Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sức sống Thiền của Trần Thái Tông

22/04/201319:47(Xem: 7105)
Sức sống Thiền của Trần Thái Tông

tran-thai-tong
Sức sống Thiền của Trần Thái Tông

HT. Thích Trí Quảng

Kể từ khi loài người biết phát huy trí tuệ, chúng ta thấy rõ có hai khuynh hướng phát triển, khuynh hướng hướng nội và khuynh hướng hướng ngoại. Khuynh hướng hướng ngoại, gọi là ngoại quan, tức quan sát sự hiện hữu và diễn tiến của sự vật bên ngoài giúp cho con người có được nhận thức đúng đắn về sự sống của hiện tượng giới. Sự hiểu biết của con người về mọi hoạt động thuộc lãnh vực hiện tượng vật chất bên ngoài được phát triển đến mức độ cao và trở thành môn khoa học tự nhiên ngày nay.

Khuynh hướng phát triển trí tuệ thứ hai đi theo con đường ngược lại, không hướng ra bên ngoài, mà quan sát ngược vào bên trong để tìm hiểu nội giới. Và sự hiểu biết về thế giới nội tâm được con người phát huy ở đỉnh cao, trở thành Thiền học sau này.

Trên lộ trình soi sáng nội giới theo khuynh hướng sống của các dân tộc phương Đông, có thể nói từ thời kỳ xa xưa, một hình thức Thiền đã có mặt ở An Độ với tên gọi là Yoga. Con đường phát triển sức sống tinh thần con người theo Yoga cũng từng một thời thống trị đất An.

Nhưng đến khi đức Phật hiện hữu và đạt quả vị Vô thượng Chánh đẳng giác, chính ngài là người đạt đến vị trí cao nhất trong lãnh vực hiểu biết về nội giới của con người cũng như của muôn loài trên trái đất này. Thật vậy, khi Thiền định ở Bồ đề đạo tràng, đức Phật an trụ trong trạng thái lắng yên, thanh tịnh tuyệt đối, ngài đã quán sát tường tận mọi diễn biến của nội giới. Và từ sự thấu rõ nguồn cội của nội tâm qua đôi mắt sáng tuệ giác, đức Phật thấy biết mọi sinh hoạt của hiện tượng giới bên ngoài một cách rõ ràng. Ngài mới khẳng định rằng ba nghiệp thân, khẩu, ý của ngài từ đây hoàn toàn do trí tuệ chỉ đạo; mọi việc của ngài đều hành xử tốt đẹp hoàn toàn vì phát xuất từ sự hiểu biết đúng như thật của thiền định. Và những người có tâm hồn hướng thượng do Phật hướng dẫn, dẹp trừ được mọi ý niệm vọng tưởng điên đảo, cũng có được cái nhìn sáng suốt, họ đã trở thành những nhà minh triết lỗi lạc thời Phật tại thế.

Pháp Thiền định mà đức Phật đã thể nghiệm và chứng đắc, đưa đến đỉnh cao của sự giác ngộ, giải thoát khỏi sinh tử, dĩ nhiên hoàn toàn khác với thiền định của Bà la môn giáo hay các triết thuyết đương thời.

Sau khi Phật vắng bóng trên cuộc đời, các bậc cao đức đã tiếp nhận và triển khai yếu nghĩa của giáo pháp. Đặc biệt là lãnh hội được tinh ba của Thiền, tức tâm bình ổn và trí sáng suốt mà đức Phật trao cho, rất nhiều Thiền sư Việt Nam đã vận dụng vào cuộc sống, thể hiện thành những mẫu người đạo hạnh giúp cho mọi người nương theo tháo gỡ được những gút mắc trong đời thường và được sống an vui, giải thoát.

Riêng một vị vua nổi tiếng anh minh của đất nước chúng ta, đức vua Trần Thái Tông đã rất thành công ở lãnh vực triển khai tinh thần Thiền trong mọi sinh hoạt của vị đế vương. Thật vậy, từ khi đức vua lên ngôi, mọi việc lớn nhỏ từ trong gia đình cho đến ngoài xã hội và những việc triều chính, tất cả đã bức ngặt ngài vô cùng. Ngài phải đối phó với biết bao vấn đề nan giải đến nổi cảm thấy mệt mỏi, mà không giải quyết được gì, cuối cùng rơi vào sự bế tắc hoàn toàn. Vì thế, đức vua nảy sinh ý nghĩ đi tìm một nhà tu hành ẩn dật để giúp ngài tìm ra con đường khai thông, một lối thoát tốt nhất.

Với quyết tâm cao độ của người có căn lành sâu dày, mới ở tuổi 20, đức vua Trần Thái Tông phải lén bỏ trốn lên núi Yên Tử trong màn đêm dày đặc để không ai phát hiện. Và duyên lành đã đến, trên đỉnh non cao không nhiễm bụi trần, đức vua đã gặp được vị Thiền sư ngộ đạo, ngài Đại Đăng quốc sư. Trên ngọn núi bạt ngàn thông già trong màn sương thanh tịnh tuyệt vời, tâm hồn đức vua đã được trí tuệ của Thiền sư khai sáng. Đức vua bừng tỉnh và cảm nhận sâu sắc con đường thực tập Thiền quán của ngài không phải ở non cao núi biếc này, mà phải thể nghiệm ngay tại triều đình, ngay trong việc trị nước an dân, ngay trong gia đình.

"Trong núi vốn không có Phật, Phật ở trong tâm ta. Nếu tâm lắng lại và trí tuệ xuất hiện, đó chính là Phật. Nếu bệ hạ giác ngộ được tâm ấy thì tức khắc thành Phật ngay tại chỗ, không cần phải đi tìm cực khổ ở bên ngoài". Lời khai ngộ mà Thiền sư Đại Đăng trao cho đức vua đã giúp tâm hồn ngài cảm thấy thật sự thanh thản trên con đường quay trở về cung điện và đó cũng là hành trang quý báu của vua trong suốt 32 năm ở vương vị.

Thực hiện yếu chỉ của Thiền sư truyền trao, vua Trần Thái Tông sống cuộc đời lấy tâm của nhân dân làm tâm của mình. Vua vừa tổ chức nội trị tốt đẹp, vừa chống giặc ngoại xâm, vừa suy tư kinh điển và giảng giải Phật pháp. Bài học Thiền mà đức vua Trần Thái Tông tiếp thu có một giá trị sống thực, nghĩa là vận dụng chính cái tâm yên tĩnh và trí sáng suốt vào mọi việc, đem lại thái bình, thịnh vượng cho đất nước. Thành quả này của đức vua Trần Thái Tông còn lưu lại dấu son muôn đời trong lịch sử nước ta.

Về công phu tu hành của đức vua Trần Thái Tông, ngài đã lưu lại cho chúng ta những tác phẩm như Thiền Tông Chỉ Nam, Kim Cương Tam Muội Kinh Chú Giải, Lục Thời Sám Hối Khoa Nghi, Bình Đẳng Lễ Sám Văn, Khóa Hư Lục, Thi Tập.

Đặc biệt là Lục Thời Sám Hối Khoa Nghi là pháp sám hối gồm sáu thời tu tập trong một ngày để rửa sạch sáu giác quan bị ô nhiễm vì tiếp xúc với sáu trần. Đó chính là công phu tu tập mà đức vua Trần Thái Tông đã thành tựu giúp cho ngài thấy biết mọi việc chính xác, giải quyết tốt đẹp việc triều chính cũng như ổn định cuộc sống gia đình được yên vui, hòa thuận và riêng ngài tinh thần luôn trong sáng, định tĩnh.

Đức vua Trần Thái Tông chính là nhà Thiền học thật sự, đã thể hiện trọn vẹn sức sống Thiền ngay trong lãnh vực an bang tế thế. Ngài đã phất cao ngọn cờ Thiền giữa chính trường, tự tại giữa một nơi mà ai cũng biết mạng sống con người như sợi chỉ treo chuông ngàn tấn.

---o0o---

Nguồn: Báo Giác Ngộ. Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/10/2019(Xem: 4640)
Hoà thượng Thượng HOÀN Hạ QUAN, thế danh Phạm Ngọc Thơ. Pháp danh NHƯ CỤ THIỆN. Pháp tự GIẢI TOÀN NĂNG. Pháp hiệu THÍCH HOÀN QUAN. Sinh ngày 16-09-1928 (Năm Mậu Thìn) tại làng Phước Long, nay là thôn Hoà Bình xã Nghĩa Hoà huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Song thân của Ngài là Phạm Công Phạm Khánh Lâm và Cụ bà là Trần Thị Thưởng. Cụ Ông và Cụ bà đã hạ sinh được 6 người con, gồm 2 trai 4 gái, Ngài là người con thứ 5 trong gia đình.
20/10/2019(Xem: 2240)
Hòa thượng thế danh là Võ Hóa, pháp danh Chơn Húy, pháp hiệu Khánh Anh, Ngài sinh năm Ất Mùi (1895) tại xã Phổ Nhì, tổng Lại Đức, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Khi nhỏ, Ngài theo học Nho, luôn tỏ ra là một Nho sinh xuất sắc. Năm 21 tuổi (1916) nhận thấy cảnh thế phù du, cuộc đời là vô thường, giả tạm, Ngài quy y thọ giới tại chùa Cảnh Tiên. Năm 22 tuổi (1917) Ngài được nhập chúng tu học ở chùa Quang Lộc trong tỉnh, được ban pháp danh Chơn Húy. Sẵn có căn bản Hán học vững chắc, Ngài thâm nhập kinh tạng rất mau chóng. Ngài lần lượt thọ giới Sa Di và nghiên cứu Kinh, Luật, Luận rồi thọ giới Tỳ Kheo Bồ Tát với pháp hiệu Khánh Anh. Khi tròn 30 tuổi, Ngài trở thành một vị giảng sư Phật học nổi tiếng.
20/10/2019(Xem: 5312)
Hòa thượng thế danh là Võ Hóa, pháp danh Chơn Húy, pháp hiệu Khánh Anh, Ngài sinh năm Ất Mùi (1895) tại xã Phổ Nhì, tổng Lại Đức, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Khi nhỏ, Ngài theo học Nho, luôn tỏ ra là một Nho sinh xuất sắc. Năm 21 tuổi (1916) nhận thấy cảnh thế phù du, cuộc đời là vô thường, giả tạm, Ngài quy y thọ giới tại chùa Cảnh Tiên. Năm 22 tuổi (1917) Ngài được nhập chúng tu học ở chùa Quang Lộc trong tỉnh, được ban pháp danh Chơn Húy. Sẵn có căn bản Hán học vững chắc, Ngài thâm nhập kinh tạng rất mau chóng. Ngài lần lượt thọ giới Sa Di và nghiên cứu Kinh, Luật, Luận rồi thọ giới Tỳ Kheo Bồ Tát với pháp hiệu Khánh Anh. Khi tròn 30 tuổi, Ngài trở thành một vị giảng sư Phật học nổi tiếng.
20/10/2019(Xem: 4969)
Cố HT. Bửu Chơn tên thật Phạm Văn Tông, sinh ngày 25/10/1914, tại làng An Hội ‒ Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp. Ngài là con của cụ ông Phạm Văn Dư và cụ bà Lê Thị Dương. Tuổi thơ, ngài học ở trường làng, trường Tây, nhờ siêng năng, chăm học nên đã đậu bằng Preme. Năm 1930, ngài sang Nam Vang làm công chức trong cơ quan Việt Nha địa chính.
20/10/2019(Xem: 4274)
Hòa thượng Phước Hậu, pháp húy Trừng Thịnh, pháp tự Như Trung, thuộc dòng Lâm Tế đời thứ 42. Ngài thế danh Lê Văn Gia, sinh năm Bính Dần(1866), nhằm Tự Đức thứ 15, tại xã An Tiêm, huyện Đồng Quan, tỉnh Thái Bình.
20/10/2019(Xem: 5489)
Hòa thượng Pháp húy Ngộ Trí, đạo hiệu Thích Huệ Hưng, thế danh Nguyễn Thành Chẩm, thuộc dòng Thiền Lâm Tế đời thứ 39, là đệ tử Sư tổ Vạn An (Sa Đéc). Ngài sinh năm Đinh Tỵ (1917) tại làng Mỹ Thọ, quận Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Thân phụ là cụ Nguyễn Minh Biện, pháp danh Minh Chiếu, thân mẫu là cụ Trần Thị Mậu, pháp danh Diệu Thiệt. Năm 62 tuổi, cụ bà xuất gia thọ giới Sa di ni.
20/10/2019(Xem: 4085)
Quốc sư tên thật là Nguyễn Tấn Giao, sinh năm Kỷ Tỵ (1869) tại làng Phú Thành, phủ An Nhơn, nay là ấp Phú Thành, xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Thân phụ là cụ Nguyễn Chánh Niệm, tự Hòa Bình, thân mẫu là cụ Nguyễn Thị Lãnh, ông bà đều là những Phật tửthuần thành. Năm 12 tuổi (1881), Ngài được cha mẹ cho phép xuất giatại chùa Thập Tháp, thọ giới với Hòa thượng Chí Tịnh (Minh Lý) được ban pháp hiệu là Phước Huệ. Một thời gian sau, Ngài được Bổn sư cho tới chùa Tịnh Lâm ở huyện Phù Cát, Bình Định theo học với Hòa thượng chùa Châu Long là Ngài Từ Mẫn. Năm 19 tuổi, Ngài trở về giữ chức Thủ khố của Tổ đình Thập Tháp. Năm 20 tuổi Ngài vào chùa Từ Quang ở Đá Trắng huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên theo học với Hòa thượng Luật Truyền (Pháp Chuyên). Ngài thọ đại giới năm 1889 và đắc pháp năm 1892 với Hòa thượng Luật Truyền.
20/10/2019(Xem: 4316)
Hòa Thượng Thích Mật Thể (1912 - 1961) Ngài Mật Thể, pháp danh Tâm Nhất, pháp tự Mật Thể, tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 ở làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, thuộc dòng Thích Lý của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài qui hướng đạo Phật, cụ thân sinh và người anh ruột đều xuất gia.
26/09/2019(Xem: 22774)
Ẩn mình trong dãy Hy Mã Lạp Sơn hùng vĩ là xứ sở Bhutan, một quốc gia nhỏ bé nằm phía sau dãy Hy Mã Lạp Sơn, giống như Tây Tạng, một địa chỉ tâm linh huyền bí và khép kín với thế giới bên ngoài. Đặc biệt đây là một đất nước lấy chỉ số thu nhập GDP không phải là tiền bạc mà là hạnh phúc của con người. Tu Viện Quảng Đức sẽ tổ chức chuyến hành hương thăm viếng Bhutan và Tích Lan từ ngày 26/9 đến 12/10/2019, lệ phí trọn gói: $6,500, số khách giới hạn, xin quý Phật tử hoan hỷ đăng ký sớm. Hạn chót đăng ký và đóng tiền đầy đủ: 25/7/2019. Chuyến đi do Thượng Tọa Trụ Trì Thích Nguyên Tạng làm trưởng đoàn cùng với Đạo Hữu Tony Thạch (giám đốc công ty Triumph Tour) làm trợ lý cho Thầy để lo các công việc cần thiết. Xin quý Phật tử xa gần liên lạc về Tu Viện Quảng Đức (03.9357 3544 hoặc email:[email protected]) để ghi danh tham dự chuyến hành hương chiêm bái này. Chi tiết, xin quý Phật tử thường xuyên vào xem tại trang nhà: www.quangduc.com
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]