốn con đi Về nương chốn tịnh có Thầy, có Ôn… Kinh truyền ban phát khuyên lơn
02/09/2014(Xem: 12102)
“Đầu lông trùm cả càn khôn thảy Hạt cải bao gồm nhật nguyệt trong” Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống. Sách Thiền Uyển Tập Anh (Anh Tú Vườn Thiền) ghi lại cuộc đối thoại giữa ngài với Thiền Sư Bản Tịch ở chùa Chúc Thánh, nhân dịp ngài cùng với thiền sư đến nhà đàn việt để thọ trai, trên đường đi sư hỏi: Thế nào là ý chỉ của Tổ Sư? Sao thầy lại nghe theo nhân gian làm những chuyện đồng cốt mê hoặc? Bản Tịch đáp: Lời nói ấy đâu phải là không do đồng cốt giáng thần? Sư thưa: Chẳng phải là Hòa Thượng đùa bỡn con hay sao? Bản Tịch đáp: Ta chẳng hề đùa bỡn tí nào! Sư không nắm được ý chỉ của thầy bèn cáo biệt ra đi.
12/08/2014(Xem: 16747)
Cô là 1 nữ sinh trẻ nhất của Sài Gòn đã anh dũng ngã xuống trước họng súng của quân thù tàn bạo trong 1 buổi sáng mùa thu năm 1963 trước cửa chợ Bến Thành, với hàng ngàn sinh viên, học sinh và nhân dân phật tử trước cửa chợ Bến Thành. Và ngay sau đó, Thành hội sinh viên học sinh Sài Gòn đã quyên góp vận động ủng hộ xây bức tượng thờ người nữ học sinh anh hùng tuổi 15 đặt ngay công trường Diên Hồng trước cửa chính chợ Bến Thành ngày nay với sự chứng kiến của hàng ngàn người dân, phật tử thành phố và sinh viên, học sinh.
09/08/2014(Xem: 12979)
Hòa thượng Họ Đinh, húy Văn Nam, là đệ tử của cố Đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, Đệ nhất Tăng thống GHPGVNTN, pháp danh Tâm Trí, tự Minh Châu, pháp hiệu Viên Dung, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1918 (Mậu Ngọ) tại làng Kim Thành (Quảng Nam); nguyên quán làng Kim Khê, xã Nghi Long, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Thân phụ là cụ ông Đinh Văn Chấp và thân mẫu là cụ bà Lê Thị Đạt. Gia đình Hòa thượng có 11 người anh em, Hòa thượng là con trai thứ tư trong gia đình. Vốn sinh trưởng trong gia đình vọng tộc Nho gia, thân sinh của Hòa thượng đỗ tiến sĩ Hoàng giáp năm 21 tuổi (khoa Quý Sửu 1913, niên hiệu Duy Tân thứ 7). Nhờ ảnh hưởng sâu đậm nền giáo dục của cụ ông từ bé, vì vậy Hòa thượng rất cần mẫn đèn sách, chăm chỉ học hành, trí tuệ phát triển sớm. Năm 1939, Hòa thượng đỗ bằng cao đẳng tiểu học Đông Dương; năm 1940 Hòa thượng đỗ tú tài toàn phần tại Trường Khải Định - Huế (nay là Trường Quốc Học); và cùng thời gian này, Ngài được bổ làm Thư ký Tòa Khâm sứ tỉnh Thừa Thiên. Sau một năm
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]